Hương Khê là huyện miền núi biên giới của tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với huyện Nakai (tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Huyện có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh. Thiên nhiên, xã hội và con người Hương Khê có nhiều nét đặc sắc, tiêu biểu với nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng. Hương Khê cũng là nơi được cả nước biết đến bởi những đặc sản như: bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, gió trầm…
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ
HUYỆN HƯƠNG KHÊ
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
HÀ NỘI - 2022
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN (GIAI ĐOẠN 1930 - 2000)
Đồng chí NGUYỄN KIM KIỆM - Nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy
Đồng chí PHAN THỊ TẬP - Nguyên Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
Đồng chí PHAN VĂN TÍCH - Nguyên Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
BIÊN SOẠN (GIAI ĐOẠN 1930 - 2000)
PGS, TS. NGÔ ĐĂNG TRI - Nguyên Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử
Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội
Sưu tập tư liệu, ảnh và phối hợp biên soạn
Đồng chí NGUYỄN DUY TỪ - Nguyên Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy
BAN CHỈ ĐẠO CHỈNH LÝ, BỔ SUNG (GIAI ĐOẠN 1930 - 2020)
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY HƯƠNG KHÊ KHÓA XXX
NHIỆM KỲ 2020 - 2025
TRƯỞNG BAN
Đồng chí LÊ NGỌC HUẤN - Tỉnh ủy viên, Nguyên Bí thư Huyện ủy,
Nguyên Chủ tịch HĐND huyện
Đồng chí NGUYỄN THANH ĐIỆN - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy
PHÓ TRƯỞNG BAN
Đồng chí TỪ THỊ HÒA - Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy,
Chủ tịch HĐND huyện
Đồng chí NGÔ XUÂN NINH - PBT, Chủ tịch UBND huyện
THƯỜNG TRỰC BAN CHỈ ĐẠO
Đồng chí HOÀNG QUỐC NHÃ - UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy
Giám đốc Trung tâm Chính trị huyện
BAN CHỈNH LÝ, BỔ SUNG (GIAI ĐOẠN 2000 - 2020)
PGS, TS. NGÔ ĐĂNG TRI - Chủ biên
TS. NGUYỄN VĂN TUẤN
TS. TRỊNH THỊ DUNG
Th.S VƯƠNG THỊ SÂM
Th.S NGUYỄN THỊ MINH GIANG
LỜI GIỚI THIỆU
BAN
Hương Khê là huyện miền núi biên giới của tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với huyện Nakai (tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Huyện có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh. Thiên nhiên, xã hội và con người Hương Khê có nhiều nét đặc sắc, tiêu biểu với nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng. Hương Khê cũng là nơi được cả nước biết đến bởi những đặc sản như: bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, gió trầm…
Lịch sử hình thành và phát triển của huyện Hương Khê gắn với nhiều sự kiện lịch sử lớn của dân tộc: là địa đầu biên ải phía Tây Nam của nước Đại Việt, nơi được vua Trần Giản Định và Trần Quý Khoáng lập căn cứ chống giặc Minh …; Năm 1867 huyện Hương Khê được thành lập, 17 năm sau đó, vua Hàm Nghi lập Sơn Phòng (tại xã Phú Gia) và tại địa điểm này xuống chiếu Cần Vương; Hương Khê cũng là nơi nghĩa quân Phan Đình Phùng, Cao Thắng chọn làm căn cứ tổ chức cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương chống Pháp - khởi nghĩa Hương Khê.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hương Khê là một trong những huyện đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh thành lập được tổ chức Đảng (tháng 4/1930), lãnh đạo Nhân dân đấu tranh mạnh mẽ trong Cao trào cách mạng 1930 - 1931, tiêu biểu là cuộc đấu tranh ở Rôộc Cồn ngày 20/4/1931. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng bộ Hương Khê lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng tháng Tám. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Hương Khê là huyện căn cứ địa hậu phương trọng yếu của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, là ATK quan trọng của Ủy ban kháng chiến hành chính Trung Bộ và Liên khu IV. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Hương Khê là tiền tuyến của hậu phương miền Bắc, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ vừa là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, chiến trường Lào, là địa bàn đóng quân của nhiều đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, nơi đặt Chỉ huy sở Tiền phương của Tổng Cục Hậu cần, của Bộ Tư lệnh 559 - Trường Sơn, nơi ra đời bức ảnh như là biểu tượng chiến thắng của dân tộc Việt Nam “O du kích nhỏ giương cao súng; thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”...
Từ năm 1975 đến nay, Hương Khê ra sức phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế về lao động, tài nguyên, giao thông, từng bước vươn lên, vượt qua khó khăn về kinh tế, xã hội, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, cùng cả nước tiến lên thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhằm ghi lại những sự kiện tiêu biểu trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ Hương Khê, năm 2002, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVI (nhiệm kỳ 2000 - 2005) đã chỉ đạo biên soạn cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê” (1930 - 2000). Cuốn sách có ý nghĩa quan trọng trong công tác chính trị, tư tưởng, không chỉ giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ các giá trị truyền thống tốt đẹp, khơi dậy niềm tự hào về Đảng và cách mạng mà còn rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, có tác dụng nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ, phục vụ sự nghiệp xây dựng huyện Hương Khê ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Kế hoạch số 205-KH/TU, ngày 06/11/2019 của Tỉnh ủy Hà Tĩnh về tiếp tục tăng cường nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục Lịch sử Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê khóa XXX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã ban hành Kế hoạch số 83-KH/HU, ngày 23/3/2022 về việc chỉnh lý, bổ sung sách Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000) và biên soạn tiếp giai đoạn 2000 - 2020, để xuất bản thành sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2020). Đây là việc cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000)”, kịp thời bổ sung quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những kết quả đạt được của Đảng bộ huyện Hương Khê giai đoạn 2000 - 2020.
Trong quá trình chỉnh lý, bổ sung, Ban Chỉ đạo đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các cơ quan chuyên môn tỉnh Hà Tĩnh, cùng các đơn vị, cá nhân trong và ngoài huyện. Ban Biên soạn đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các đồng chí lãnh đạo huyện qua các thời kỳ và kết quả các cuộc Hội thảo. Xin trân trọng cảm ơn các tập thể và cá nhân đã tích cực đóng góp ý kiến và giúp đỡ về nhiều mặt để cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê” (1930 - 2020) được hoàn thành.
Mặc dù Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, chỉnh lý, bổ sung, song do những khó khăn chủ quan và khách quan, cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý bạn đọc để nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách trong lần tái bản tiếp theo.
Nhân dịp kỷ niệm 155 năm thành lập huyện Hương Khê và 93 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2020)” cùng bạn đọc.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI HUYỆN HƯƠNG KHÊ
Huyện Hương Khê nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh, phía Bắc giáp các huyện Vũ Quang và Can Lộc, phía Nam giáp huyện Tuyên Hóa (tỉnh Quảng Bình), phía Đông giáp các huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên, phía Tây giáp huyện Nakai (tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào).
Hương Khê nằm trong thung lũng giữa núi Giăng Màn thuộc dãy Trường Sơn ở phía Tây và dãy Trà Sơn ở phía Đông; địa hình thấp dần theo hướng Nam Bắc. Do bị chia cắt bởi hệ thống sông suối, đồi núi và thung lũng nên địa hình Hương Khê đa dạng, chênh lệch về độ cao giữa các vùng rất lớn. Có thể phân địa hình huyện thành hai vùng chính: vùng đồi núi (chiếm 90% diện tích tự nhiên) và vùng bãi bồi ven sông (chiếm 10% diện tích tự nhiên) được kiến tạo bởi sự xâm thực[1], chủ yếu tập trung ở các khu dân cư xen kẽ đồng bằng, sông suối...
Thời xa xưa, vùng đất Hương Khê thuộc bộ Việt Thường. Thời thuộc nhà Ngô (đầu Công Nguyên) gọi là Nam Lăng. Đời Lý gọi là Đỗ Gia. Thời thuộc Minh gọi là Thổ Hoàng[2] (gồm cả Hương Sơn) rồi tổng Thổ Hoàng, thuộc huyện Hương Sơn. Thời Tây Sơn là phủ Ngọc Ma. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), phủ Ngọc Ma đổi thành phủ Trấn Định, sau đó lại đổi thành châu Quy Hợp rồi trấn Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn. Năm 1831, vùng Hương Khê là phủ Thổ Hoàng của huyện Hương Sơn.
Năm Tự Đức thứ 21 (1867), đã cắt 5 tổng của huyện Hương Sơn để thành lập huyện Hương Khê, bao gồm: Quy Hợp, Chu Lễ, Phương Điền, Phúc Lộc, Hương Khê. Tên huyện Hương Khê có từ đó. Đơn vị hành chính này tồn tại đến tháng 8 năm 2000 thì tách 5 xã (Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Vũ Quang) để thành lập huyện Vũ Quang[3].
Trước năm 2000, Hương Khê có tổng diện tích đất tự nhiên là 185.050 ha; trong đó, đất nông nghiệp 9.850 ha, đất lâm nghiệp 84.494 ha, đất chuyên dùng 5.041 ha, đất thổ cư 3.047 ha, còn lại là đất chưa sử dụng. Năm 2020, diện tích tự nhiên của Hương Khê là 126.294 ha, trong đó đất nông nghiệp 9.528,65 ha, đất lâm nghiệp 79.923 ha, đất chuyên dùng 549,24 ha, đất thổ cư 647,2 ha, đất chưa sử dụng 34.321,9 ha[4].
Đất đai Hương Khê thích hợp với nhiều loại cây ăn quả như: bưởi, cam, mít, nhãn, đặc biệt là bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây ngon nổi tiếng và cây gió trầm cho giá trị kinh tế cao. Rừng núi Hương Khê xưa có nhiều gỗ quý, có giá trị cao như lim, sến, táu, kền kền, dổi, vàng tâm, pơ mu... và nhiều loại động vật quý hiếm như sao la, hổ, voi, gấu, hươu, chim công, chim trĩ,... Đồi trọc ở Hương Khê có thể trồng các loại cây lưu niên, cây ăn quả, cây phục vụ công nghiệp và phát triển chăn nuôi.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm của Hương Khê dao động từ 230C - 25,20C. Hàng năm, gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau mang theo mưa phùn và giá rét. Gió phơn Tây Nam (thường gọi là gió Lào) thổi vào khoảng từ tháng 4 đến tháng 8 (có khi sớm hoặc muộn hơn) gây khô và nóng.
Hương Khê có lượng mưa khá lớn, bình quân từ 1.600 - 2.000 mm/năm. Hàng năm, các cơn bão từ biển Đông vào, đến Hương Khê gặp dãy Trường Sơn chắn ngang, sức gió giảm nhưng lượng mưa trong bão và hoàn lưu bão rất lớn. Do vậy, Hương Khê thường xuyên bị ảnh hưởng lớn của mưa lũ.
Trên địa bàn huyện có nhiều thác ghềnh, khe suối. Tiêu biểu có thác Vũ Môn trên dãy Giăng Màn. Núi Giăng Màn cao 1.400m và thác Vũ Môn cao gần 1.200m so với mực nước biển. Tương truyền, hàng năm đến ngày mồng Tám tháng Tư (âm lịch), cá Gáy (cá Chép) nhảy lên cao thi vượt thác Vũ Môn để hóa rồng: “Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt thác Vũ Môn”. Sách Đại Nam nhất thống chí và Đồng Khánh ngự lãm dư địa chí đã viết: Từ ngoài trăm dặm trông như một dải khói trắng.
Tại xã Phú Gia có Đầm Trăm Năm (Đầm Bách Niên), xưa là rừng nguyên sinh, tương đối bằng phẳng, có một vài đồi thấp, cây cối rậm rạp. Trong rừng có một giếng nước tự nhiên, nước trong suốt, sâu thăm thẳm, màu sắc thay đổi theo mùa. Có ý kiến cho rằng do bị ngập nước, nên khu rừng này còn được gọi là rừng Trầm Lâm. Gần giếng có đền thờ thần tục gọi là đền Trầm Lâm, người dân Hương Khê thường gọi là Miếu Trăm Năm. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Bốn mặt là núi đất, trong đó có cái ao chừng nửa mẫu, sắc nước như chàm, sâu không lường được, mưa lũ không đầy hơn, hạn hán không vơi cạn, trên đầm có đền thờ thần Bách Niên”[5]. Ngày nay, rừng Trầm Lâm cơ bản không còn nữa, nhưng hồ nước trong xanh cùng những huyền thoại xung quanh hồ vẫn được dân địa phương truyền tụng. Miếu Trăm Năm là nơi linh thiêng ở Hương Khê.
Con sông dài nhất ở Hương Khê là sông Ngàn Sâu. Sông bắt nguồn từ phía Nam dãy Giăng Màn, chảy qua các huyện: Hương Khê, Vũ Quang, Đức Thọ, nhập với sông Ngàn Phố từ Hương Sơn về tại ngã ba Tam Soa (Linh Cảm) thành sông La. Sông Ngàn Sâu đoạn qua Hương Khê dài hơn 100km, có các phụ lưu: sông Tiêm, Rào Nổ, Ngàn Trươi, Rào Rồng, Hói Lo, Hói Địa... Sông Tiêm (Rào Tiêm) bắt nguồn từ Ngàn Trụ (khe Vũ Môn, phía Tây xã Phú Gia và một phần Hương Vĩnh) chảy qua các xã vùng Thượng huyện, đến xã Lộc Yên thì hợp lưu với sông Ngàn Sâu. Sông Nổ (Rào Nổ) bắt nguồn từ phía Bắc xã Hòa Hải qua nhiều xã vùng Hạ huyện xuống xã Hà Linh hợp lưu với sông Ngàn Sâu [6].
Các sông, khe, suối ở Hương Khê có độ dốc khá cao. Sông Ngàn Sâu đoạn qua xã Phương Mỹ (nay là Điền Mỹ) quanh co qua chín khúc núi, gọi là chín khúc Hội Nai (có tài liệu ghi là Hồi Lai). Do sông bị kẹp giữa hai dãy núi, lại quanh co uốn lượn chín khúc nên khi có mưa, nước dâng lên nhanh làm ngập làng mạc, ruộng đồng, đồng thời cũng để lại một lượng phù sa lớn bồi đắp cho đồng ruộng và hình thành nhiều bãi phù sa ven sông rất tốt cho sản xuất nông nghiệp.
Lòng đất Hương Khê có nhiều khoáng sản quý như: mỏ than ở Động Đỏ (Hà Linh), mỏ cao lanh ở Hương Châu (Phúc Đồng), mỏ phốt phát ở Phú Lễ (Hương Trạch) và mỏ đá vôi kéo dài từ trung huyện đến thượng huyện, nhất là vùng La Khê, Hương Trạch có trữ lượng lớn.
Giao thông Hương Khê tương đối thuận tiện với cả đường sắt, đường bộ và đường sông, trong đó có các tuyến chính như:
Tuyến đường sắt, dài 41 km, các ga tính từ phía Bắc vào là: Thanh Luyện, Chu Lễ, Hương Phố và Phúc Trạch.
Đường Hồ Chí Minh, theo hướng Bắc - Nam qua các xã: Điền Mỹ, Phúc Đồng, Hương Bình, Hương Long, Thị trấn Hương Khê, Phú Phong, Hương Xuân, Hương Trà, Hương Đô, Phúc Trạch, Hương Trạch rồi vào huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Quốc lộ 15 từ ngã ba Đồng Lộc lên Khe Giao gặp Tỉnh lộ 3 lên cầu Địa Lợi đến Chu Lễ (thị trấn cũ) qua cầu Chợ Vạn đến Ninh Cường, đến Ngầm Lộc Yên lên Hương Đô, La Khê.
Tỉnh lộ 553 từ Thạch Lâm (huyện Thạch Hà) qua xã Lộc Yên gặp đường Hồ Chí Minh tại ngã tư xã Hương Trà và đi vào đồn biên phòng Bản Giàng, xã Hương Vĩnh.
Tuyến đường thủy với các sông: Ngàn Sâu, sông Tiêm, Ngàn Trươi, Rào Nổ thuận lợi cho phát triển kinh tế và đời sống của Nhân dân.
Với hệ thống giao thông đồng bộ, Hương Khê có điều kiện kết nối liên huyện, khu vực và quốc tế. Từ Hương Khê có thể thuận tiện đi đến các địa điểm như: huyện Vũ Quang với Vườn Quốc gia Vũ Quang, huyện Hương Sơn lên cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, huyện Can Lộc đến Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc, thành phố Hà Tĩnh, khu công nghiệp Vũng Áng, khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình), cửa khẩu quốc tế Cha Lo (tỉnh Quảng Bình) và thuận tiện sang Lào, Thái Lan.
Về hành chính, thời Pháp thuộc, Hương Khê có huyện lỵ Chu Lễ và nhiều tổng, mỗi tổng có nhiều làng xã. Đầu thế kỷ XX, Hương Khê có 5 tổng là: Phúc Lộc, Chu Lễ, Quy Hợp, Phương Điền, Hương Khê. Thời kỳ 1930 - 1945, Hương Khê có 3 tổng là Xuân Khánh (vùng thượng huyện), Hà Nam (vùng trung huyện), Trại La (vùng hạ huyện)[7], gồm 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng, một phó tổng. Mỗi xã có một lý trưởng, phó lý và ngũ hương. Đó là bộ máy chính quyền phong kiến ở hương thôn, đều do địa chủ hoặc những tay chân của đế quốc phong kiến có quyền thế nắm giữ.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền bỏ cấp tổng, nhập các làng xã nhỏ thành các xã lớn. Toàn huyện từ hơn 40 làng, lập thành 15 xã và một thị trấn (Chu Lễ). Dân số có 43.703 người, 20.385 cử tri. Các xã lúc bầu Quốc hội khoá I (6/01/1946) là: Song Hương (Hương Khê, Hương Thụ), Văn Thượng (Khê Thượng, Vân Cù, Đan Trai), Phương Mỹ (Mỹ Khê, Phương Điền, Phương Trạch), Vĩnh Hương (Trúc Lâm, Đông Ấp, Hà Linh, Vĩnh Hoà), Phúc Đồng (Văn Đồng, Phúc Hội), Tân Hương (Nam Trạch, Trung Hà, Tri Bản), Hàm Nghi (Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Gia), Hương Thuỷ (Hà Đông, Trung Định, Thượng Thạch), Gia Phố (Vạn Gia, Nhơn Phố, Ninh Cường), Tây Hồ (Lộc Yên, Khả Gia, Yên Lập), Phúc Trạch (Phúc Trạch, Đô Khê, Tân Thành, La Khê), Nam Hương (Chúc A, Vĩnh Cư), Phú Xuân (Phú Phong, Xuân Lũng), Cao Thắng (Hưng Thịnh, Cao Thắng, Loan Dạ), Thịnh Lạc và huyện lỵ Chu Lễ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Hương Khê sắp xếp lại phạm vi hành chính các làng xã. Năm 1948, Hương Khê có 11 xã là: Hương Lĩnh, Tây Hồ, Phú Xuân, Hiệp Phố, Hương Thuỷ, Hương Châu, Phúc Đồng, Tân Hương, Hương Giang, Cao Thắng, Hàm Nghi.
Thời kỳ 1954 - 1972, Hương Khê có 37 xã, chữ đầu tên các xã đặt theo chữ đầu tên huyện. Lấy thị trấn Chu Lễ (thuộc xã Hương Thủy) làm điểm trung tâm thì phía bắc có Hương Quang, Hương Điền, Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ, Hương Nam, Hương Mỹ, Hương Trung, Hương Thái, Hương Luyện, Hương Thu, Hương Thanh, Hương Hà, Hương Châu, Hương Hoà, Hương Đồng, Hương Hải, Hương Bình, Hương Tân; phía nam có Hương Thủy, Hương Long, Hương Phú, Hương Vĩnh, Hương Thịnh, Hương Giang, Hương Phố, Hương Xuân, Hương Phong, Hương Đô, Hương Lạc, Hương Lĩnh, Hương Phúc, Hương Trạch, Hương Lộc, Hương Mai, Hương Liên, Hương Lâm.
Thời kỳ 1972 - 1976, để tạo điều kiện cho sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhiều xã nhỏ được sáp nhập thành xã lớn, như: Hương Hà, Hương Thanh, Hương Thu thành Hà Linh; Hương Trung, Hương Mỹ, Hương Nam thành Phương Mỹ; Hương Lĩnh, Hương Lạc thành Phúc Trạch; Hương Lộc, Hương Mai thành Lộc Yên; Hương Thịnh, Hương Phố thành Gia Phố,... Huyện lỵ Hương Khê được chuyển từ Chu Lễ vào vùng giáp ranh giữa Hương Phong và Gia Phố.
Ngày 4/8/2000, theo quyết định của Chính phủ, 5 xã phía Bắc huyện là Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền và Vũ Quang (nay là Hương Quang) được tách ra để nhập với 6 xã của huyện Đức Thọ và 01 xã của huyện Hương Sơn lập thành huyện Vũ Quang. Huyện Hương Khê còn lại 20 xã và 02 thị trấn.
Ngày 02/01/2004, giải thể thị trấn Nông Trường 20-4, thành lập xã Hương Trà.
Ngày 19/01/2009, thị trấn Hương Khê được mở rộng trên cơ sở sáp nhập 127,80 ha diện tích tự nhiên và 513 nhân khẩu của xã Hương Long; 89,08 ha diện tích tự nhiên và 792 nhân khẩu của xã Gia Phố; 41,14 ha diện tích tự nhiên và 431 nhân khẩu của xã Phú Phong; 3,25 ha diện tích tự nhiên và 77 nhân khẩu của xã Phú Gia.
Ngày 01/01/2020, xã Phương Mỹ và xã Phương Điền được sáp nhập thành xã Điền Mỹ.
Hiện nay, huyện Hương Khê có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn và 20 xã.
Do đặc điểm của vùng rừng núi nên trước kia dân cư ở Hương Khê rất thưa thớt, sau này tăng nhanh bởi dân các địa phương khác di cư đến, như: Đức Thọ, Hương Sơn, Thạch Hà, Can Lộc và cả từ Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình. Vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX, dân số huyện Hương Khê khoảng 30.000 người[8]; đến tháng 4/1999, theo số liệu tổng điều tra dân số tỉnh Hà Tĩnh dân số Hương Khê có 116.414 người[9], chiếm 9,2% dân số toàn tỉnh, mật độ dân số là 63 người/km2. Đến 31/12/2020, tổng số dân huyện Hương Khê là 98.366 người/30.629 hộ[10], mật độ dân số 78 người/km2.
Trước kia, làng mạc, trại ấp thường ở trong các thung lũng, rừng xanh, có nơi cách xa nhau hàng chục cây số, hoặc ở lẻ tẻ ven sông, suối. Xã Trừng Thanh (Hương Vĩnh) thuộc trấn Quy Hợp, dưới thời phong kiến là nơi rừng thiêng nước độc, là nơi chính quyền phong kiến giam giữ, tù đày những người chống lại triều đình.
Nguồn gốc dân Hương Khê khá phong phú, bao gồm: dân bản địa; nông dân các địa phương khác vì bị áp bức, bóc lột, đói khổ chạy nạn lên kiếm kế sinh nhai; một bộ phận vương thân, quan lại phong kiến chạy loạn, lánh nạn lên khai cơ lập nghiệp... Do đó, con người Hương Khê có những phẩm chất quý giá: thông minh, cần cù, trọng nghĩa, tính cách mạnh mẽ, thích ứng nhanh với cuộc sống.
Hương Khê là huyện có nhiều dân tộc cùng sinh sống, bao gồm: dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Chứt, người Lào và người Hoa (trước đây còn có cả người Xiêm - Thái Lan). Trong đó, dân tộc Kinh là đông nhất, chiếm 99% dân số. Dân tộc Chứt (còn gọi là Mã Liềng) trước đây sinh sống gần bản Giàng (xã Hương Vĩnh), những năm 1966 - 1967 huyện tổ chức di dời một số hộ về định cư ở bản Rào Tre, xã Hương Liên. Theo thống kê, năm 1975 dân tộc Chứt ở huyện có 20 hộ với 80 nhân khẩu, đến nay có 61 hộ với 209 nhân khẩu (ở cả hai xã Hương Liên và Hương Vĩnh); dân tộc Mường (còn gọi là người Nguồn) sống ở bản Lòi Sim xã Hương Trạch; người Lào ở bản Phú Lâm, xã Phú Gia và người Hoa sống rải rác ở thị trấn, Hương Đô, Phúc Trạch, Lộc Yên, Hương Xuân...
Ở Hương Khê, tư tưởng Phật giáo, Nho giáo thịnh hành từ rất sớm. Trước năm 1945, trên địa bàn huyện có khá nhiều ngôi chùa. Tuy vậy, qua thời gian và bom đạn chiến tranh, nhiều nơi đã trở thành phế tích. Ngày nay, số phật tử ở Hương Khê sinh hoạt tín ngưỡng tại các ngôi chùa: chùa Phúc Linh (xã Gia Phố), chùa Hạ Phúc (xã Lộc Yên), chùa Lung (xã Hương Thủy), chùa Báo Lâm (xã Hương Vĩnh), chùa Yên Bình (xã Hòa Hải), chùa Đại Giác (xã Gia Phố), chùa Phúc Hưng (xã Hương Đô)...
Thiên chúa giáo du nhập vào Hương Khê từ thế kỷ XVII, tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc mới được truyền bá mạnh mẽ. Năm 1930, rải rác khắp nơi trong huyện đã có tới 11 xứ và 1 sở đạo Thiên chúa với 62 họ, chiếm 10% số dân[11]. Tính đến 2020, Hương Khê có 15 giáo xứ, 63 giáo họ với 28.754 giáo dân, chiếm tỷ lệ 28,94% dân số. Trên địa bàn có nhiều nhà thờ lớn như: Ninh Cường, Làng Truông, Tràng Lưu, Thổ Hoàng... Những xã có giáo dân đông là Gia Phố, Điền Mỹ, Hương Long.
Hương Khê là huyện đất rộng, người thưa, bình quân ruộng đất canh tác tính theo đầu người trước năm 1930 khoảng 7 sào Trung Bộ. Mặc dù có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng dưới chế độ phong kiến, đời sống của người dân hết sức cực khổ. Giai cấp thống trị đã duy trì nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, độc canh, các mặt thuỷ lợi, phân bón không được chú ý, nên năng suất cây trồng rất thấp. Hàng năm, huyện Hương Khê thường gặp hạn hán, lũ lụt gây ra mất mùa nên nhiều vụ sản xuất không có thu hoạch. Đã vậy, tầng lớp quan lại ra sức bóc lột, làm cho đời sống của Nhân dân càng thêm đói khổ.
|
Về kinh tế, trước đây Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm thổ sản, tuy nhiên kỹ thuật sản xuất lạc hậu, lại hay bị thiên tai nên đời sống rất khổ cực. Giai cấp địa chủ ngày càng lớn mạnh, hào lý và địa chủ Nhà chung cũng phát triển thế lực. Trong tổng số 9.210 ha đất canh tác toàn huyện, giai cấp địa chủ chiếm tới 4.745 ha, hào lý và địa chủ Nhà chung chiếm hơn 2.000 ha. Lớn nhất là đồn điền Bùi Huy Tín, tiếp đến là đồn điền Hoàng Bích, Nguyễn Hộ. Ngoài ra, số địa chủ có từ 50 đến 100 ha ruộng đất có Nguyễn Hữu Định (xứ Trại Nại), Võ Thị Trinh, Hiệp Viện, Trần Đình Chuyên, Võ Hoài (xã Gia Phố), Lê Ngọc Giơi (xã Đông Ấp), Võ Tá Tiếp (xã Thượng Bình),... Có nhiều xã, 70% ruộng đất thuộc về địa chủ, như: Gia Phố, Phú Phong, Hương Long, Hương Giang,...
Nhiều địa chủ, tư sản các nơi khác, có cả người Pháp cũng đến Hương Khê bao chiếm đất đai lập đồn điền, trang trại hoặc phát canh thu tô. Loại lớn trên 200 ha có Bùi Huy Tín, địa chủ kiêm tư sản, chủ Nhà máy in Đắc Lập ở Huế, có đồn điền ở Lộc Yên. Loại vừa trên dưới 100 ha có Ngô Soa, Cu Đúc (Coudoux). Loại nhỏ, khoảng 50 ha, có nhiều hơn, như Paoli (Paoli), Bôrêphờrây (Baurefreiy), Phờrốtxa (Frossard), Tôn Thất Quảng,...
Không chỉ bao đất mà tư sản, địa chủ còn bao chiếm cả các cánh rừng, khúc sông suối lân cận làm của riêng, bắt dân nộp lễ vật mỗi khi đi lấy củi, đốt than, thả trâu bò. Nhân dân làng Tế Lễ (Hương Tân) muốn cho trâu bò vào rừng ăn cỏ phải nạp cho địa chủ Bang Trọng mỗi năm 6 quan tiền và một lít rượu.
Do ruộng đất bị địa chủ và thực dân Pháp chiếm đoạt nên nông dân Hương Khê phần đông không có ruộng hoặc thiếu ruộng, bình quân mỗi người dân chỉ có 1 sào 2 thước. Toàn huyện có 5.263 hộ không có ruộng cày, vườn ở, phải suốt đời ở đợ, quanh năm nai lưng làm thuê cho địa chủ, “ăn cơm vay, cày ruộng rẽ”, nuôi con “cơm chéo áo, gạo chéo khăn”[12]. Việc lĩnh canh làm rẽ của dân nghèo cũng không dễ. Họ phải chạy thầy nạp lễ, cầu cạnh, nhẫn nhục mới xin được lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày và khi thu hoạch cũng chỉ được 30% hoa lợi, 70% phải nộp cho địa chủ. Số không được nhận ruộng thì phải trực tiếp đi làm thuê như cày thuê, cuốc mướn, hoặc đi ở cho địa chủ, phú nông, làm việc quần quật suốt ngày mà vẫn bị chửi mắng, xua đuổi, ăn đói, mặc rách. Những năm mất mùa đói kém, những lúc ốm đau, người nông dân Hương Khê lại phải đến nhà địa chủ van xin vay lúa, vay tiền, nợ cũ chưa trả hết lại dồn sang nợ mới.
Địa chủ bóc lột nông dân bằng tô tức, thực dân lại tăng cường bóc lột bằng sưu thuế. Thuế thân là thứ thuế dã man nhất, đánh vào đầu người, mỗi người đàn ông từ 18 đến 60 tuổi mỗi năm phải nộp 2,5 đồng. Ngoài số tiền thuế chính, hàng năm tầng lớp thống trị lại tăng thêm theo tỷ lệ phần trăm, có năm tăng đến 30%. Năm 1925, nhân dịp vua Khải Định làm lễ ăn mừng 40 tuổi, thực dân và phong kiến đã cho tăng thuế lên 30% để lấy tiền chi tiêu cho việc tiệc tùng, chè chén.
Thuế ruộng cũng là một gánh nặng cho Nhân dân. Chính quyền phong kiến chia thuế ruộng đất thành 3 hạng. Mỗi mẫu ruộng hạng nhất phải đóng 1,95 đồng, ruộng hạng nhì phải đóng 1,5 đồng, ruộng hạng 3 phải đóng 1 đồng. Đến năm 1929, hào lý, chức sắc địa phương dùng thủ đoạn sửa lại, thu theo lối ruộng đất hạng nhất, hạng nhì, không có hạng ba. Thực chất ruộng hạng ba chủ yếu là của nông dân, phải tăng nhiều nhất, nên nhiều người phải bán vợ đợ con, chạy vạy để nộp thuế, nhiều khi còn bị đánh đập, tra tấn vì thiếu, chậm thuế.
Ngoài thuế thân, thuế ruộng đất, Nhân dân Hương Khê còn phải nộp nhiều thứ thuế khác, như: thuế chợ, thuế đò... Các đợt xổ số, lạc quyên, bán công trái quốc gia cũng là một hình thức vơ vét thêm tài sản của Nhân dân phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Đến đầu thế kỷ XX, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Hương Khê chậm phát triển. Trong huyện không có một cơ sở công nghiệp nào, chỉ có một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ, tự phát (7 lò rèn trị giá tương đương 16 đồng Đông Dương). Chỉ có một số ít người ở khu vực thị trấn Chu Lễ và một số nơi làm nghề buôn bán tạp hoá, làm nghề thủ công như: dệt vải, ép dầu, ép mía, làm mật, song không có vốn lớn. Hàng xuất đi các nơi chủ yếu là gỗ, nứa, mây song, lá tro, củ nâu, một số trâu bò... giá trị thấp. Hàng nhập là mọi thứ cần dùng trong đời sống hàng ngày, theo đường sông Ngàn Sâu và đường bộ, đường bộ xuống thị xã Hà Tĩnh qua vùng Truông Bát hoang vắng. Đời sống của tiểu thương, thợ thủ công bấp bênh do bị chèn ép, bị bóc lột nặng nề bằng các loại thuế.
Về văn hoá - xã hội, để dễ bề cai trị Nhân dân ta, thực dân Pháp và chính quyền tay sai thực hiện chính sách ngu dân, chúng tìm cách kìm hãm dân trí, mở rất ít trường học, nhà thương. Ngoài ra, chúng khuyến khích việc ăn chơi nghiện ngập, bê tha hòng làm giảm sự phản kháng của Nhân dân và buộc người dân hành động theo sự điều khiển của chúng. Do vậy, đời sống văn hóa trong tình trạng tối tăm, lạc hậu.
Do đời sống khó khăn, thiếu thuốc men nên sức khoẻ của Nhân dân luôn bị đe doạ bởi dịch bệnh, phổ biến là các bệnh ghẻ lở, sâu quặng, sốt rét, thương hàn, tả, lỵ... Năm 1909, nạn dịch tả đã gây ra cái chết hàng ngàn người, có gia đình chết cả nhà, vùng Phú Phong, Trừng Thanh có dòng họ chết gần hết.
Đầu thế kỷ XX, cả huyện chỉ có một trạm xá ở Chu Lễ, với 1 y tá, 1 hộ sinh. Đến năm 1944 mới có thêm 3 trạm xá ở Trúc, Phúc Trạch và tổng Trại La. Nhân dân đau ốm không có nơi cứu chữa nên nạn mê tín dị đoan, cầu cúng diễn ra phổ biến, dẫn đến “tiền mất, tật mang”. Giáo dục không được khuyến khích phát triển mà còn bị hạn chế. Toàn huyện chỉ có 9 trường tiểu học (ở Chu Lễ và 8 trường ở các xã khác). Tổng số học sinh tiểu học cả huyện năm 1930 chỉ khoảng 400 em, chủ yếu cũng là con em nhà khá giả, còn đại bộ phận thanh, thiếu niên, Nhân dân lao động đành chịu thất học, bị mù chữ. Trong khi đó, nạn cờ bạc, rượu chè, đồng bóng, bói toán được duy trì và khuyến khích. Chúng vẫn duy trì 3 đại lý bán rượu cồn ở Chu Lễ, Trúc, Lộc Yên, giao rượu về bắt quan chức phải buộc dân tiêu thụ.
Hạn chế sự phát triển về văn hoá, xã hội, song bộ máy cai trị lại được thực dân Pháp và phong kiến Nam triều ra sức tăng cường. Trước năm 1930, thực dân Pháp đặt bộ máy cai trị ở Hương Khê gồm các cấp huyện, tổng và xã. Toàn huyện được chia thành 5 tổng và 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng và một phó tổng, mỗi xã có một lý trưởng, một phó lý và ngũ hương, phụ trách các thôn. Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, thực dân Pháp cho lập thêm nhiều đồn bốt, trong đó quan trọng là đồn Phúc Trạch và đồn Tri Bản, năm 1928 chúng củng cố đồn binh ở Chu Lễ với trên 50 lính khố đỏ, do một sĩ quan Pháp trực tiếp làm đồn trưởng.
Dựa vào thế lực của thực dân, phong kiến, quan lại, cường hào địa phương đã ra sức ức hiếp, nhũng nhiễu Nhân dân. Chúng đặt ra nhiều thứ bậc, luật lệ để ràng buộc người dân. Việc mua bán ngôi thứ, tranh nhau chiếm đoạt ruộng đất công, tham nhũng công quỹ diễn ra thường xuyên khắp các thôn, xã. Ngoài việc tăng cường bộ máy đàn áp, bóc lột, tầng lớp thống trị còn dùng mọi âm mưu chia rẽ lương giáo, phân biệt đối xử giữa dân ngụ cư và dân chính quán, xúi giục kiện cáo để chia rẽ Nhân dân, làm suy yếu sức đấu tranh để chúng tiện bề vơ vét.
Chuyển biến lớn, sâu sắc của vùng Hương Khê là cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, khi thực dân, tư bản Pháp tiến hành làm tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận của huyện.
Trên tuyến đường sắt Bắc - Nam, đoạn đường sắt Vinh - Đông Hà là đoạn được thực hiện khá chậm. Đoạn này dài 299 km, năm 1922 được khởi công xây dựng từ hai đầu. Khu vực phía bắc, đoạn từ Vinh, tháng 1/1927 sau khi đặt được 89 km đến Tân Ấp đã dừng lại, không tiến về nam mà rẽ nhánh đi về phía Xóm Cục để sang Lào. Từ phía nam, đến tháng 10/1927 đã đặt được 112 km từ Đồng Hới ra Tân Ấp. Tân Ấp, đoạn km 410 trở thành nơi ráp nối của đường sắt miền Bắc và đường sắt miền Trung, thông suốt tàu từ Hà Nội vào Đà Nẵng.
Trong dự kiến mở đường ngang Tân Ấp - Thàkhẹt (Lào) dài 187 km, thì đoạn Tân Ấp - Xóm Cục dài 20km được đặt ray xong vào năm 1933, bắt đầu sử dụng từ ngày 13/9/1933. Cùng năm đó, đoạn Xóm Cục - Banafào (dài 39 km) đã đặt được đường cáp, thường gọi là “không trung thiết lộ”, để vận chuyển hàng hoá, xúc tiến cho việc kéo dài sang nội địa Lào. Đoạn này được đưa vào sử dụng từ ngày 18/12/1933. Kế hoạch nối Banafào - Thàkhẹt bị phá sản. Chi phí cho việc xây dựng đường Tân Ấp - Xóm Cục - Banafào khoảng 20 triệu phrăng, trung bình mỗi km hết 400.000 phrăng[13].
Sự hình thành đoạn đường sắt Bắc - Nam dọc qua huyện và đường ngang từ Tân Ấp sang Banafào đã tác động lớn đến đời sống của Nhân dân Hương Khê. Một bộ phận Nhân dân mất ruộng vườn, phải di chuyển nhà cửa, mồ mả, đi phu, đi lao dịch... Tuy vậy, về khách quan, nó cũng đã làm cho kinh tế, xã hội Hương Khê có những chuyển biến nhất định theo hướng tích cực, làm thay đổi diện mạo của huyện. Đó là việc hình thành và nâng cấp các đường ô tô, khai thông các đường sông, suối, hình thành các nhà ga, các điểm dừng tàu, kéo theo đó là sự ra đời của một số chợ, nhất là việc hình thành đội ngũ công nhân, công chức làm việc trên các tuyến đường, các nhà ga.
Là huyện có đường sắt Bắc - Nam chạy qua nên mối giao lưu mọi mặt giữa Hương Khê với cả nước được mở rộng, kịp thời, nhộn nhịp hơn, đồng thời chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân, tư bản cũng được thực thi mạnh hơn. Sự hoang vắng, lạc hậu và cục bộ được đẩy lùi dần, Nhân dân Hương Khê bắt đầu cảm nhận được những thay đổi của thời cuộc. Phong tục tập quán, lề lối làm ăn bắt đầu có sự thay đổi, sự phân hoá giai cấp, xã hội ngày càng sâu sắc và phong trào yêu nước, dân chủ có điều kiện tiếp thu những tư tưởng mới.
Về cơ bản, đến đầu thế kỷ XX, cùng với sự chuyển biến về kinh tế, nhất là việc hình thành tuyến đường sắt Bắc - Nam qua huyện, Hương Khê cũng có những chuyển biến mạnh mẽ về chính trị, xã hội.
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1. Phong trào yêu nước thời phong kiến
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, qua các chặng đường lịch sử Nhân dân Hương Khê đã có những đóng góp tích cực.
Thời Hậu Trần (1408 - 1414), vua Giản Định và vua Trần Quý Khoáng lập căn cứ tại vùng Ngàn Sâu (vùng Thổ Hoàng - Phương Mỹ ngày nay) để đánh giặc Minh. Nhân dân Hương Khê đã tích cực hưởng ứng giúp vua xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng chống giặc. Các tên gọi như Đồng Dinh, Bãi Phố, Bến Thần, đồng Mục Voi, Lỗ Tiền, Chõ Vua, Cồn Đèn, Đồng Đội… được hình thành thời kỳ này. Đền Tam Công là một dấu tích còn sót lại của thời kỳ này[14].
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của nghĩa quân Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh (1416 - 1427), Nhân dân Hương Khê đã đóng góp sức người, sức của với cả vũ khí, voi chiến. Núi Vũ Kỳ, sau gọi là núi Phù Lê, nay là Phú Lễ (xã Hương Trạch) là nơi đã xây dựng một kho lương thực lớn do Nhân dân Hương Khê đóng góp nuôi nghĩa quân Lê Lợi. Xóm Lò (Gia Phố) là nơi sản xuất các loại vũ khí: hỏa hổ, hỏa pháo, thần cơ thương, gươm giáo … cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Đến thời Lê Sơ, Xóm Lò đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất sắt của cả nước và duy nhất của huyện Hương Sơn[15]. Trên các ngọn đồi ở xã này hiện vẫn còn lại dấu tích những hào sâu đào quặng sắt từ thời xưa. Không hiểu vì lý do gì và vào thời điểm nào, nghề luyện sắt vang bóng một thời ở vùng này không còn được lưu truyền nữa.
Thời kỳ khởi nghĩa Tây Sơn, khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh (1789), Nhân dân Hương Khê đã tích cực giúp nghĩa quân đánh giặc. Hương Khê cũng là bàn đạp cho đội quân của Quang Trung khi tiến sang đất Lào đánh quân Xiêm. Bến sông chợ Trúc, chợ Sòng là những nơi đón tiếp chiến thuyền quân Quang Trung từ Đức Thọ lên. Đồn Quy Hợp (Hương Vĩnh) là nơi thực hiện sự bang giao giữa quốc gia Đại Việt với Ai Lao và Xiêm thời kỳ này. Làng Vạn Gia (Gia Phố) là trạm đón tiếp đội quân của Quang Trung. Đền thờ Quang Trung được xây dựng trên nền đất là nơi đóng quân của nghĩa quân trước đây, đền có tượng các tướng lĩnh và voi ngựa tạc bằng gỗ mít, thường gọi là đền Voi Ngựa. Trong đền còn lưu giữ đôi câu đối nói lên cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, sông núi và con người nơi đây, tương truyền là của vua Quang Trung. Ngoài ra, Hương Khê còn đóng góp cho nghĩa quân nhiều vị tướng giỏi, như: tướng quân Nguyễn Hữu Hộ (xã Hương Thủy), Hồ Văn Hoa (xã Điền Mỹ).
2. Phong trào đấu tranh cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hương Khê là nơi được vua Hàm Nghi chọn làm căn cứ của phong trào Cần Vương chống Pháp. Lũy Voi Dựa ở Đá Đen (La Khê) và thành Sơn Phòng (Phú Gia) là những chứng tích lịch sử ghi nhận nơi vua Hàm Nghi dựng cờ chống Pháp (1884 - 1896). Vua Hàm Nghi đã ban tặng nhiều báu vật như: 2 con voi bằng vàng, một con voi bằng đồng, một con nghê bằng đồng đen, 2 chiếc lược gỗ... và ra chiếu phong thần cho đất Phú Gia để tạ ơn vùng đất đã phò vua (cần vương) cứu nước: “Công phù đại địa trung hưng thánh; Danh trấn Nam thiên thượng đẳng thần”.
Tháng 10/1885, được tin Vua Hàm Nghi ra tới Sơn Phòng - Phú Gia, Phan Đình Phùng (người Đông Thái, Đức Thọ) đã lên yết kiến nhà vua và được trực tiếp giao nhiệm vụ trở về đẩy mạnh phong trào chống Pháp ở địa phương mình[16]. Những năm 1885 - 1896, suốt 12 năm liền, vùng Vũ Quang là căn cứ địa của nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp. Vùng Hói Trùng (Hương Thọ), Hói Trí (Hương Minh) là nơi đã có lúc đặt đại bản doanh của Phan Đình Phùng, Cao Thắng. Vùng Lều Cỏ, Lục Ngừ sang Bọng Nhỏng gần bãi Ngàn Trươi (giữa Hương Điền và Hương Quang) là nơi đặt các cơ sở thợ rèn, thợ mộc, đúc đồng của nghĩa quân. Nhân dân Hương Khê đã đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm nuôi nghĩa quân, đóng góp mâm thau, nồi đồng cho nghĩa quân đúc vũ khí. Các địa phương còn tổ chức cho nông dân vào rừng làm nương rẫy, đẩy mạnh sản xuất lương thực cung cấp cho nghĩa quân. Nhiều người vùng Tri Bản, Phúc Đồng, Thanh Luyện, Trúc Lâm, Phương Điền,... đã đi xây dựng thành luỹ, doanh trại ở căn cứ Vũ Quang hoặc tham gia lực lượng vũ trang của nghĩa quân, một số người được làm cai, đội, thư ký cho cụ Phan Đình Phùng.
Nghĩa quân có 15 quân thứ (cánh quân), trong đó Khê Thứ (cánh quân Hương Khê) do Nguyễn Hữu Châu (ở Thanh Luyện - Điền Mỹ), Nguyễn Thoại chỉ huy là một trong những thứ quân mạnh của cụ Phan. Tháng 8/1892, khi địch mở trận càn lớn lên căn cứ Hói Trùng và Ngàn Sâu, quân dân Hương Khê dưới sự chỉ huy của Cao Thắng đã đánh nhiều trận oanh liệt, như trận quyết tử ở Bãi Ma (Hương Thanh - Hà Linh), trận đồn Tri Bản, chợ Nổ (Hương Hoà - Hòa Hải)[17]. Nổi bật là trận Hói Trùng ngày 13/8/1892 quân ta đã chặn đánh cánh quân do tên Rôbe (Rober) chỉ huy, diệt 16 tên, bắn trọng thương 15 tên. Một số lính giặc dẫm phải chông bị thương, Rôbe phải bỏ chạy. Các cánh quân khác của địch thấy tình hình bất lợi, lại bị nghĩa quân bám sát đánh mạnh, nên cuối cùng, đến ngày 30/8, tất cả phải rút về[18].
Sau khi Cao Thắng hy sinh, cụ Phan Đình Phùng mất, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã bị đàn áp. Song, ở Hương Khê, nhiều tướng lĩnh cùng nghĩa quân vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp, duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian nữa. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng - Cao Thắng lãnh đạo là đỉnh cao của phong trào Cần Vương. Đến cuối năm 1896, cuộc khởi nghĩa bị thất bại.
Từ năm 1897, khi đã cơ bản bình định được Việt Nam, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất). Tại Hương Khê, sau khi triển khai xây dựng xong tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua huyện, kinh tế, xã hội Hương Khê có sự chuyển biến mới, dân cư được bổ sung thêm về số lượng và thay đổi mạnh về cơ cấu. Nhiều người từ các nơi đến Hương Khê để làm ăn, sinh sống, rồi “đất lành chim đậu” định cư lâu dài. Số dân bản địa cũng bị phân hoá, đại đa số vẫn bám ruộng vườn làm nông nghiệp thuần tuý, một số thiếu ruộng cày cấy phải dựa vào nghề rừng để tồn tại. Tuy vậy, cũng có một số dựa vào tư bản, thực dân để làm ăn, phất lên thành địa chủ, chủ đồn điền, một số làm công chức, giáo viên...
Dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, người nông dân Hương Khê phải chịu trăm bề khổ cực. Đối với những người bị phá sản từ các nơi khác lưu tán đến làm ăn hay những người vì chống đối giai cấp thống trị bị chúng trục xuất khỏi quê hương, đưa đi giam giữ ở Hương Khê (như vùng Trừng Thanh - Hương Vĩnh), cuộc sống càng cùng cực hơn. Chính sự áp bức, bóc lột và cuộc sống khổ cực đó đã làm cho tinh thần chống đế quốc, phong kiến của Nhân dân Hương Khê càng thêm quyết liệt.
Vốn không cam chịu sự áp bức bóc lột của phong kiến, đế quốc, Nhân dân từ nhiều nơi mới bỏ xứ tụ họp về Hương Khê sinh cơ lập nghiệp. Do đó, đã hình thành trong mỗi người dân truyền thống đấu tranh bất khuất chống áp bức cường quyền và quả cảm trong khắc phục thiên tai, tự lực, tự cường trong xây dựng cuộc sống. Trước chính sách thống trị, khai thác thuộc địa mới của tư bản, thực dân, phong kiến, địa chủ, cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê càng quyết liệt hơn. Sự du nhập những tư tưởng cứu nước mới, sự mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa với các nơi đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà cách mạng, các chiến sĩ cộng sản ở Hương Khê.
Cuối thế kỷ XIX, tuy phong trào Cần Vương với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hương Khê bị dập tắt, song Nhân dân Hương Khê vẫn nuôi ý chí yêu nước, kiên cường, bất khuất chống thực dân, phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến có sự chuyển biến mới, bắt đầu từ vùng Hà Linh.
Năm 1905, cụ Nguyễn Duy Phương, còn gọi là Tú Phương[19], người Hà Linh, một nhà Nho yêu nước đã hội kiến với cụ Phan Bội Châu bàn chuyện phát triển phong trào Đông Du, đưa người sang Nhật Bản học tập, cầu viện để chống Pháp, mở đầu cho phong trào dân tộc, dân chủ theo khuynh hướng mới - khuynh hướng dân chủ tư sản.
Hà Linh là nơi các văn thân yêu nước như Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân thường lui tới cùng cụ Tú Phương bàn bạc việc hoạt động cách mạng. Phong trào đấu tranh của Nhân dân Hà Linh và các xã lân cận như Trúc Lâm, Đông Ấp đầu thế kỷ XX đã có sắc thái mới và ngày càng lên cao, khiến thực dân Pháp phải chùn tay, ít khi về bắt phu, bắt lính ở đây. Hào lý địa phương cũng không dám hống hách, nhũng nhiễu dân chúng như ở các xã khác.
Một khu trại cày sản xuất lương thực (trại Anh Quỳnh) và một quán nước ở Truông Bát đã được cụ Tú Phương cho xây dựng làm nơi liên lạc, trạm tiếp tế cho các nhà yêu nước trên đường qua Hương Khê để sang Lào, Thái Lan (Xiêm) tránh sự truy bắt của đế quốc, phong kiến Nam triều và tìm đường cứu nước. Các nhà cách mạng tiền bối quê vùng Nghệ - Tĩnh phần nhiều đã theo con đường bộ này để sang Thái Lan rồi từ Thái Lan mua vé tàu thuỷ sang Nhật trong phong trào Đông Du, hoặc sau này sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức.
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Duy Tân do cụ Phan Chu Trinh lãnh đạo, cùng với các nơi ở Trung Kỳ và Hà Tĩnh, Nhân dân Hương Khê đã có nhiều cuộc đấu tranh chống sưu thuế. Cụ Nguyễn Duy Phương đã dẫn đầu một đoàn người gồm hàng trăm nông dân kéo về tỉnh lỵ Hà Tĩnh đấu tranh đòi giảm sưu, thuế. Cụ bị thực dân Pháp bắt, kết án 7 năm tù và bị đưa đi đày ở Côn Đảo với nhiều người khác của Hà Tĩnh như: Lê Văn Huân, Phạm Văn Ngôn (Đức Thọ). Những người Hương Khê khác như: Nguyễn Trang (con của Nguyễn Chanh), Nguyễn Hét (con của Nguyễn Trạch) kế tục sự nghiệp vẻ vang của cha, đã lấy núi Mỹ Khê (xã Điền Mỹ) làm căn cứ địa để hoạt động tài chính và làm nơi liên lạc đưa thanh niên yêu nước sang Xiêm huấn luyện về hoạt động chống Pháp.
Sau khi cụ Tú Phương ra tù, phong trào ở Hà Linh, Trúc Lâm lại tiếp tục được đẩy lên cao, trở thành trung tâm của phong trào toàn huyện. Năm 1919, thầy giáo Lê Viết Lượng, người huyện Can Lộc, làm giáo viên Trường Tiểu học Hương Khê đã cùng với thầy giáo Nguyễn Hậu[20], giáo viên Trường Tiểu học Gia Phố đã đến gặp cụ Tú Phương bàn cách tìm đường cứu nước. Năm 1920, họ quyết định lập ra tổ chức “Hội Bài Pháp”, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp xây dựng một nhà nước dân chủ.
Sau khi ra đời, Hội Bài Pháp thu hút được nhiều công chức, giáo viên, nhà Nho tiến bộ, xây dựng được tổ chức rộng rãi ở nhiều thôn, xã trong huyện. Hội đã vận động nhân dân đấu tranh chống hào lý hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế, không nộp tiền phạt trong vụ án “đốt rừng” do toà án Vinh xét xử, đòi bồi thường thiệt hại cho dân vùng ven đường sắt do mất đất đai, hư hại ruộng vườn, nhà cửa. Hội cũng vận động công nhân công trường làm đá La Khê, phu lục lộ đường sắt đấu tranh đòi cai kíp, chủ thầu bảo đảm các quyền lợi như đã cam kết. Các xã Hà Linh, Đô Khê là những nơi có phong trào phát triển mạnh. Nhân dân đấu tranh chống chính sách bóc lột của quan chức địa phương, hình thành phe dân đấu tranh với phe hào quyết liệt. Nhiều phen hào lý phải chùn bước, phải hỏi ý kiến của dân trong các công việc địa phương.
Tuy hoạt động của Hội Bài Pháp được Nhân dân hưởng ứng, có đưa lại một số quyền lợi, song về cơ bản vẫn bế tắc về đường lối và phương hướng hoạt động. Để có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, Hội Bài Pháp chủ trương tổ chức cho một số hội viên xuất dương ra nước ngoài, chủ yếu là sang Xiêm (Thái Lan) để tìm gặp những người đang hoạt động cách mạng ở bên đó. Trong khi Nguyễn Hậu, Nguyễn Trương dẫn đầu số xuất dương lo việc sang Xiêm thì số ở địa phương do Nguyễn Duy Phương, Lê Viết Lượng lãnh đạo đã ra sức phát triển cơ sở, kết nạp hội viên và làm tài chính để gây quỹ cung cấp cho số xuất dương hoạt động[21].
Giữa năm 1920, nhóm xuất dương có 3 người, do thầy giáo Nguyễn Hậu phụ trách lên đường sang Xiêm, song vì chuẩn bị chưa kỹ nên sau một thời gian ở Xiêm mà không gặp được tổ chức cách mạng, đành phải trở về. Do không liên lạc được với tổ chức cách mạng, ở bên ngoài lại có một số giáo viên bị thuyên chuyển công tác nên hoạt động của nhóm hội này gặp lúng túng và đến cuối năm 1921 thì tự giải tán.
Trước tình hình đó, năm 1922, thầy giáo Nguyễn Hậu tìm gặp một số người có tinh thần yêu nước, đã tham gia các phong trào Đông Du, Duy Tân tổ chức ra nhóm cách mạng mới lấy tên là “Việt Nam độc lập Hội”, còn gọi là nhóm Xuân Thu (bí danh của đồng chí Nguyễn Hậu). Việt Nam độc lập Hội có một số hội viên trong công nhân đường sắt và trong giáo viên. Hoạt động chưa lâu thì thầy giáo Nguyễn Hậu bị đổi đi dạy học ở Nghi Xuân, nên Việt Nam độc lập Hội cũng ngừng hoạt động. Có thể khẳng định Hội Bài Pháp và tiếp đó là Việt Nam độc lập Hội đã có nhiều cố gắng trong việc truyền bá các tư tưởng mới, gây được một số hoạt động yêu nước ở Hương Khê những năm 1919 - 1925.
Thời gian này, trước những chuyển biến mới của tình hình cách mạng trong tỉnh cũng như trên cả nước và do yêu cầu của số đông quần chúng, các sĩ phu yêu nước như: Lê Văn Huân (người Đức Thọ), Nguyễn Đình Kiên (Tú Kiên, người Hương Sơn) hết hạn tù ở Côn Đảo trở về đã cùng với một số thanh niên như Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn... quyết định thành lập một tổ chức cách mạng lấy tên là Hội Phục Việt. Ngày 14/7/1925, cuộc họp chính thức thành lập Hội đã được tổ chức tại núi Con Mèo, trên đoạn đường Vinh đi Bến Thuỷ.
Sau cuộc họp thành lập Hội, các hội viên chia tay nhau về địa phương tuyên truyền phát triển tổ chức. Nhiều nhà Nho có chí khí, các nhà giáo trẻ và một số ít người trong các tầng lớp tiểu tư sản khác đã được những người sáng lập Hội Phục Việt gặp gỡ giải thích mục đích và vận động tham gia Hội. Mùa thu năm 1925, Nguyễn Sỹ Sách, giáo viên Trường Tiểu học Pháp - Việt (thị xã Hà Tĩnh) đã nhận trách nhiệm gây cơ sở ở đây. Tư tưởng yêu nước, cách mạng được truyền bá trong giáo viên, học sinh và nhóm hội viên đầu tiên được xây dựng gồm Nguyễn Thế Tự, Trần Tích Thiện, Nguyễn Công Hoạch, Lê Bá Cảnh, Nguyễn Huy Lung, Nguyễn Đình Chuyên. Tổ chức Hội Phục Việt tuy chưa phát triển rộng rãi, nhưng đã ít nhiều tác động đến tư tưởng của tầng lớp sĩ phu yêu nước và những thanh niên tiểu tư sản khác ở Hà Tĩnh. Trong những năm 1925 - 1926, các hoạt động yêu nước trong giáo viên, học sinh, công chức hưởng ứng phong trào đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh phát triển khá sôi nổi. Mặc dầu chưa có đường lối chính trị rõ ràng, Hội Phục Việt đã cổ vũ tinh thần và hé ra một tia sáng đối với những người lâu nay đang mong muốn có cơ hội đem sức mình ra cứu nước.
Trong sự chuyển biến chung đó, bộ phận Hội Bài Pháp do cụ Tú Phương đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động với trung tâm là vùng Hà Linh. Khi Hội Phục Việt được thành lập, bộ phận Hội Bài Pháp này được chuyển thành chi hội Phục Việt Hương Khê. Năm 1926, chi hội Phục Việt Hương Khê được Tỉnh hội Phục Việt Hà Tĩnh công nhận là một chi hội chính thức. Sau đó ít lâu, Hội Phục Việt đổi thành Hội Hưng Nam và năm 1928 thành Tân Việt cách mạng Đảng, chi hội Phục Việt (Hưng Nam) Hương Khê cũng được đổi thành Đại tổ Tân Việt Hương Khê, với bí danh là Đại tổ Ngọ. Đại tổ Ngọ có một số tổ chức cơ sở trong công nhân, phu lục lộ đường sắt, trong các công trường đá dọc đường sắt, trong đồn điền Bùi Huy Tín, Tôn Thất Quảng, Hoàng Bích..., có các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, học sinh, giáo chức.
Phong trào yêu nước, cách mạng Hương Khê do Hội Phục Việt, tiếp đó là Tân Việt cách mạng Đảng lãnh đạo, ngoài trung tâm chung là Hà Linh, ở vùng thượng huyện cũng hình thành một đầu mối quan trọng là Trường Tiểu học Hương Khê. Tháng 4/1927, tại đây, các thầy giáo Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức đã thành lập một tiểu tổ của Hội Phục Việt. Buổi lễ thành lập tiểu tổ Phục Việt Trường Tiểu học Hương Khê diễn ra tại chùa Trung Định (Hương Thủy) cũng là lễ kết nạp đồng chí Phạm Quang Thu vào Hội. Tiểu tổ đã ra sức tuyên truyền tư tưởng yêu nước, cách mạng trong học sinh, giáo chức và tổ chức nhiều nhóm đọc sách báo, truyền tin về thời cuộc trong nước và thế giới ở các làng xã lân cận. Thông qua các môn học lịch sử, địa dư, lúc công khai, lúc bí mật, các đồng chí đã truyền đạt đến học sinh những vấn đề về chính trị, tư tưởng cách mạng, hướng họ đi vào đấu tranh chống chế độ thực dân phong kiến.
Công tác xây dựng tổ chức của tiểu tổ được duy trì khá đều đặn, mỗi tháng họp một lần. Nội dung sinh hoạt thường là phổ biến tình hình, chủ trương của Tân Việt cách mạng Đảng, nhấn mạnh nhiệm vụ đảng viên là phấn đấu hy sinh cho lý tưởng lật đổ chính quyền thực dân Pháp và Nam triều, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Đảng viên phải tuyệt đối giữ bí mật, phải ra sức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng Tân Việt cho quần chúng, theo dõi giới thiệu người để kết nạp vào Đảng Tân Việt...
Ngoài các hoạt động nói trên, tiểu tổ Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê còn tổ chức một cuộc bãi khoá tẩy chay viên mật thám Bát Tạo, do địch cài vào làm giáo viên trong trường. Cuộc tẩy chay đã thu được kết quả, buộc Ty Giáo dục Hà Tĩnh phải điều Bát Tạo đi nơi khác. Tuy nhiên kẻ địch đã điều tra, lùng sục, bắt bớ một số người tham gia đấu tranh. Hai thầy giáo bị nghi là đứng đầu lãnh đạo cuộc bãi khóa phải lui vào hoạt động bí mật, hai người khác bị bắt giam một thời gian.
Bên cạnh các hoạt động tại địa phương và sinh hoạt nội bộ, tổ chức Tân Việt ở Trường Tiểu học Hương Khê và ở Hà Linh cũng thường xuyên liên lạc, trao đổi, nhận định tình hình với nhau và với các nhà Nho trong huyện. Đồng chí Nguyễn Quốc Nhiếp (con cụ Tú Chế, Hà Linh) đã phối hợp với các giáo viên ở Trường Tiểu học Hương Khê chuyển tài liệu của Tân Việt Hà Tĩnh lên Lộc Yên, đi Hạ Vàng, Đô Khê, Phúc Trạch với kế hoạch cải trang và phương án thoát thân khá tỉ mỉ.
Đến đầu năm 1929, tiểu tổ Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê đã có 8 đảng viên, chia làm 3 tổ để sinh hoạt. Phụ trách chung lúc đầu là đồng chí Lê Viết Lượng, sau vụ bãi khoá, các đồng chí Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức tạm ngừng hoạt động để che mắt địch, đồng chí Phạm Quang Thu được cử phụ trách chung. Đồng chí Lê Viết Lượng đã đưa đồng chí Phạm Quang Thu về tỉnh gặp các đồng chí Lê Bá Cảnh, Nguyễn Văn Lung để liên hệ công tác.
Mùa hè 1929, khi các đồng chí Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức bị đổi đi dạy ở nơi khác, đồng chí Phạm Quang Thu chuyển đi học lớp nhất ở Đức Thọ, tỉnh đưa đồng chí Nguyễn Xuân Linh lên thay đồng chí Phạm Quang Thu. Đồng chí Nguyễn Xuân Linh được bố trí dạy tư tại nhà cố Zuy, cuối mùa hè 1929, thì bị địch bắt tại Vinh. Trước tình hình đó, đồng chí Phạm Quang Thu đưa đồng chí Mai Minh xuống tỉnh gặp đồng chí Lê Bá Cảnh và đồng chí Nguyễn Văn Lung đề nghị chấp nhận đồng chí Mai Minh đảm nhận công tác thay đồng chí Nguyễn Xuân Linh.
Các cuộc đấu tranh do các hội viên Hội Phục Việt, sau đó là do các đảng viên Đảng Tân Việt tổ chức vận động ở các trường học đã có ảnh hưởng tích cực đến vùng nông thôn và các đồn điền, công trường giao thông. Trong những năm 1927 - 1928, các tiểu tổ Tân Việt ở các thôn xã đã vận động nông dân đứng lên chống hào lý, chức sắc hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế. Công nhân các đồn điền, các công trường làm đường, làm đá cũng đoàn kết đấu tranh đòi giải quyết một số quyền lợi về kinh tế như tăng tiền lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt.
Mặc dù là một Đại tổ (tổ chức cấp huyện) của Tân Việt cách mạng Đảng, song trước ảnh hưởng ngày càng mạnh của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, Đại tổ Tân Việt ở Hương Khê ngả dần về con đường cách mạng vô sản.
Tình hình kinh tế, xã hội và phong trào yêu nước ở Hương Khê với những chuyển biến như vậy là cơ sở cho sự tiếp nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng bộ Hương Khê sau này.
CHƯƠNG I ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG CHỐNG ĐẾ QUỐC, PHONG KIẾN (1930 - 1931)
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ VÀ ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG BỘ
Hương Khê là nơi có di tích lịch sử Thành Sơn Phòng Hàm Nghi và căn cứ Vũ Quang của nghĩa quân Phan Đình Phùng - minh cứng cho tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại sâm của Nhân dân nên bị thực dân Pháp đặc biệt chú ý và tiến hành đàn áp các phong trào yêu nước hết sức dã man. Chúng cho dựng lên nhiều đồn bốt để kìm kẹp Nhân dân ta, lớn nhất là đồn Phúc Trạch và đồn Tri Bản. Dù bị đàn áp, kìm kẹp gắt gao, Nhân dân Hương Khê vẫn kiên cường tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Hậu trong khi đang dạy học ở Nghi Xuân đã được đồng chí Lê Duy Điếm[22] cung cấp cho các tài liệu của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và chủ trương cứu nước, cứu dân theo con đường cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Có tài liệu và phương hướng hoạt động mới, đúng đắn, đồng chí Nguyễn Hậu xin về dạy học ở huyện nhà và vận động thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Hương Khê[23]. Tháng 9/1926, nhóm Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Hương Khê được thành lập, gồm 15 hội viên. Sau khi ra đời, Hội đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân. Sau khi phát hiện dấu hiệu hoạt động mới của tổ chức này, đế quốc, phong kiến đã nhanh chóng tìm cách phá hoại. Do đó, hoạt động chưa được bao lâu thì đồng chí Nguyễn Hậu và một số hội viên của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên bị bắt, tổ chức này bị mất liên lạc, phải tạm ngừng hoạt động.
Việc ở Hương Khê đã có người tiếp thu được chủ trương cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu mốc mở đầu cho sự hình thành Đảng bộ Hương Khê sau này. Từ đây, tư tưởng cách mạng được hình thành và lớn lên không chỉ trong các chí sĩ, nhà Nho yêu nước, trong đội ngũ công nhân giao thông đường sắt, đường bộ mà quan trọng hơn là thâm nhập mạnh vào tầng lớp học sinh, giáo chức, dấy lên phong trào yêu nước trong học sinh các trường tiểu học theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Do tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chưa có cơ sở vững chắc nên trên thực tế, phong trào yêu nước ở Hương Khê thời kỳ này chủ yếu vẫn do Hội Phục Việt, rồi Hội Hưng Nam và Tân Việt cách mạng Đảng lãnh đạo.
Các cuộc đấu tranh đó mặc dầu đã có hình thức, nội dung cao hơn trước, song cơ bản vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng tiểu tư sản, tư sản, chưa có một đường lối chính trị rõ rệt và đúng đắn. Hoạt động của Đại tổ Tân Việt Hương Khê so với các tổ chức yêu nước trước đó tuy có tiến bộ hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng.
Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Hà Nội, đã nhanh chóng cho đảng viên vào các tỉnh Trung Kỳ tuyên truyền cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Được sự giúp đỡ của chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Trường Quốc học Vinh, cuối năm 1929, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Trường Tiểu học Pháp - Việt Thị xã Hà Tĩnh được thành lập, do đồng chí Lê Bá Cảnh làm Bí thư. Đây là chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở Hà Tĩnh[24].
Sự tuyên truyền, vận động của Đông Dương Cộng sản Đảng đã ảnh hưởng, thu hút sự chú ý của các hội viên Tân Việt, thanh niên và các trí thức yêu nước khác, nhanh chóng chuyển hoá các tổ chức yêu nước tiến bộ ở đây thành các chi bộ cộng sản. Những đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt quyết định cải tổ tổ chức Tân Việt thành Đảng cộng sản và cuối năm 1929, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập tại huyện Đức Thọ. Sau sự kiện này, Đảng Tân Việt bị phân liệt, Đại tổ Tân Việt Hương Khê chấm dứt hoạt động. Các đảng viên Tân Việt ở Hương Khê nóng lòng mong chờ gia nhập tổ chức cách mạng mới là Đảng Cộng sản.
Tháng 01/1930, đồng chí Trần Hữu Thiều[25], cán bộ của Xứ ủy Đông Dương Cộng sản Đảng Trung Kỳ lên Hương Khê gây dựng tổ chức, thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở Hà Linh, gồm 5 đảng viên người Hà Linh (Hương Hà) và Trúc Lâm (Hương Thanh). Sự ra đời của chi bộ Hà Linh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là mốc mở đầu, đánh dấu sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở Hương Khê.
Trong khi chi bộ Hà Linh đang ra sức tuyên truyền, kết nạp đảng viên mới, tổ chức thêm các chi bộ ở các xã khác thì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Đông Dương được tiến hành ở Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng tổ chức và phát triển lực lượng cộng sản ở Hà Tĩnh. Cuối tháng 3/1930, được sự ủy nhiệm của Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí Trần Hữu Thiều đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng bộ lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh. Hội nghị được tiến hành tại bến đò Thượng Trụ (xã Thiên Lộc, Can Lộc), bao gồm đại biểu của các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn trong tỉnh. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ do đồng chí Trần Hữu Thiều (tức đồng chí Lai, đồng chí Nguyễn Trung Thiên) làm Bí thư[26]. Theo chủ trương chung của Đảng, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Hà Linh được chuyển thành chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Hương Khê.
Bằng sự nỗ lực của mình và đáp ứng yêu cầu của những người cùng chí hướng, chi bộ Hà Linh đã nhanh chóng kết nạp đảng viên mới và thành lập các chi bộ ở các xã có đủ điều kiện. Đến tháng 4/1930, Hương Khê đã có thêm các chi bộ Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Phúc Ấm (Hương Long), Đô Khê (Hương Đô), Phú Phong (Hương Phong), Xuân Lũng (Hương Xuân), Gia Phố (Hương Phố), Thượng Thạch (Hương Thủy). Với sự xuất hiện nhiều chi bộ ở các vùng trong huyện, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hương Khê hình thành trên thực tế với đầu mối liên lạc, chỉ đạo chung là các chi bộ Hà Linh và Trúc Lâm, trực thuộc Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh[27].
Nhóm Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê trong xu hướng chuyển hoá sang Đảng Cộng sản, các hội viên đã có những hoạt động mới theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng theo tuyến chỉ đạo từ Đức Thọ lên, thông qua đồng chí Phạm Quang Thu. Khi được chi bộ Đảng ở Trường Tiểu học Đức Thọ giao nhiệm vụ về Hương Khê tổ chức rải truyền đơn nhân kỷ niệm ngày sinh của V.I.Lênin, đồng chí Phạm Quang Thu, với tư cách là người phụ trách cũ, đã nhóm họp các hội viên Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê (phần lớn là người Hương Thuỷ) bàn bạc việc rải truyền đơn. Đúng 3 giờ sáng ngày 22/4/1930, các hội viên đã rải truyền đơn với danh nghĩa của Đảng Cộng sản tuyên truyền kỷ niệm ngày sinh V.I.Lênin, ủng hộ Liên Xô. Truyền đơn đã xuất hiện ở khu vực Thuỷ Lâm, chợ Sòng, ga Chu Lễ, huyện lỵ. Qua sự kiện này, tổ chức Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê đã chính thức chuyển hóa thành tổ chức cộng sản ở Hương Khê.
Về cơ bản đến giữa năm 1930, tuy chưa lập được huyện ủy, nhưng Đảng bộ Hương Khê đã được hình thành với trên 10 chi bộ và gần 100 đảng viên. Hoạt động của Đảng bộ thời kỳ đầu lấy các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm làm đầu mối liên lạc và do đồng chí Mai Kính, Tỉnh ủy viên phụ trách Hương Khê trực tiếp chỉ đạo. Các tổ chức quần chúng do Đảng bộ lãnh đạo cũng lần lượt được xây dựng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội.
Đảng bộ Hương Khê ra đời là bước ngoặt trọng đại trong lịch sử huyện Hương Khê và lịch sử Đảng bộ Hương Khê, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của phong trào cách mạng trong huyện, thời kỳ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giữa lúc phong trào cách mạng của Hương Khê bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới thì phong trào chống đế quốc, phong kiến trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển mạnh.
Từ đầu năm 1930, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng công - nông đã nổ ra ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, báo hiệu sự bùng nổ của phong trào cách mạng trên cả nước. Tin tức các cuộc đấu tranh của công - nông Hà Nội, Nam Định, Phú Riềng, Dĩ An, nhất là của công nông Vinh - Bến Thuỷ trong và sau ngày 1/5/1930 dồn dập được truyền về Hương Khê, gây xôn xao tinh thần quần chúng lao động trong huyện. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và được phong trào của cả nước, của vùng Nghệ - Tĩnh cổ vũ, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng hoà vào trào lưu cách mạng chung. Các cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến ở Hương Khê được nhen nhóm từ đầu năm 1930 và càng về sau càng phát triển mạnh. Nhân dân các xã Trúc Lâm, Hà Linh, Phúc Đồng, Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Phong, Gia Phố,... liên tục có các cuộc mít tinh, hội họp nghe cán bộ, đảng viên diễn thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, về Liên Xô, về phong trào các nơi trong nước, trong tỉnh. Nhiều cuộc mít tinh đã trở thành các cuộc thị uy, lên án sự áp bức, bóc lột của địa chủ cường hào, tố cáo quan lại, chức sắc hạch sách Nhân dân, đề cao thanh thế giai cấp công - nông và Đảng Cộng sản.
Cuối năm 1930, phong trào cách mạng ở Hương Khê đã bắt kịp với cao trào chung, đạt tới đỉnh cao về quy mô, số lượng, hình thức và tính chất đấu tranh. Qua đấu tranh, tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng được tăng cường. Các tổ chức quần chúng được củng cố và tăng thêm hội viên. Ở 13 xã có phong trào mạnh, Nông hội đỏ có 2.210 hội viên, Hội Phụ nữ có 1.655 hội viên, Đoàn Thanh niên Cộng sản có 731 đoàn viên, Tự vệ có 862 đội viên, Hội Cứu tế, tán trợ có 760 hội viên.
Ở những nơi chưa có chi bộ Đảng, chi bộ các xã, thôn lân cận đã hỗ trợ cán bộ giúp tổ chức ra các đoàn thể quần chúng, gây dựng cơ sở, kể cả những nơi đông đồng bào theo đạo Thiên chúa như Ninh Cường (Gia Phố), Chúc A (Hương Lâm), Vĩnh Cư (Hương Liên), Vạn Tân. Nhờ đó, tuy có muộn hơn, song dần dần ở những nơi như: Ninh Cường, Chúc A, Vĩnh Cư,... các cơ sở quần chúng đã được xây dựng và nhiệt tình giúp đỡ cán bộ khi qua lại hoạt động.
Trên cơ sở các chi bộ đã được thành lập ở nhiều nơi, số đảng viên tăng lên không ngừng, để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phong trào, ngày 20/11/1930, tại xã Trúc Lâm (Hương Thanh), Đảng bộ Hương Khê đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ nhất với sự có mặt của đại biểu các chi bộ trong toàn Đảng bộ và đại diện của Tỉnh ủy Hà Tĩnh[28].
Đại hội đã kiểm điểm tình hình và sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với phong trào cách mạng Hương Khê từ khi thành lập đến tháng 11/1930. Đại hội cho rằng, phong trào ở Hương Khê tuy mở đầu có chậm so với một số nơi, song đến mùa thu năm 1930 đã phát triển sôi nổi, và từ ngày 7/11/1930 đã đạt tới cao trào, hoà nhịp với cao trào chung của vùng Nghệ - Tĩnh và các nơi khác.
Các cuộc đấu tranh do Đảng bộ lãnh đạo với sự hưởng ứng của đại đa số Nhân dân trong huyện, nhất là các tầng lớp công - nông, đã chứng tỏ đường lối, chủ trương của Đảng bộ là phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân trong huyện, thể hiện vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng trong quần chúng. Kết quả của các cuộc đấu tranh đã đưa lại những lợi ích thiết thực cho Nhân dân lao động, hạn chế phần nào sự áp bức, bóc lột của địa chủ, quan lại, động viên tinh thần cách mạng của quần chúng, đưa phong trào Hương Khê thành một bộ phận của phong trào chung, góp phần làm nên cao trào cách mạng của toàn tỉnh và cả nước...
Đại hội đã quán triệt đường lối cách mạng của Đảng, trực tiếp là chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ và của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, bàn định chủ trương, biện pháp thực hiện ở địa phương, qua đó để phát triển lực lượng cách mạng và xây dựng Đảng bộ thêm lớn mạnh. Đại hội nêu lên nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ là tập trung lãnh đạo cao trào cách mạng của quần chúng đang lên cao, đưa lại lợi ích cho Nhân dân lao động. Đại hội quyết định:
- Tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng chống đế quốc, phong kiến lên cao hơn nữa để hưởng ứng và phối hợp, hỗ trợ phong trào ở các địa phương khác theo chủ trương chung của Tỉnh ủy, Xứ ủy.
- Thông qua phong trào đấu tranh của Nhân dân mà lựa chọn những quần chúng ưu tú đưa vào Đảng, phát triển lực lượng của Đảng. Củng cố các chi bộ đã có và thành lập chi bộ mới để lãnh đạo phong trào, phát triển tổ chức đảng.
- Tích cực phát triển hội viên các hội quần chúng, củng cố các tổ chức Nông hội, Tự vệ, Thanh niên, Phụ nữ, Hội Cứu tế đỏ, Hội Tán trợ, nhằm làm cho cơ sở Đảng được mở rộng, vững chắc.
- Vận động các gia đình khá giả cho các gia đình nghèo vay mượn tiền, lúa lúc giáp hạt tháng ba và lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi giảm bớt lễ lạt trong dịp Tết, đòi hoãn nợ, giảm nợ lãi, bỏ bớt tế tự, đình đám nhằm cải thiện dân sinh và chuẩn bị tinh thần cho quần chúng đấu tranh, đòi chia ruộng đất công, giảm ách bóc lột của địa chủ, cường hào, chức sắc làng xã.
Ban Chấp hành Đảng bộ khoá đầu tiên được Đại hội bầu ra gồm các đồng chí: Mai Phì (Hương Long), Phạm Quang Nậm (Hương Thuỷ), Trần Suất (Hương Thanh), Mai Minh (Hương Long), Nguyễn Quốc Nhiếp (Hương Hà), Thái Đình Hàn (Hương Thọ), do đồng chí Mai Phì làm Bí thư.
Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ Hương Khê được tổ chức thành công tại xã Trúc Lâm (ngày 20/11/1930) có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đại hội có sự tham dự và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, bàn định, đề ra chủ trương, nhiệm vụ chung đúng đắn, bầu Ban Chấp hành và Bí thư Đảng bộ, đã đánh dấu sự hoàn thành trọn vẹn cuộc vận động thành lập Đảng bộ ở Hương Khê. Từ đây, phong trào cách mạng Hương Khê đã có một cơ quan lãnh đạo thống nhất để vạch ra đường lối, chủ trương và tổ chức cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến của Nhân dân toàn huyện, quy tụ các phong trào, các lực lượng về một mối dưới ngọn cờ của Đảng.
Chủ trương do Đại hội đề ra phù hợp với thực tế địa phương, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, nên nhanh chóng đi vào thực tế, được cán bộ, đảng viên và quần chúng quán triệt, ra sức thực hiện. Các đồng chí trong Huyện ủy đều là những cán bộ, đảng viên trung kiên, hăng hái hoạt động chỉ đạo phong trào. Thêm nhiều quần chúng ưu tú tình nguyện nhận nhiệm vụ do các chi bộ giao và qua thử thách được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Hệ thống tổ chức của Đảng bộ được củng cố, lớn mạnh, trở thành trung tâm chỉ huy các cuộc mít tinh, biểu tình đang sục sôi khắp nơi trong huyện.
II. LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930 - 1931)
Ngay sau ngày thành lập, các chi bộ đảng đầu tiên của Đảng bộ Hương Khê đã vừa củng cố tổ chức, phát triển đảng viên, vừa bắt tay vào lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng theo chủ trương của Tỉnh ủy, Xứ ủy, nhằm đưa phong trào Hương Khê tiến lên hoà nhịp với phong trào chung.
Các ngày kỷ niệm quan trọng như ngày sinh của V.I.Lênin (22/4/1930), Quốc tế Lao động 1/5/1930 đều được các chi bộ tổ chức kỷ niệm với hình thức rải truyền đơn, mít tinh kỷ niệm quy mô nhỏ ở một số nơi. Các cuộc đấu tranh đòi địa chủ giảm tô, hoãn nợ, giảm lễ tết do các chi bộ lãnh đạo đã thu được một số kết quả, nên bước đầu gây được lòng tin đối với Đảng và tinh thần phấn khởi trong nông dân Hương Khê.
Sau một số cuộc mít tinh nhỏ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1/5/1930), kỷ niệm ngày chống chiến tranh đế quốc (1/8/1930) và đấu tranh chống địa chủ, cường hào đòi một số quyền lợi cụ thể cho Nhân dân có tính tập dượt, Đảng bộ Hương Khê quyết định tổ chức rầm rộ ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1930) để làm đà đưa phong trào lên cao.
Theo chủ trương của Đảng bộ, vào đúng ngày lễ, các chi bộ vận động quần chúng tiến hành mít tinh ở 3 điểm trong huyện là Bãi Nậy (Hương Long) cho vùng thượng huyện; bãi Bố Xà (Hương Thanh) cho vùng trung huyện và ga Hoà Duyệt cho vùng hạ huyện. Tổng số quần chúng tham dự mít tinh trong toàn huyện lên tới hơn 4.000 người.
Ở Bãi Nậy, nông dân các xã Phúc Ấm, Thượng Bình (Hương Long), Phúc Trạch, Đô Khê (Hương Đô), Gia Phố, Xuân Lũng (Hương Xuân), Phú Phong, Trừng Thanh (Hương Vĩnh), Phú Gia, Trung Hà (Hương Bình), Thượng Thạch (Hương Thuỷ) đã kéo về dự mít tinh kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười Nga. Sau khi dự mít tinh, nghe diễn thuyết về Cách mạng tháng Mười, về tình hình thế giới và trong nước, quần chúng đã chia nhau kéo đi thị uy các nơi, đốt các điếm canh do địch dựng nên ở dọc đường, trừng trị một số tên cường hào gian ác. Tên đồn trưởng Chu Lễ và quân lính không dám đàn áp các cuộc biểu tình thị uy, phải làm ngơ trước hành động của quần chúng.
Ở xứ Bố Xà (Hương Thanh - Hà Linh nay), quần chúng các xã Hương Thanh, Trúc Lâm, Đông Ấp, Nam Trạch, Tri Bản (Hương Hoà), Phúc Hội (Hương Đồng), Văn Đồng (Hương Châu), làng Tế Lễ, Trung Định (Hương Tân), Phương Mỹ, Phương Điền,... theo hướng dẫn của các đảng viên cũng kéo đến dự mít tinh, nghe diễn thuyết về Liên Xô, về Quốc tế Cộng sản, tin tức đấu tranh của công nông các nơi trong và ngoài nước, sau đó kéo đi biểu tình thị uy, trừng trị cường hào gian ác ở các địa phương.
Tại ga xe lửa Hoà Duyệt (Hương Thọ), nông dân các xã Khê Thượng, Đan Trai (Hương Đại), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Hương Khê (Hương Thọ) đã cùng Nhân dân Lâm Thao, Hoà Duyệt[29] kéo đến bao vây nhà ga, bắt viên trưởng ga phải ra hiệu dừng tàu chuyến Hà Nội - Sài Gòn để cán bộ cộng sản rải truyền đơn, nói chuyện với hành khách về Cách mạng tháng Mười.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cuộc mít tinh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (ngày 7/11/1930) trên thực tế đã trở thành đỉnh cao cho phong trào cách mạng năm 1930 của Nhân dân toàn huyện. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào ở Hương Khê lúc đầu được tiếp thêm sức mạnh từ phong trào các nơi trong tỉnh Hà Tĩnh, như Can Lộc, Thạch Hà, Nghi Xuân, Hương Sơn... và cả ở Nghệ An truyền tới, đến lúc này lại trở thành nơi duy trì và phát triển cao cho phong trào chung. Liên tiếp các cuộc mít tinh, biểu tình khác được tiếp tục diễn ra ở các nơi chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bộ máy thống trị các tổng, xã, thôn, vào cường hào gian ác. Tổ chức Đảng được thành lập thêm ở nhiều nơi, kết nạp thêm hàng trăm đảng viên mới. Các đoàn thể quần chúng ra đời ở hầu hết các xã, mạnh nhất là Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên. Các Nông hội Đỏ đã thành lập được các ban chấp hành cấp xã, thôn, gọi là Xã bộ nông, Thôn bộ nông. Bí thư Nông hội là người đại diện cho quần chúng nông dân, đứng ra giải quyết nhiều công việc ở địa phương mà trước đó là công việc của hào lý.
Quần chúng còn tổ chức tập luyện tự vệ, sắm sửa vũ khí bảo vệ trật tự trị an thôn xóm, bảo vệ cán bộ. Các đội tự vệ là lực lượng nòng cốt trong các cuộc mít tinh, tuần hành. Các Nông hội đã vận động và thu nhận lương thực, thực phẩm của Nhân dân tự nguyện đóng góp cung cấp cho tự vệ luyện tập. Có nhà khá giả đã liên hệ xin Nông hội được nuôi đội tự vệ ăn tập dăm bảy ngày đến nửa tháng.
Từ các hoạt động trấn áp cường hào gian ác, phong trào quần chúng tiến lên đòi các quyền lợi kinh tế như giảm sưu, miễn thuế, xoá bỏ nợ nần, lễ tết. Có nơi Thôn bộ nông đã tuyên bố buộc nhà giàu xoá bỏ nợ nần lâu đời cho dân (Hà Linh), hoặc giảm nợ cho người nghèo (Trúc Lâm, Đông Ấp, Văn Đồng, Phúc Hội...). Cao hơn nữa là thực hiện quyền dân chủ làng xã, như trong các hội lễ, toàn dân được bình đẳng, nam cũng như nữ, dân thường cũng như hào lý. Các chức sắc, hào lý không được ăn trên, ngồi trốc như trước, lễ tết đối với chúng bị bãi bỏ. Hủ tục ma chay, cưới xin, cúng tế được giảm mạnh. Việc học chữ quốc ngữ, tuyên truyền tư tưởng tiến bộ, hoạt động thể thao, thể dục, sinh hoạt hội họp được xúc tiến mạnh ở nhiều nơi, hình thành một bầu không khí tự do, dân chủ, bình đẳng trong quan hệ làng xóm.
Chế độ thực dân phong kiến của địch bị một phen đả kích nặng nề, quan lại, cường hào kinh hoàng, lo sợ, không dám hạch sách Nhân dân, thậm chí có nơi chúng bỏ việc, đưa sổ sách, con dấu giao cho Nông hội, công khai nhận lỗi trước Nhân dân, xin gia nhập phong trào quần chúng. Nhiều nơi bộ máy quan lại cơ sở xã, thôn bị tan rã, tê liệt, không hoạt động hoặc hoạt động không còn hiệu lực như trước. Trong hoàn cảnh đó, ở một số thôn, xã, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông, dưới sự lãnh đạo của các đảng viên, các chi bộ Đảng cơ sở, đã tự đứng ra giải quyết mọi công việc của dân, mặc nhiên đảm nhiệm chức năng của chính quyền cách mạng.
Do chưa có chủ trương sẵn trước của Đảng mà xuất hiện từ trong thực tế phong trào cách mạng của quần chúng địa phương, lại ở thời kỳ Đảng mới ra đời, kinh nghiệm lãnh đạo còn quá ít ỏi, nên các chính quyền cách mạng thôn, xã ở Hương Khê và các nơi khác ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã hoạt động mô phỏng theo tinh thần, cách thức của chính quyền Xô viết ở Liên Xô cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chính vì vậy, kiểu chính quyền này được gọi là chính quyền Xô viết và vì xuất hiện ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, nên sau đó, trong các tài liệu của Đảng ta và của quốc tế gọi đó là Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Từ sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất (11/1930), phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê đã thực sự hoà nhập với cao trào chung và có đà phát triển mạnh. Đảng bộ Hương Khê đã có bước trưởng thành mới về số lượng và chất lượng. Toàn Đảng bộ có 28 chi bộ nông thôn và 2 chi bộ công nhân, số đảng viên lên tới hơn 320 người. Ngoài 2 chi bộ công nhân trực thuộc Huyện ủy là chi bộ Đồn điền Bùi Huy Tín ở Lộc Yên và chi bộ Đường sắt ở Hương Khê, các chi bộ nông thôn được chỉ đạo hoạt động theo phạm vi tổng, do các Tổng ủy trực tiếp lãnh đạo.
Tổng Xuân Khánh có các chi bộ Tân Đức (nay thuộc Quảng Bình), Đô Khê (Hương Đô), Gia Phố, Thượng Thạch, Thịnh Lạc (Gia Phố), Phú Phong, Xuân Lũng (Hương Xuân), Trừng Thanh (Hương Vĩnh), Phú Gia, Phúc Ấm, Thượng Bình (Hương Long) Trung Hà (Hương Bình).
Tổng Hà Nam có chi bộ Hà Linh (Hương Hà), Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Phương Điền (Hương Mỹ), Tri Bản (Hương Hòa), Phúc Hội (Hương Đồng), Văn Đồng (Hương Châu), Tế Lễ, Trung Định (Hương Tân).
Tổng Trại La có các chi bộ Khê Thượng, Đan Trai (Hương Đại), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Hương Khê (Hương Thọ), Lâm Thao, Hòa Duyệt (nay thuộc Đức Liên, Đức Thọ).
Với lực lượng và kinh nghiệm đã có, từ đầu năm 1931, Đảng bộ Hương Khê chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh tiến lên một bước mới cao hơn. Đi đôi với việc lãnh đạo nông dân đòi giảm tô, hoãn nợ, giảm bớt nợ lãi, xóa lễ lạt, nhiều chi bộ đã vận động nông dân đấu tranh giành ruộng đất công, tịch thu một số tiền, thóc gạo của những cường hào gian ác chia cho dân nghèo.
Các cuộc đấu tranh đầu năm 1931 đều thu được kết quả, đưa lại một số lợi ích kinh tế cụ thể, làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào cách mạng. Chi bộ Hà Linh chủ trương xóa nợ vĩnh viễn và bỏ việc cầm cố đồ đạc cho các chủ nợ và đã lãnh đạo quần chúng biểu tình kéo đến nhà Cựu Uyên - một địa chủ lớn trong xã, để trấn áp, bắt đốt hết các loại giấy tờ mà Nhân dân trong xã viết để vay nợ hoặc cầm cố tài sản, ruộng đất và tịch thu một số lúa đem chia cho nông dân.
Phong trào đấu tranh của quần chúng dâng lên mạnh mẽ, làm cho hào lý, chức sắc ở nhiều thôn, xã trong huyện hoang mang, dao động, nhiều tên nằm im không dám hoạt động, một số ngả theo cách mạng. Những tên ngoan cố, phản động bỏ trốn lên các đồn binh, lên huyện để ẩn náu.
Hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào cách mạng, chức sắc địa phương đã cầu cứu cấp trên đưa lực lượng về đàn áp, khủng bố, bắt bớ cán bộ, Nhân dân. Chúng cho binh lính bắn giết thẳng tay Nhân dân đi biểu tình, đồng thời ráo riết bắt dân bỏ công sức, vật liệu làm các đồn binh, vơ vét lương thực, thực phẩm để cung cấp cho đội quân giết người đang kéo về Hương Khê ngày một đông. Kẻ thù đẩy mạnh việc sử dụng vũ lực để đàn áp phong trào, gây nên nhiều tổn thất cho Nhân dân. Hành động của địch như lửa đổ thêm dầu, làm cho cuộc đấu tranh của Nhân dân ta càng sục sôi, quyết liệt.
Trước tình hình đó, Huyện ủy chủ trương chống địch khủng bố, đàn áp bằng cách sử dụng vũ lực của quần chúng trừng trị đúng mức những tên phản động chống phá cách mạng và thuyết phục, lôi kéo số hào lý, chức sắc ít nhiều có tư tưởng tiến bộ.
Trong tháng 02/1931, nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình thị uy của Nhân dân chống địch bắt bớ, khủng bố đã nổ ra liên tiếp ở các xã. Tại xã Xuân Lũng (Hương Xuân) đã nổ ra 10 cuộc biểu tình, quần chúng đã trừng trị một tên cường hào gian ác làm tay sai cho địch. Nhân dân các xã Văn Đồng (Hương Châu) Phúc Hội (Hương Đồng), Nam Trạch (Hương Bình) và làng Tế Lễ (Hương Tân) đã tập hợp thành đoàn hơn 500 người kéo đến bao vây uy hiếp một tên Việt gian phản động ở xã Nam Trạch (Hương Bình), buộc hắn phải mang áo dài ra nhận tội. Hơn 500 quần chúng xã Văn Đồng có sự phối hợp của Nhân dân Hà Linh, Đông Ấp, Trúc Lâm, Phúc Hội, Tri Bản, Tế Lễ, Trung Định đã biểu tình thị uy và trừng trị tên lý trưởng làm tay sai đắc lực cho Pháp.
Rút kinh nghiệm các cuộc đấu tranh này và cùng với khí thế chung trong tỉnh, từ tháng 3 năm 1931, Huyện ủy chủ trương mở rộng phạm vi, quy mô các cuộc đấu tranh mang tính liên thôn, liên xã hoặc quy mô toàn tổng.
Chủ trương của Huyện ủy được Tổng ủy Trại La thực hiện sớm nhất. Tổng ủy đã huy động 800 quần chúng đi bao vây đồn Paoli (Paoli) chống khủng bố trắng. Tên đồn trưởng kiêm chủ đất này phải bỏ chạy về Linh Cảm (Đức Thọ) để ẩn náu và cầu cứu quan trên. Mấy ngày sau, Paoli đã dẫn 50 lính về càn quét các xã trong vùng Trại La, đốt nhà, cướp của, khủng bố Nhân dân, lùng bắt cán bộ cách mạng. Nắm được thông tin này, Tổng ủy đã lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị các phương án đề phòng hành động khủng bố của địch, các trạm gác của tự vệ đã kịp thời báo động cho dân lánh vào rừng để tránh địch.
Nhằm khống chế lâu dài Nhân dân ta, thực dân Pháp đã cho xây dựng tại Rạng Quang một đồn binh khá lớn. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, quần chúng đã biểu tình phản đối việc đóng đồn và tìm cách chống đối việc đóng góp vật liệu cho địch xây dựng đồn trại. Tuy vậy, địch vẫn ra sức khủng bố nên chi bộ Đảng đã vận động nhân dân 5 xã trong tổng Trại La với hàng ngàn người tiến hành một cuộc biểu tình phá kế hoạch lập đồn binh của địch. Địch phải huy động thêm lực lượng, bắn chết hơn 30 con trâu bò, đốt cháy 32 nóc nhà, phá hoại hàng chục mẫu hoa màu mới lập được đồn Rạng Quang. Không chịu khuất phục, các chi bộ Đảng đã lãnh đạo quần chúng liên tục quấy rối địch, dùng mọi hình thức o ép và cuối cùng đã đốt phá kho thóc, nhà cửa, khiến cho binh lính địch phải bỏ trốn khỏi đồn.
Vùng tổng Xuân Khánh thời gian này đã có 4 cuộc biểu tình quy mô toàn tổng, với 800 người tham gia. Nhân dân các xã Phúc Ấm, Phú Gia, Xuân Lũng, Phú Phong, Trừng Thanh, Gia Phố đã mít tinh ở miếu Cây Thau (Thị trấn nay) rồi kéo đi trừng trị một số tên phản động trong vùng. Có số lên Lộc Yên phá sở rượu của tên xếp Quảng, trấn áp cường hào cai Ba rồi kéo về Gia Phố trấn áp mật thám Đoàn Trị. Tại chợ Gia, hàng ngàn Nhân dân quanh vùng và Nhân dân đang họp chợ đã biểu tình đấu tranh chống thuế. Nhân dân Phúc Ấm, Thượng Bình, Trung Hà, Phú Gia, Phú Phong đã kéo đến nhà địa chủ Cựu Hoạt, Võ Tá Tiếp (Thượng Bình) tịch thu một số lúa chia cho người nghèo. Nhân dân Xuân Lũng, Trừng Thanh biểu tình kéo đến đồn điền Hoàng Bích tịch thu tiền, lúa chia cho người nghèo.
Các cuộc biểu tình lớn, quy mô toàn tổng được tổ chức ngày càng nhiều, phát triển đều khắp trong huyện. Quần chúng đã giành được nhiều quyền lợi về kinh tế. Nhiều gia đình nông dân nghèo được giúp đỡ tiền, lúa từ kết quả đấu tranh trực tiếp với địa chủ. Một số ruộng đất công bị địa chủ cường hào chiếm đoạt được các ban chấp hành Nông hội xã (Xã bộ nông) đấu tranh giành lại, đem chia cho người thiếu ruộng.
Phong trào quần chúng càng ngày càng thiên về bạo động, lấn át thế lực của địch ở nông thôn, khiến cho bộ máy cai trị của chúng ở các làng xã vốn đã rệu rã từ cuối năm 1930, nay càng rệu rã hơn và gần như bị tê liệt, bị vô hiệu hoá hàng loạt. Nhiều lý trưởng mang triện, sổ sách nộp cho cán bộ cách mạng, cho Xã bộ nông. Có nơi Xã bộ nông cho tự vệ đến nhà chánh tổng, hương lý tịch thu triện, sổ sách, tài liệu đưa về cho Bí thư Nông hội quản lý. Các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đứng ra đảm đương nhiệm vụ của một cơ quan chính quyền cách mạng, chăm lo giải quyết mọi công việc về kinh tế, chính trị, văn hoá cho Nhân dân. Nhân dân được hưởng các quyền lợi càng hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh, các sinh hoạt do Xã bộ nông, Thôn bộ nông chủ trương, điều hành.
Tình hình đó đã làm cho trật tự cách mạng, chính quyền Nhân dân hình thành trên thực tế tương đối phổ biến ở nhiều thôn, xã trong huyện, với trình độ, quy mô, tác dụng khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Những nơi hình thành rõ rệt và duy trì được khá lâu hình thức chính quyền Xô viết là Hà Linh (Hương Hà), Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Thượng Thạch (Hương Thủy), Phúc Hội, Văn Đồng (Hương Đồng), Xuân Lũng (Hương Xuân), Phú Phong (Hương Phong), Phúc Ấm (Hương Long), Phú Gia (Hương Phú), Đô Khê (Hương Đô), Tế Lễ (Hương Tân), Hương Khê (Hương Thọ), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Đan Trai, Khê Thượng (Hương Đại)...
Trên phạm vi toàn tỉnh Hà Tĩnh và các vùng Nghệ - Tĩnh, đến đầu năm 1931, phong trào cách mạng của quần chúng công nông do Đảng lãnh đạo cũng phát triển rầm rộ, xuất hiện nhiều làng xã Xô viết. Trong bối cảnh đó, cuối tháng 3/1931, Đảng bộ Hà Tĩnh tiến hành Đại hội tại làng Thượng Nga (Nga Lộc, Can Lộc) với sự có mặt của đại biểu từ 5 Đảng bộ huyện, trong đó có đại biểu của Đảng bộ Hương Khê. Đại hội nhận định khí thế cách mạng trong tỉnh đang lên cao, song đời sống Nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, kẻ địch đang có kế hoạch đàn áp dập tắt phong trào, do đó cần tiếp tục đẩy mạnh, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, mua sắm vũ khí đối phó với sự đàn áp của địch... Đại hội đã nhất trí bầu Tỉnh ủy mới do đồng chí Mai Kính làm Bí thư.
Theo chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh và để củng cố, tăng cường cuộc đấu tranh chung, tháng 4/1931, Huyện ủy Hương Khê đã mở Hội nghị mở rộng kiểm điểm tình hình, nhận định âm mưu địch và đề ra chủ trương đối phó.
Về kinh tế, Huyện ủy chủ trương trong vụ chiêm năm 1931 phải lãnh đạo nông dân đấu tranh giành cho được một phần lúa của địa chủ, thu hoa lợi trên các đám ruộng đất công chia cho nông dân, hoãn hoặc giảm nợ khi ngày mùa tới. Ruộng đất công còn lại được giao cho từng thôn, từng giáp quản lý cày bừa chung, hoặc chia cho nông dân nghèo. Thủ đoạn của địch là thường thu thuế trước vụ gặt, nên Huyện ủy chủ trương vận động quần chúng đấu tranh chống thu thuế trước kỳ hạn.
Về chính trị, Huyện ủy chỉ đạo củng cố các tổ chức quần chúng vững mạnh, phát động quần chúng tham gia đấu tranh với tinh thần tự nguyện. Củng cố Thôn bộ nông, Xã bộ nông để đủ khả năng đảm đương mọi việc trong thôn xã. Tiếp tục vận động hương lý bỏ nhiệm vụ, tranh thủ số hương lý có tư tưởng tiến bộ, đồng thời trừng trị những tên gian ác, nhằm làm tê liệt bộ máy chính quyền địch ở các địa phương.
Về xây dựng Đảng, Huyện ủy chủ trương thành lập các phân bộ để hoạt động cho thuận lợi và xây dựng các chi bộ bí mật gồm những đảng viên chưa bị lộ, phòng khi địch khủng bố vẫn còn cán bộ cốt cán lãnh đạo phong trào.
Những chủ trương của Hội nghị Đảng bộ tháng 4/1931 được phổ biến xuống cho các chi bộ, các cơ sở cách mạng, được Nhân dân hưởng ứng và được các Thôn bộ nông, Xã bộ nông tích cực thực hiện. Các chi bộ đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành một số quyền lợi kinh tế trong vụ chiêm năm 1931 như hoãn nợ, giảm nợ, chống thu thuế trước vụ gặt, chia nốt số ruộng đất công còn lại cho nông dân nghèo hoặc giao cho thôn, giáp quản lý. Ở những nơi có chính quyền Xô viết, Nhân dân phấn khởi thực hiện chủ trương của Đảng, xóm làng được quét dọn vệ sinh sạch sẽ, nhiều Xã bộ nông tổ chức đào mương, đắp đập, làm thuỷ lợi, khai hoang, phục hoá.
Các lớp học quốc ngữ được mở ở nhiều thôn, xóm, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong Nhân dân được nâng lên, nhất là khi có người bị hy sinh, bị thương do đấu tranh với địch, hoặc khi có ốm đau, sinh đẻ, qua đời...
Cán bộ các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đã tận tuỵ làm việc vì dân, ngày đêm sốt sắng với công việc do Nhân dân giao phó mặc dù không có kinh nghiệm và không có chế độ ưu đãi gì. Ngoài việc hành chính, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông còn lo giải quyết các công việc về kinh tế, văn hoá, quân sự, chia ruộng đất, phân phối hoa lợi, lập kế hoạch chống địch khủng bố... Nhân dân Hà Linh đã ngày đêm gặt, đập, trục lúa tập thể và lập 2 kho chứa 150 tạ lúa thu hoạch được trên ruộng đất công để chia cho nông dân nghèo trong xã. Không chỉ có hoa lợi trên ruộng đất công mà số ruộng đất do các địa chủ ở nơi khác đến phát canh trên 22 mẫu cũng bị Xã bộ nông tịch thu chia cho nông dân. Ở nơi ruộng đất công ít như Vân Cù (Hương Thụ), Xã bộ nông cho gặt lúa ở một số ruộng của địa chủ, cường hào gian ác để chia cho những gia đình nghèo túng.
Sau khi chia xong hoa lợi, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đã tổ chức chia số ruộng đất công vừa giành được cho Nhân dân trong xã. Các cuộc đấu tranh đòi chia ruộng đất công và hoa lợi trong vụ chiêm năm 1931 đã mở rộng thành các cuộc đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, giảm nợ lãi, bỏ lễ lạt giữa năm. Những cuộc đấu tranh này đều giành được thắng lợi làm cho Nhân dân phấn khởi và cổ vũ thêm tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Trước sức mạnh của phong trào cách mạng, một số lý trưởng, hương lý làm việc “hai mang”. Số hương lý này tuy bề ngoài là người của chính quyền địch nhưng khi làm việc gì đều hỏi ý kiến Xã bộ nông. Âm mưu của thực dân thu thuế năm 1931 trước kỳ hạn cũng bị thất bại. Nhân dân các xã thuộc tổng Trại La đã đấu tranh chống thu thuế rất quyết liệt. Các Xã bộ nông đứng ra thu thuế để làm quỹ công, không nạp lên cho chính quyền địch.
Ở xã Đông Ấp, các bộ thuế đều được sửa lại cho công bằng, hợp lý và chỉ thu thuế đối với những người có khả năng, còn người nghèo đều được miễn giảm. Ở các xã Đô Khê, Trung Hà, Nam Trạch, địch phải cho bang tá đưa lính về khủng bố nhưng vẫn không thu được đủ số thuế đã định. Đặc biệt, ở Hà Linh, nông dân nộp thuế cho Xã bộ nông để gây quỹ, không nộp cho hương lý, chi bộ chủ trương xóa bỏ sưu thuế và buộc hào lý phải nghe theo. Các địa chủ Cựu Châu, Cựu Tùng đã phải bán hơn 30 con trâu bò để lấy tiền nạp thuế cho tri huyện bù vào số tiền thuế không thu được.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê, đế quốc, phong kiến sau một thời gian hoang mang, cố thủ đã tiến hành nhiều biện pháp ngăn chặn, đàn áp cách mạng. Chúng tổ chức mạng lưới mật thám, chỉ điểm từ huyện xuống xã để dò xét hành động của cán bộ, đảng viên và báo cho lính về bắt bớ. Đến đầu năm 1931, địch đã dựng lên ở Hương Khê 14 đồn binh và tổ chức ra một hệ thống bang tá, mỗi tên bang tá có 7 tên lính khố lục để lùng bắt cán bộ, đảng viên và đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng. Ở những địa phương có phong trào cách mạng mạnh, chúng cho đóng đồn dày đặc như ở tổng Trại La và các xã Trúc Lâm, Hà Linh, Phú Gia, Đô Khê,... Riêng ở Hà Linh và Đô Khê, mỗi xã chúng đóng 2 đồn ở hai đầu xã.
Mặc dù địch lập thêm nhiều đồn binh mới, ra sức khủng bố, đàn áp, song tinh thần cách mạng của cán bộ, đảng viên vẫn không nao núng, cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê vẫn tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh. Huyện ủy đã tìm cách liên lạc với với các tổng ủy, các chi bộ để giữ vững phong trào và sự lãnh đạo chung. Các cuộc mít tinh, biểu tình nổ ra ở khắp nơi, trong đó có những cuộc rất quyết liệt, có đổ máu.
Ngày 20/4/1931, ở Phú Phong, chi bộ Đảng tổ chức một cuộc mít tinh để công bố việc chia ruộng đất công và vận động quyên góp ủng hộ đồng bào tổng Trại La bị địch đốt phá nhà cửa, giết hại trâu bò, cướp bóc tài sản. Được một tên phản bội cấp báo, viên đồn trưởng đồn Chu Lễ đã đưa 12 lính về Phú Phong đàn áp, bắt một số cán bộ, đảng viên, trong đó có đồng chí bí thư chi bộ, làm cho quần chúng càng sôi sục căm thù.
Huyện ủy đã chỉ đạo, vận động quần chúng các xã lân cận tập hợp lực lượng kéo đến Phú Phong hỗ trợ, giải vây cho số cán bộ bị bắt. Đồng chí cán bộ của Tỉnh ủy Hà Tĩnh tăng cường cho Đảng bộ Hương Khê có bí danh là Trung Kỳ đang công tác tại địa bàn Gia Phố (ở tại nhà đồng chí Nguyễn Cầu, Bí thư chi bộ xã) nhận được tin cũng đã cùng với giao thông viên kịp thời có mặt tại hiện trường để chỉ đạo cuộc đấu tranh[30].
Theo kế hoạch của Huyện ủy, chỉ 2 giờ sau, hơn 1.500 quần chúng các xã Phú Phong, Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Gia, Trừng Thanh, Xuân Lũng, Gia Phố do các đội tự vệ dẫn đầu, kéo đến bao bây quân lính, giải thoát cho những người bị bắt. Đoàn biểu tình của xã Phúc Ấm do đồng chí Phan Lũ, Bí thư chi bộ dẫn đầu đã xông vào bao vây tên đồn trưởng và lính đồn. Cuộc đấu tranh dẫn tới xung đột giữa tự vệ và lính đồn rất quyết liệt. Hoảng sợ trước khí thế của đoàn biểu tình, quân lính địch đã bắn chết đồng chí Phan Lũ, bắn bị thương đồng chí Mai Tác và một số tự vệ khác hòng chặn đứng cuộc đấu tranh.
Khi thấy nhiều đoàn biểu tình của các xã lân cận lần lượt kéo đến Phú Phong, địch hoảng sợ mở đường tháo chạy. Ra đến ngoài làng Phú Phong, chúng gặp đoàn biểu tình của xã Trừng Thanh (Hương Vĩnh). Cuộc xung đột diễn ra giữa quần chúng với binh lính địch. Địch vừa chạy vừa bắn, đến Rôộc Cồn, chúng lại gặp đoàn biểu tình của các xã Xuân Lũng, Phú Phong, Gia Phố ngăn chặn. Bí đường và sợ bị quần chúng trừng trị, quân địch đã hoảng sợ bắn súng bừa bãi vào các đoàn biểu tình làm 11 người bị chết và 6 người bị thương.
Tuy vậy, kẻ trước ngã, người sau lại xông lên, quần chúng liều mình vật lộn với địch, buộc chúng phải luồn lách nhiều đường mới thoát khỏi vòng vây của quần chúng cách mạng, rút về đồn Chu Lễ. Nhân dân các xã lân cận và nhiều xã khác đã nổi mõ, chiêng, trống hưởng ứng cuộc đấu tranh ở Rôộc Cồn, làm náo động cả vùng thượng huyện. Ngay trong đêm đó, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức lễ truy điệu, an táng cho những người hy sinh và cứu chữa người bị thương, động viên quần chúng tiếp tục xiết chặt đội ngũ chống khủng bố, bắt bớ.
Vụ Rôộc Cồn là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta với địch, tiêu biểu cho tinh thần dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, đảng viên và Nhân dân Hương Khê trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 ở Hương Khê và Hà Tĩnh.
Ngày 01/5/1931, trong khi ở các nơi phong trào lắng dần do địch khủng bố thì phong trào ở Hương Khê vẫn tiếp tục dấy lên mạnh mẽ bằng các cuộc mít tinh, biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Huyện ủy chủ trương tổ chức ngày kỷ niệm trọng thể theo chủ trương chung của Tỉnh ủy. Các khẩu hiệu tuyên truyền và đấu tranh của ngày 01/5 là:
Chống sưu thuế, bỏ tô tức, Tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, Thực hiện ngày làm việc 8 giờ, Bỏ chế độ khoán dây chuyền để bóc lột người công nhân, Ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Vinh - Bến Thủy, Chống khủng bố trắng, Ủng hộ Liên bang Xô viết, Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm,...Cơ sở ấn loát của Tỉnh ủy đặt tại nhà thờ Đức Hầu Ngô Đăng Minh (còn gọi là nhà thờ họ Ngô), ở Trúc Lâm đã in nhiều truyền đơn với nội dung trên[31].
Theo sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, các đồng chí Ngô Lập, Ngô Hạp, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh thuộc chi bộ Trúc Lâm và một số đồng chí người Đô Khê, Trung Định được giao nhiệm vụ in ấn, phân phát tài liệu. Nguyên vật liệu (thạch, giấy, mực...) do một số cơ sở buôn chuyến, có sạp hàng ở chợ Trúc mua từ Vinh theo đò dọc ngược sông Ngàn Sâu chuyển lên[32]. Đồng chí Ngô Điểm và một số đồng chí khác làm nhiệm vụ giao thông chuyển truyền đơn đi các nơi.
Theo chủ trương chung và nội dung các tờ truyền đơn của Tỉnh ủy, các cuộc kỷ niệm được tổ chức trọng thể ở nhiều nơi trong tỉnh. Riêng ở Hương Khê, nhiều cuộc mít tinh kỷ niệm ngày 01/5/1931 đã được các chi bộ Đảng tổ chức, thể hiện tình đoàn kết công nông, đòi các quyền lợi cho công nhân, cho người lao động. Ngoài nông dân, lực lượng tham gia các cuộc mít tinh còn có nhiều công nhân, phu làm công ở các công trường đường sắt, đường bộ, các đồn điền. Khẩu hiệu có đủ các nội dung như: chống sưu thuế, tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, thực hiện ngày làm 8 giờ, bỏ chế độ khoán dây chuyền (khoán công đoạn), ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Vinh - Bến Thuỷ, chống khủng bố trắng....
Ở đồn điền Bùi Huy Tín, cuộc mít tinh đã đưa các yêu sách cho chủ đồn điền, như tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, đòi cho nông dân được đi qua đồn điền vào rừng đốt than, lấy củi. Trước sự đấu tranh của quần chúng, chủ đồn điền phải nhận yêu sách và hứa sẽ thực hiện.
Từ giữa năm 1931, địch đã tăng thêm lực lượng đàn áp với hơn 100 tên, có vũ khí đầy đủ, thường trực ở các đồn Chu Lễ, Phương Trạch, chợ Trúc, Hà Linh... Lính đồn và phu đoàn, hương lý đã thẳng tay thực hiện cuộc khủng bố trắng đối với phong trào cách mạng của quần chúng, gây nên nhiều tổn thất cho phong trào. Hàng loạt cán bộ, đảng viên bị bắt, hầu hết quần chúng có tham gia đấu tranh đều bị áp bức, nhà của bị đốt phá. Các địa phương có làng Xô viết bị vây ráp, khủng bố nhiều lần với thủ đoạn đốt phá, cướp bóc, bắt bớ, “quy thuận”. Khắp nơi, mật thám, lính đồn, phu đoàn truy bắt cán bộ, tổ chức học tập và phát thẻ quy thuận.
Để khắc phục khó khăn cho phong trào, Huyện ủy chủ trương chống khủng bố trắng của địch, chỉ đạo các chi bộ cử những người chưa bị lộ ra thay thế những đồng chí bị bắt để duy trì phong trào. Nhiều chi bộ có kế hoạch giáo dục, thuyết phục anh em đoàn phu giúp đỡ cán bộ hoạt động, làm theo ý kiến của cán bộ, đảng viên. Các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm đã sử dụng một số anh em đoàn phu được giác ngộ canh gác, bảo vệ các cuộc hội họp của Đảng. Việc đấu tranh không nhận thẻ quy thuận cũng diễn ra ở nhiều thôn xã. Có các cuộc họp nhận thẻ quy thuận do hương lý tổ chức đã biến thành các cuộc đấu tranh, xé bỏ những thẻ do chúng mang về định phát cho Nhân dân.
Dù rất cố gắng, song do sự khủng bố ác liệt của địch, số cán bộ, đảng viên bị bắt đưa về giam giữ ở nhà lao của huyện (Chu Lễ) ngày càng nhiều, làm cho phong trào thiếu các hạt nhân, thiếu lãnh đạo. Huyện ủy chủ trương phải giải thoát một số đồng chí bị bắt bằng cách tổ chức một cuộc biểu tình trong toàn huyện và kéo lên huyện phá nhà lao.
Theo kế hoạch, đêm 12/5/1931, đoàn biểu tình thuộc các xã vùng thượng huyện kéo đi bao vây đồn Chu Lễ để ngăn chặn quân địch, không cho chúng kéo quân xuống huyện lỵ, tạo điều kiện cho đoàn biểu tình các xã hạ huyện kéo lên phá nhà lao.
Do hiệp đồng thời gian không khớp, đường xa, nên đoàn biểu tình của các xã thượng huyện đã xuống chậm, không bao vây được đồn Chu Lễ như dự kiến. Trong khi đó, hàng ngàn quần chúng các xã hạ huyện theo kế hoạch vẫn rầm rập kéo lên huyện lỵ, phá hàng rào, xông vào huyện đường. Quân lính và nha lại hoảng sợ không dám giở thủ đoạn gì, nhưng tên tri huyện đã liên lạc với tên đồn trưởng Chu Lễ cho lính xuống giải vây huyện lỵ. Lính đồn Chu Lễ lập tức kéo xuống huyện lỵ, chiếm lại các công sở, cứu thoát tên tri huyện. Chúng đã bắn vào đám đông quần chúng hạ huyện ở huyện đường, làm chết một số đội viên tự vệ. Cuộc đấu tranh phá nhà lao của Nhân dân hạ huyện bị đàn áp, các đoàn biểu tình phải giải tán.
Sau cuộc đấu tranh của Nhân dân tiến công huyện đường Chu Lễ, địch càng thẳng tay đàn áp, khủng bố dã man hơn. Chúng gạt bỏ hoặc bắt giam số hương lý mà chúng cho là bất lực hoặc bị cộng sản lôi kéo và cho những tên phản động gian ác nhất thay thế. Các điếm canh được dựng lên khắp các ngả đường để kiểm soát việc đi lại của Nhân dân. Cán bộ, đảng viên lần lượt bị địch bắt. Những người bị tình nghi, ban đêm phải tập trung ra các điếm canh ngủ để hương lý theo dõi, quản lý, đề phòng họ đi hội họp, hoạt động cách mạng. Muốn ra khỏi xã, họ phải xin phép hương lý, kể cả đi giỗ chạp, cưới xin, ma chay.
Trước sự khủng bố, bao vây của địch, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã chủ trương lập ra các cơ quan chỉ đạo từng vùng để sát với cơ sở. Vùng Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê do Thường vụ La - Hương - Hương phụ trách[33]. Do cán bộ chủ chốt các cấp thay đổi liên tiếp, thiếu kinh nghiệm đấu tranh, cơ sở bí mật chưa kịp xây dựng, mặt khác hình thức, quy mô, mục tiêu đấu tranh chậm thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới nên lực lượng của Đảng vẫn tiếp tục bị tổn thất nghiêm trọng.
Ở Hương Khê, cơ quan Huyện ủy thường xuyên phải di chuyển, các chi bộ rút vào hoạt động bí mật tuyệt đối, các hình thức hoạt động công khai giảm dần. Đến tháng 7/1931, cơ quan Huyện ủy phải rút vào rừng (chủ yếu là vùng Động Đỏ, Truông Bát), hoạt động rất khó khăn. Các huyện ủy viên Trần Suất, Phạm Quang Nậm bị địch bắn bị thương, một số khác bị địch bắt. Huyện ủy chỉ liên lạc được với một vài chi bộ như Hà Linh, Trúc Lâm. Cuối tháng 8/1931 (20/7 âm lịch), cơ quan ấn loát tài liệu của Tỉnh ủy và Huyện ủy đặt ở Lòi nhà thờ Đức Hầu Ngô Đăng Minh (Trúc Lâm) bị địch phát hiện, đánh phá. Các đảng viên người Trúc Lâm làm nhiệm vụ ấn loát phải thoát ly khỏi địa phương, dụng cụ in ấn bị địch tịch thu. Quân địch cho lính của 3 đồn Phương Trạch, Trúc Lâm, Hà Linh thường xuyên vào rừng lùng sục tìm bắt cán bộ, đảng viên.
Đến tháng 10/1931, Đồng chí Mai Phì, Bí thư Huyện ủy trên đường về Hà Linh công tác bị sa lưới địch; Đồng chí Ngô Quốc Văn, Bí thư Huyện đoàn Thanh niên Cộng sản[34] và đồng chí Dương Phương (người Hương Bình) bị mật thám phục bắt ở Lòi Quyền (Hương Châu). Phần lớn các huyện ủy viên, các bí thư chi bộ và hầu hết đảng viên, cùng nhiều quần chúng có liên quan, hoặc do bị truy lùng đến tận nơi ẩn náu cuối cùng hoặc bị phản bội, chỉ điểm khai báo đều lần lượt sa lưới địch. Chỉ có một số ít thoát được ra nước ngoài hoạt động, tránh địch và một số khác chưa bị lộ còn ở lại địa phương, song bị theo dõi gắt gao, mất liên lạc, không hoạt động được. Các nhà lao huyện, tỉnh chật ních tù nhân. Địch đã phân loại đối tượng tù chính trị, những cán bộ và đảng viên chủ chốt mà chúng cho là nguy hiểm bị đưa đi đày biệt xứ ở các nhà tù xa địa phương, như Lao Bảo, Kon Tum, Buôn Ma Thuột...
Đến cuối năm 1931, hầu hết cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Hương Khê đều bị bắt giữ, bị tù đày. Các chi bộ và cơ quan Huyện ủy đều bị địch phá vỡ, chỉ còn chi bộ Hà Linh còn một số cơ sở cách mạng, là chỗ dựa để Huyện ủy duy trì bộ máy thêm được một thời gian. Cũng như cả nước và vùng Nghệ - Tĩnh, phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê dưới sự lãnh đạo của Đảng lắng xuống, các làng Xô viết ở Hương Khê bị xoá bỏ, phong trào cách mạng đi vào thoái trào.
Phong trào Xô viết ở Hương Khê nằm trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh bị thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do tương quan lực lượng kẻ địch còn rất mạnh, do chính sách khủng bố trắng dã man, xảo quyệt của chúng. Mặc dù thất bại, song thành quả của cao trào cách mạng 1930 - 1931 và sự ra đời, hoạt động của các Xô viết ở Hương Khê là hết sức to lớn, có ý nghĩa sâu sắc về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Các Xô viết Hương Khê chỉ tồn tại được một thời gian ngắn, từ cuối năm 1930 đến tháng 7/1931, nhưng đã thể hiện tính chất của một chính quyền cách mạng, đưa lại nhiều quyền lợi thiết thực cho Nhân dân. Về kinh tế, hầu hết ruộng đất công ở các xã vốn bị hào lý, chức sắc chiếm đoạt đã được các Xô viết giành lại và đem chia cho nông dân. Sự nhũng lạm của hào lý trong việc thu thuế bị xóa bỏ. Địa chủ đã bị buộc phải giảm tô, giảm tức, giảm lãi vay nợ cho nông dân, phải bỏ tiền của ra sửa sang đường sá, cầu cống ở nông thôn. Về chính trị, mọi người dân đều được hưởng các quyền tự do dân chủ, tự do hội họp, tự do đọc sách báo, tự do ngôn luận; nam nữ bình đẳng, xóa bỏ mọi quyền ăn trên ngồi trốc của hào lý, chức sắc địa phương. Về văn hoá, xã hội, các phong tục, tập quán ở nông thôn được cải cách, thực hiện đời sống mới. Các hủ tục về cưới xin, ma chay, đình đám được bài trừ, các lớp học chữ quốc ngữ được mở mang ở nhiều thôn xóm...
Trong những ngày sống dưới chính quyền Xô viết, Nhân dân Hương Khê vô cùng phấn khởi vì bao đời bị áp bức bóc lột nay mới được hưởng các quyền làm người. Cán bộ không ngại hy sinh gian khổ, lo giải quyết mọi quyền lợi cho quần chúng. Nhân dân một lòng tin tưởng ở Đảng, hết lòng bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ. Trong một thời gian dài, các tổ chức Đảng, các cán bộ của Huyện ủy và các cấp ủy làng xã được Nhân dân che chở, tránh được sự bắt bớ của địch.
Qua phong trào, vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ được khẳng định trên thực tế, đã hình thành được lực lượng cách mạng to lớn là khối liên minh công - nông. Việc đánh đổ chính quyền địch, xây dựng nên chính quyền Xô viết công - nông đã cho thấy truyền thống đấu tranh yêu nước bất khuất và khả năng sáng tạo của Nhân dân trong huyện. Tuy có nhiều hy sinh, song qua đấu tranh quyết liệt, chịu cảnh tù đày, thực tiễn phong trào đã tôi luyện được một đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường và để lại những kinh nghiệm cho Đảng trong đấu tranh giành và giữ chính quyền,... Chính vì vậy, phong trào Xô viết Hương Khê và cuộc đấu tranh cách mạng thời kỳ này đã góp phần tạo nên cao trào chung của Hà Tĩnh, của Nghệ - Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám sau này...
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Hương Khê chẳng những đã được Nhân dân trong huyện lúc bấy giờ hào hứng tham gia, nhiệt tình xây dựng và quyết tâm bảo vệ mà còn được các thế hệ sau này trân trọng, ghi nhớ. Sự ra đời của Đảng bộ huyện, sự hình thành cao trào cách mạng sục sôi suốt gần hai năm liền do Đảng bộ lãnh đạo, sự xuất hiện các làng xã Xô viết, chính quyền cách mạng của Nhân dân ở nhiều làng xã trong thời kỳ này mãi mãi là niềm tự hào, nguồn động viên tinh thần to lớn cho Đảng bộ và quân dân trong huyện đi lên trong mọi chặng đường cách mạng, xây dựng và bảo vệ quê hương.
CHƯƠNG II ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1932 - 1945)
I. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG (1932 - 1939)
Từ cuối năm 1931, cùng với các địa phương khác, phong trào cách mạng của Nhân dân Hương Khê bị kẻ địch khủng bố hết sức tàn khốc.
Ngày 19/01/1932, Tỉnh ủy Hà Tĩnh bị địch phá vỡ. Một số đồng chí thoát được vòng vây của địch đã rút lên vùng rừng núi của Hương Khê, sau đó tìm đường qua Lào sang Thái Lan. Số này đã bắt liên lạc với một số đảng viên người Việt Nam hoạt động ở đây lập ra Đông Dương viện trợ bộ để phục vụ mục tiêu khôi phục các cơ sở Đảng ở trong nước[35]. Hầu hết cán bộ, đảng viên, quần chúng cốt cán bị địch bắt vào các nhà lao. Hàng trăm ngôi nhà bị đốt phá, cướp bóc, các chi bộ Đảng đều bị phá vỡ, các Xô viết ngừng hoạt động. Đồn bốt, điếm canh của địch mọc lên khắp nơi, bọn mật thám, chỉ điểm ngày đêm lùng sục, bắt bớ, truy lùng các chiến sĩ cộng sản. Chúng cố tạo ra bầu không khí căng thẳng, sợ hãi, bất an trong quần chúng hòng khuất phục cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê bằng vũ lực.
Mặt khác, chúng cũng cho giảm một số hình thức đóng góp, hô hào cải cách hương thôn, chấn hưng kinh tế, gieo rắc tư tưởng mê tín dị đoan, khuyến khích khôi phục các hủ tục như: xây dựng, sửa chữa các nhà thờ, đình chùa, đền miếu, lễ lạt. Kết hợp các thủ đoạn đó, kẻ địch mong làm lung lạc tinh thần cách mạng của Nhân dân Hương Khê, hướng họ đi vào con đường an phận, thủ thường, xa rời con đường đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Tuy vậy, các đồng chí bị địch bắt vẫn một lòng một dạ trung kiên cách mạng, tiếp tục tham gia các cuộc đấu tranh trong các nhà tù đế quốc, tìm cách trở về hoạt động. Một số đồng chí bị chúng đưa về quê xử bắn vẫn hiên ngang trước lúc hy sinh. Những đồng chí còn lại tìm cách liên lạc, móc nối cơ sở, khôi phục tổ chức Đảng và phong trào. Chi bộ Hà Linh là nơi duy trì được thời gian hoạt động lâu nhất sau cuộc khủng bố trắng của địch, trở thành nơi liên lạc, giúp đỡ các đảng viên và phong trào chung cho các nơi. Bộ máy chính quyền địch ở Hà Linh tuy được lập lại nhưng do chi bộ đã giáo dục, thuyết phục được các hương lý nên mọi công việc trong thôn xã đều được giải quyết theo ý kiến của cán bộ, đảng viên. Thôn Sa Long của xã này vẫn là nơi che giấu, nuôi nấng, giúp đỡ đối với cán bộ Đảng trong và ngoài huyện trú ngụ, hoạt động. Nhiều chiến sĩ cách mạng từ các nơi tìm đường sang Thái Lan qua con đường Hương Khê đã được Nhân dân, các cơ sở Đảng nơi đây giúp đỡ mọi mặt trong quá trình di chuyển.
Trong các trại giam của đế quốc, như Bắc Nhì (Hà Tĩnh), Lao Bảo, Ly Hy, Buôn Ma Thuột, Đắc Min, Côn Đảo... tuy bị đày ải, lao động khổ sai, bị đánh đập, tật bệnh, nhưng các đồng chí cán bộ, đảng viên Hương Khê vẫn luôn luôn giữ vững khí tiết cách mạng của người cộng sản, vẫn tham gia sinh hoạt Đảng trong các chi bộ nhà lao và đoàn kết đấu tranh chống mọi chế độ hà khắc của nhà tù. Những đồng chí bị giam ở nhà lao Thị xã Hà Tĩnh đã tìm cách liên lạc với chi bộ Hà Linh để trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ kế hoạch hoạt động. Các đảng viên bị tù ở Lao Bảo, Ly Hy... vẫn tìm mọi cách liên lạc với các đồng chí còn lại ở nhà, nhờ mua thuốc gửi vào chữa bệnh cho các đồng chí đau yếu.
Nhiều tấm gương sáng của đảng viên cộng sản người Hương Khê đã nêu cao tinh thần kiên cường, bất khuất như đồng chí Lê Nghi (xã Văn Đồng) tuy bị địch cùm kẹp tra tấn thối cả hai chân vẫn không khai báo một lời nào có hại cho Đảng, cho cách mạng. Các đồng chí Trần Rạng, Hồ Sỹ Cung khi bị địch đưa ra xử bắn vẫn hiên ngang tố cáo tội ác, nhổ vào mặt quân thù...
Tháng 6/1932, các đồng chí huyện ủy viên và cán bộ trước đây thoát sang Lào, Thái Lan, sau khi nhận được chỉ thị của Đông Dương viện trợ bộ (tổ chức của Đảng ta ở Thái Lan), đã tìm cách trở về nước, liên lạc với các đồng chí còn lại ở Hà Linh để phục hồi Đảng bộ. Trước hết, các đồng chí đã củng cố lại chi bộ Hà Linh, từ đó móc nối phục hồi các chi bộ Trúc Lâm, Phúc Hội. Các chi bộ này đã liên lạc với nhau vận động quần chúng tiếp tục giữ vững niềm tin vào Đảng, giúp đỡ nhau chống khủng bố và tỉnh táo trước sự lừa bịp của đế quốc, phong kiến. Phong trào cách mạng ở Hương Khê có sự hồi phục với các hoạt động thích hợp, như quyên góp tiền ủng hộ Đông Dương viện trợ bộ ở Thái Lan.
Đến năm 1934, một số đồng chí bị giam giữ ở các nhà tù hết hạn chịu án, được trả về địa phương lại tìm cách phục hồi cơ sở Đảng, phát triển đảng viên. Các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm, Phúc Hội đã có tới 20 đảng viên. Do Huyện ủy chưa được khôi phục, các chi bộ này đã liên lạc và thuộc sự chỉ đạo của Bạn Chấp hành Liên tỉnh Nghệ - Tĩnh. Phong trào cách mạng của Nhân dân Hương Khê những năm 1934 -1935 được hồi phục và hoạt động theo Chương trình hành động của Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng, nhất là trong đấu tranh chống sưu thuế, cải thiện đời sống cho Nhân dân. Để khôi phục Đảng bộ, các đồng chí trong chi bộ Hà Linh và Trúc Lâm đã tìm cách liên lạc với đồng chí Nguyễn Chữ (xã Phú Phong) và đồng chí Dương Phương (Nam Trạch) để thành lập các chi bộ ở vùng thượng huyện nhằm tiến tới thành lập Huyện ủy. Công việc đang tiến triển thì địch lại khủng bố, kiểm soát gắt gao việc đi lại nên các đảng viên lại bị bắt, các chi bộ mới phục hồi lại bị phá vỡ, chỉ còn lại chi bộ Hà Linh tồn tại, song hoạt động hết sức khó khăn.
Tháng 3/1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) đánh dấu sự khôi phục của Đảng và phong trào cách mạng cả nước. Thành công của Đại hội đã cổ vũ cán bộ, đảng viên, Nhân dân Đông Dương thêm tin tưởng và tiếp tục cuộc đấu tranh. Tuy nhiên ở Hương Khê, cơ quan Huyện ủy vẫn chưa được khôi phục.
Sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, chủ nghĩa tư bản lại hồi phục, và lúc này xuất hiện chủ nghĩa phát xít, quân phiệt ở Đức, Italia, Nhật, đặt loài người trước nguy cơ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh phát xít.
Thực hiện chủ trương chung của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản và tranh thủ điều kiện thuận lợi do Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp ban hành các chính sách tự do, dân chủ có lợi cho thuộc địa, tháng 7/1936, Hội nghị Trụng ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam cho hợp với tình hình mới. Đó là chủ trương tạm gác hai khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng” để tập trung vào thực hiện mục tiêu vừa phải, thích hợp, có tính chất trước mắt là “tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống chiến tranh phát xít”. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất Nhân dân phản đế Đông Dương (Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Lực lượng tham gia là mọi giai cấp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình bằng biện pháp công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp là chính...
Tháng 10/1936, Tỉnh ủy Hà Tĩnh được lập lại do đồng chí Trần Giáp làm Bí thư. Tiếp đó, các Huyện ủy lâm thời Hương Khê, Can Lộc, Nghi Xuân được khôi phục. Tỉnh ủy và các Huyện ủy đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng sang thời kỳ mới phù hợp với chủ trương chung của Trung ương Đảng. Đến tháng 4/1938, Đảng bộ Hà Tĩnh tổ chức Đại hội tại Đan Chê (Thạch Long, Thạch Hà) có đại biểu của Đảng bộ Hương Khê. Đại hội quyết định 10 nhiệm vụ mới như: chỉnh đốn nội bộ Đảng, tăng cường công tác tuyên truyền, mở rộng thành phần các hội quần chúng, đẩy mạnh truyền bá quốc ngữ, cải thiện đời sống Nhân dân, chống chiến tranh phát xít,...
Theo chủ trương mới của Đảng, khắp xứ Đông Dương lại xuất hiện một cao trào đấu tranh mới là cuộc vận động dân chủ do Đảng ta lãnh đạo kéo dài suốt từ năm 1936 đến năm 1939. Trong cao trào dân chủ này, các cuộc đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp với mục tiêu dân sinh, dân chủ chống chiến tranh phát xít đã diễn ra sôi nổi. Nhiều báo chí của Đảng được in ấn công khai đẩy mạnh tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương của Đảng trong quần chúng. Phong trào học chữ quốc ngữ, các hội biến tướng được thành lập thu hút đông đảo Nhân dân tham gia các hội ái hữu, các tổ chức dân chủ. Nhiều chính trị phạm được ân xá về lại địa phương...
Ở Hương Khê, trong cuộc vận động dân chủ sôi nổi đó, tuy không thật mạnh mẽ như các vùng thị thành, song các hình thức đấu tranh dân chủ cũng được đẩy mạnh. Các đảng viên mới ra tù đã mang theo tinh thần chủ trương của Đảng về phổ biến cho các đồng chí đang hoạt động ở địa phương. Chi bộ Hà Linh là nơi tập hợp đảng viên, cán bộ mới ra tù và số còn lại ở các địa phương để khôi phục, củng cố Đảng bộ. Được Tỉnh ủy giúp đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn, ngoài chi bộ Hà Linh, các chi bộ Trúc Lâm, Phúc Hội, Nam Trạch lại được khôi phục. Các đảng viên của các chi bộ này đã liên lạc với nhau chuẩn bị lập lại Huyện ủy.
Với chủ trương nắm được từ trong nhà tù và hưởng ứng phong trào chung của các địa phương khác, ở Hương Khê, các hình thức của cao trào dân chủ được phát triển. Tổ chức phường hội được xây dựng rộng khắp trong các vùng nông thôn toàn huyện. Ngoài các phường hội đã có như: hội lợp nhà, phường đưa ma, phường săn, phường cấy, phường gặt, địa phương có thêm các hội mới như: hội đá bóng, hội ái hữu, hội học chữ quốc ngữ, hội đọc sách báo... để giúp nhau trong lao động, sản xuất, cuộc sống, học tập. Các tổ chức biến tướng cũng ra đời dưới hình thức hiệu buôn hàng tạp hoá, hiệu cắt tóc, quán bán nước chè xanh... để làm nơi tụ hội, liên lạc của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Các phường hội cũ và mới, các hội ái hữu, hội biến tướng ở Trúc Lâm, Phúc Hội, Phú Phong, Xuân Lũng, Tế Lễ, Đông Ấp, Nam Trạch, Trung Định, tổng Trại La... đã hướng các hoạt động công khai, hợp pháp vào sản xuất, chăn nuôi, làm nhà, chia lại ruộng đất công, dạy chữ quốc ngữ, xây trường học cho con em, sửa lại cầu cống, đường làng, vận động đưa người tiến bộ vào các chức sắc địa phương, giúp đỡ các gia đình có chính trị phạm đang bị lưu đày.
Hà Linh là nơi có tổ chức hội biến tướng phát triển mạnh, có tới 6 hội biến tướng, thu hút 225 hội viên. Các hội biến tướng có kế hoạch sản xuất chung, lấy tiền làm quỹ và thu được 135 thúng lúa, 85 đồng bạc và nuôi 8 con bò. Ruộng đất công giành được trong phong trào Xô viết, trước chia cho tráng đinh, nay được chia công bằng, hợp lý hơn, chú ý đến những gia đình nghèo đói, những gia đình có người bị tù đày hoặc có tài sản bị cướp, và cho cả chị em phụ nữ có khó khăn. Chi bộ Hà Linh còn vận động nhân dân góp tiền, góp vật liệu làm được một trường học để dạy chữ quốc ngữ cho trẻ em và cả người lớn ở thôn Sa Long. Đường sá, cầu cống được sửa sang lại. Bộ máy hương lý ở thôn xã tuy vẫn là của địch, nhưng chi bộ Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh đưa những người tiến bộ vào, thực thi nhiều chủ trương của chi bộ.
Các chi bộ Đảng ở Trúc Lâm, Phúc Hội, Phú Phong, Xuân Lũng, Tế Lễ, Đông Ấp, Nam Trạch, Trung Định cũng tổ chức được nhiều hội biến tướng và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh hợp pháp, chống sự bóc lột của địa chủ và sự hà hiếp của hương lý. Các đồng chí Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Quốc Xướng đóng vai người bán bánh để đi Can Lộc và xuống Thị xã Hà Tĩnh liên lạc với Tỉnh ủy nhận chỉ thị hoạt động. Hiệu sách Liên Thành thư quán ở Thị xã do Tỉnh ủy tổ chức là nơi các đồng chí đến bắt liên lạc và mua sách báo tiến bộ về phổ biến trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Các chi bộ Trúc Lâm, Hà Linh đã tổ chức được các đội tuyên truyền lưu động để đi các xã lân cận phổ biến, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng.
Tết Nguyên đán năm 1939, đội tuyên truyền chính trị của chi bộ Trúc Lâm đã hoạt động lưu động ở các xã Phúc Đồng, Phúc Hội, Đông Ấp, đến các chợ lớn trong huyện và ga Chu Lễ biểu diễn văn nghệ, võ thuật để tập hợp quần chúng, bán sách báo, nói chuyện thời sự, chuyện cổ tích thu hút đông đảo quần chúng tham dự. Qua các hoạt động đó, đội đã phổ biến tình hình thời cuộc và chủ trương của Đảng, hô hào mọi người phát huy tinh thần yêu nước, tham gia phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống chiến tranh phát xít,..,
Một hình thức đấu tranh khá phổ biến ở Hương Khê thời kỳ 1936 - 1939 là tranh chấp ảnh hưởng đối với Nhân dân giữa phe Hộ (Nhân dân nghèo, đảng viên) và phe Hào (các chức sắc, địa chủ). Hình thức đấu tranh này vốn có từ trước, nay được các chi bộ tích cực sử dụng để chống đế quốc, phong kiến cả về kinh tế và chính trị xã hội. Ở Trúc Lâm, phe Hộ đã vận động lợp nhà, cưới xin, ma chay không ăn cơm, được Nhân dân hưởng ứng, cô lập, tẩy chay được việc ăn uống linh đình, tốn kém của phe Hào. Trong các cuộc bầu chức sắc địa phương, những người do chi bộ đề cử được phe Hộ ủng hộ, giành phiếu cao, giữ các chức vụ hương lý, có lợi cho phong trào chung.
Trên cơ sở phong trào quần chúng phát triển và lợi dụng điều kiện công khai, việc khôi phục đảng bộ, chắp nối liên lạc với Tỉnh ủy được các cán bộ, đảng viên Hương Khê tích cực thực hiện. Tuy nhiên, do lúc này trong nội bộ Đảng có phần tử Đinh Văn Di là Bí thư Xứ ủy phản bội nên Tỉnh ủy mới khôi phục lại bị phá vỡ.
Vì vậy, Huyện ủy Hương Khê không thành lập lại được, các chi bộ luôn bị mất phương hướng và đầu mối hoạt động. Tình hình đó khiến cho phong trào vận động dân chủ ở Hà Linh và Hương Khê phát triển thường chậm hơn so với một số tỉnh, thành khác, hơn thế có lúc còn hoạt động trong điều kiện không có chỉ đạo rõ ràng, thiếu phối hợp chung, không như phong trào thời kỳ 1930 - 1931.
Cuối năm 1939, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị thời chiến, khủng bố Đảng Cộng sản, cấm các hoạt động dân chủ, thì các cơ sở Đảng ở Hương Khê lại bị địch đánh phá, vỡ lở tiếp, phong trào lại lắng xuống. Hầu hết đảng viên, kể cả số chính trị phạm mới được tha về lại bị địch bắt, đưa đi lưu đày, an trí ở những nơi xa xôi, như Buôn Ma Thuật, Đắc Min, Kon Tum. Đảng bộ Hương Khê lại bị vỡ, phong trào tiếp tục thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng tại chỗ. Chỉ có một số nơi như: Vân Cù, Tế Lễ, Hà Linh, còn duy trì được một số cuộc đấu tranh chống hào lý nhũng lạm sưu thuế, giữ lại số ruộng đất công đã được chia từ thời kỳ trước.
Cuộc vận động dân chủ ở Hương Khê đến đây chấm dứt, Đảng bộ Hương Khê vẫn chưa được khôi phục đầy đủ.
II. LÃNH ĐẠO CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỰC HIỆN TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945)
Tháng 9/1939, mặc dù Nhân dân thế giới đã ra sức đấu tranh ngăn chặn, song cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai vẫn bùng nổ, mở đầu bằng việc quân đội phát xít Đức tấn công Ba Lan và Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Nước Pháp tham chiến đã kéo theo cả hệ thống thuộc địa của chúng, trong đó có Việt Nam vào cuộc chiến tranh. Quân phản động Pháp ở Đông Dương ra lệnh đàn áp phong trào dân chủ do Đảng ta lãnh đạo. Các tổ chức nghiệp đoàn ái hữu đều bị giải tán, sách báo tiến bộ bị tịch thu và bị cấm lưu hành, một số quyền lợi quần chúng mới giành được trong cuộc vận động dân chủ bị xóa bỏ. Những đảng viên, cán bộ vừa được ân xá, trở về nhà lại bị bắt và bị đưa đi lưu đày biệt xứ...
Đến tháng 9/1940, nhân lúc nước Pháp bị quân Đức đánh chiếm, phát xít Nhật đã cho quân tràn vào Đông Dương. Hai tên đế quốc, phát xít đã cùng nhau thỏa thuận chia sẻ quyền thống trị Đông Dương, đặt Nhân dân ta dưới hai tầng nô lệ ngoại xâm. Quân đế quốc, phát xít đã ra sức vơ vét sức người, sức của của Nhân dân Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của chúng. Các thứ thuế được tăng thêm, một số thuế mới được đặt ra; ngoài ra chúng còn tổ chức các cuộc lạc quyên, xổ số, bán công trái quốc gia, thu mua vàng, bạc, đồng và lạm phát giấy bạc, vơ vét của cải của Nhân dân ta để chúng có ngân quỹ chi tiêu cho chiến tranh. Việc bắt lính, bắt phu diễn ra thường xuyên để xây dựng sân bay, bến cảng, đường sá và đưa sang châu Âu làm bia đỡ đạn.
Cũng như các nơi khác, Hương Khê cũng lâm vào tình cảnh đen tối đó. Ngoài hệ thống đồn bốt của quân đội địch, các điếm canh của dân vệ lại mọc lên, kiểm soát nghiêm ngặt những người qua lại. Hoạt động của cán bộ, đảng viên, việc đi lại làm ăn của quần chúng thêm khó khăn. Những gia đình có người bị bắt hay bị tình nghi có hoạt động cộng sản đều bị chúng kiềm chế, theo dõi gắt gao.
Sự chuyển biến mới của tình hình trong nước và quốc tế, nhất là nước ta cùng một lúc bị hai tên thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng thống trị, đã làm cho mâu thuẫn giữa Nhân dân ta với quân xâm lược lên cao, yêu cầu giải phóng dân tộc trở nên thúc bách hơn bao giờ hết. Vì vậy các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu (11/1939), thứ bảy (11/1940) và nhất là Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã đề ra chủ trương mới, đưa khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” lên hàng đầu và tập trung mọi nỗ lực thực hiện khẩu hiệu này. Còn khẩu hiệu “Người cày có ruộng” tiếp tục tạm gác, chỉ thực hiện một phần là lấy ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày. Theo đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; ra sức xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, thành lập căn cứ địa để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay Nhân dân, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Đảng, coi độc lập dân tộc là mục tiêu phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện, đã chuyển phong trào đấu tranh của Nhân dân ta sang thời kỳ vận động giải phóng dân tộc, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Chủ trương mới của Đảng được chuyển tới Hương Khê chủ yếu là do các đảng viên người Hương Khê lĩnh hội khi còn ở trong các nhà tù. Năm 1940, một số đồng chí mãn hạn tù hoặc vượt ngục về địa phương đã mang theo chủ trương mới của Đảng về thực hiện ở Hương Khê, truyền đạt lại cho các đồng chí đang hoạt động ở địa phương, làm cho phong trào cách mạng trong huyện bắt đầu có sự chuyển biến theo phương hướng chung, chú trọng vào mục tiêu giải phóng dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Tuy (người Hương Thọ) và đồng chí Nguyễn Đình Vị (người Nghệ An) bị giam giữ ở nhà lao Buôn Ma Thuột được chi bộ nhà lao giao nhiệm vụ vượt ngục về Hương Khê xây dựng cơ sở Đảng. Các đồng chí này đã về xã Phúc Hội và bắt liên lạc với đồng chí Đặng Ý (người xã Phúc Hội cũng đã trốn khỏi nhà lao Buôn Ma Thuột về trước). Căn cứ vào tình thế chung, các đồng chí đã bàn kế hoạch xây dựng cơ sở, lập căn cứ địa tại đồn điền Trần Cảnh Cung, nơi tiếp giáp giữa Phúc Đồng và Trúc Lâm (vùng Hói Me, Khe Cừa). Đồng chí Nguyễn Tuy dưới danh nghĩa người làm thuê, đã ẩn náu và hoạt động tại đồn điền này, biến nơi đây thành chỗ tụ họp các cựu chính trị phạm và chỉ đạo phong trào cách mạng Hương Khê thời kỳ mới. Nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng trong vùng đến làm thuê đã được phổ biến chủ trương mới, được tổ chức tập luyện võ thuật, học chữ quốc ngữ.
Trong thời gian chưa đầy một tháng, với sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Tuy, các đảng viên, quần chúng trong vùng đã tích cực vận động nhân dân tham gia các hoạt động hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc. Các hội biến tướng được xây dựng lại để tập hợp quần chúng, tuyên truyền chủ trương mới của Đảng, chuyển hướng phong trào đấu tranh của Nhân dân trong huyện hoà nhập vào cuộc vận động giải phóng dân tộc của cả nước. Phong trào ở một số xã lại được phát triển, như ở Phúc Hội, Văn Đồng, Trúc Lâm, tổng Trại La. Một số chi bộ được xúc tiến hồi phục để tiến tới lập lại Đảng bộ và cơ quan Huyện ủy. Giao thừa năm 1940 - 1941, tại đồn điền Trần Cảnh Cung, đồng chí Nguyễn Tuy đã có bài thơ nói lên sự phấn khởi, lạc quan sau nhiều năm bị tù đày, trong đó có câu:
“Mười năm đón Tết trong tù
Năm nay đón Tết chiến khu huyện nhà”.
Sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Nam Kỳ (11/1940), binh biến Đô Lương (1/1941), địch rất lo sợ xu hướng đấu tranh vũ trang của Nhân dân ta. Vì vậy, khi có vụ nổi dậy giết chết tên Pherây (Ferrey), một chủ đồn điền người Pháp ở Hương Sơn (5/1941) do một số đảng viên, quần chúng địa phương thực hiện, địch đã lấy cớ đó tiến hành cuộc khủng bố ác liệt phong trào cách mạng ở Hương Sơn. Cuộc khủng bố của địch đã từ Hương Sơn lan sang Hương Khê, nhất là khu vực 7 xã của tổng Trại La và hai xã Phúc Hội, Văn Đồng của tổng Hà Nam. Các cơ sở cách mạng ở đồn điền Trần Cảnh Cung cũng bị đánh phá, khủng bố. Các đảng viên Hương Khê bị tình nghi đều bị chúng bắt, mấy đồng chí vừa vượt ngục về lại phải lánh sang vùng biên giới Việt - Lào để tránh địch, song cuối cùng cũng bị Tri huyện Hương Khê đưa lính đuổi bắt được. Phong trào Hương Khê lại tiếp tục khó khăn, thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng.
Trong khi phong trào Hương Khê bị đàn áp thì phong trào cả nước có bước phát triển mới, nhất là phong trào Mặt trận Việt Minh. Ảnh hưởng của phong trào Việt Minh lan mạnh từ Việt Bắc tới các nơi trong nước, hình thành các đoàn thể Cứu quốc, làm cho phong trào Hương Khê càng nung nấu chờ sự lãnh đạo của Đảng. Đầu năm 1943, do có các đồng chí từ Buôn Ma Thuột vượt ngục hoặc được tha trở về, chi bộ Hà Linh được khôi phục, trở thành nơi chắp mối liên lạc cho các đồng chí đảng viên rải rác trong huyện.
Lúc này, ở Hà Tĩnh có Hội Việt Nam Cứu quốc hoạt động, phát triển ảnh hưởng mạnh lên Hương Khê. Vì vậy, sau khi lập lại, chi bộ Hà Linh đã thành lập Mặt trận Cứu quốc xã, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia. Tại đây, đã có các đoàn thể Cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Phụ lão tham gia Mặt trận Cứu quốc. Ở Trúc Lâm, chi bộ đảng cũng được lập lại, đã phát động quần chúng tham gia phong trào Việt Minh, chống áp bức, bóc lột của chức sắc địa phương, chống sự lùng sục, nhũng nhiễu của lính đồn chợ Trúc. Đến tháng 4/1943, Hội Việt Nam Cứu quốc được đổi thành Mặt trận Cứu quốc nên các đoàn thể quần chúng ở Hà Linh, Trúc Lâm được đổi thành Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ lão Cứu quốc.
Phát hiện phong trào Việt Minh ở Hương Khê phát triển mạnh, địch đã tiếp tục truy lùng, bắt bớ cán bộ, đảng viên. Không bắt được người, chúng quay ra đốt phá nhà cửa của các đảng viên để đe doạ và trả thù[36]. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt, bị lưu đày, hai chi bộ nòng cốt là Hà Linh và Trúc Lâm vừa khôi phục lại bị mất liên lạc. Phong trào cách mạng Hương Khê tiếp tục gặp khó khăn và kéo dài đến cuối năm 1944.
Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đi vào giai đoạn quyết liệt. Ở châu Âu, Hồng quân Liên Xô tấn công vào Béc-lin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng từ năm 1940, nay được giải phóng, tìm cách khôi phục lại các thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Ở châu Á, chiến tranh Thái Bình Dương diễn ra quyết liệt giữa Mỹ và Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương lên cao. Để độc chiếm Đông Dương, giữ vững địa bàn tiến thoái, đêm 9/3/1945, quân Nhật đã tiến hành cuộc đảo chính quân Pháp, lập nên chính quyền tay sai thân Nhật ở Việt Nam. Cuộc đảo chính đã báo hiệu sự khủng hoảng trong nội bộ địch, có lợi cho Nhân dân ta. Trong khi đó, do chính sách bóc lột của Nhật - Pháp, nạn đói nghiêm trọng đã diễn ra ở các tỉnh phía bắc Việt Nam, làm chết hàng triệu người, khiến cho Nhân dân hết sức căm phẫn chế độ vô nhân đạo của ngoại xâm và tay sai.
Nhạy bén với cục diện mới, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm của cách mạng là phát xít Nhật, chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, phá kho thóc của Nhật, cứu đói cho dân, chuẩn bị đón thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền, giải phóng dân tộc.
Ở Hương Khê, đầu năm 1945, nạn đói đã diễn ra trong toàn huyện, nhiều xóm làng xơ xác, người đi ăn xin, đi đào củ mài làm hoang vắng cả ruộng đồng. Một số tha hương cầu thực sang Lào, Thái Lan. Số người chết đói trong toàn huyện lên tới hơn 4.500 người, trong đó giáo dân là 783 người[37]. Quân Nhật cũng thường đi lùng sục vơ vét lâm thổ sản quý hiếm, bắt thanh niên đi lính, đi phu, làm cho Nhân dân thường xuyên lo sợ, phải trốn tránh.
Sáng ngày 10/3/1945, một toán quân Nhật đánh chiếm đồn Chu Lễ và Sở Kiểm lâm Hương Khê. Tên đồn trưởng người Pháp ở Chu Lễ bị Nhật bắt, binh lính người Việt chạy tán loạn lẩn trốn, quan lại tay sai cho Pháp hoang mang lo sợ. Lợi dụng tình hình đó, mặc dù chưa nhận chỉ thị của cấp trên, song các đảng viên một số xã lân cận đã vận động nhân dân đi phá kho thóc ở Chu Lễ, lấy thóc gạo cứu đói cho dân.
Hoạt động khôi phục các chi bộ và Đảng bộ huyện được xúc tiến, song do chưa liên lạc được với Tỉnh ủy nên phong trào sau ngày đảo chính vẫn lúng túng, thiếu thống nhất. Nhiều nơi phong trào lên mạnh, nhất là thanh niên, song lúc đầu lại chịu ảnh hưởng của tổ chức Thanh niên Phan Anh. Một số đảng viên tham gia lực lượng này, đã tìm cách hướng họ vào tập luyện quân sự, truyền bá quốc ngữ và hoạt động cứu đói theo chủ trương của Việt Minh, của Đảng.
Sau ngày Nhật hất cẳng Pháp, lợi dụng việc Nhật rêu rao chiêu bài độc lập, chống Pháp, ta đã vận động quần chúng đấu tranh buộc chúng phải mở cửa nhà tù, thả tù chính trị do Pháp bắt. Riêng ở nhà tù Buôn Ma Thuật có tới 300 chính trị phạm được ra khỏi tù, được đồng bào địa phương giúp đỡ để trở về quê hương.
Tháng 4/1945, đồng chí Nguyễn Tuy và đồng chí Thái Đình Hàn từ Buôn Ma Thuột về đến Hương Khê. Do nắm được Chương trình, Điều lệ Việt Minh, nội dung bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng, các đồng chí này đã phổ biến chủ trương mới của Đảng cho đảng viên và quần chúng, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước ở Hương Khê. Nhờ đó, phong trào cách mạng của Hương Khê nhanh chóng bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính là phát xít Nhật. Các đồng chí trong chi bộ Trúc Lâm ở tù về đã đến các xã xác minh, tìm hiểu số đảng viên ra tù từ trước để liên lạc, trao đổi kế hoạch phục hồi Đảng bộ[38].
Nhờ hoạt động tích cực của các đồng chí ở tù về, đến cuối tháng 4/1945, chi bộ Trúc Lâm được lập lại, gồm một số đảng viên của Trúc Lâm và Hà Linh. Chi bộ đã phân công đảng viên về các xã tuyên truyền chủ trương của Việt Minh, vận động quần chúng tham gia phong trào Việt Minh, vào các đoàn thể Cứu quốc, chống Nhật, cứu nước. Tin tức chiến thắng của Liên Xô và Đồng minh tiêu diệt hoàn toàn quân phát xít ở châu Âu cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 được bàn tán trong Nhân dân, tạo niềm tin tưởng cho mọi người.
Ngày 20/5/1945, được sự giúp đỡ của Xứ ủy, Hội nghị thành lập Ban vận động thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh[39]. Hội nghị chủ trương tập hợp, thống nhất mọi lực lượng yêu nước và cách mạng trong hai tỉnh vào Việt Minh để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị phân công cán bộ về các phủ, huyện trong hai tỉnh bắt liên lạc với các cơ sở cũ và các cán bộ, đảng viên vừa ra tù để vận động thành lập Mặt trận Việt Minh liên tỉnh, quyết định xuất bản báo Kháng địch để ấn hành các tài liệu của Mặt trận Việt Minh truyền bá rộng rãi trong hai tỉnh[40].
Sau khi đi dự Hội nghị thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh về, ngày 27/5/1945, đồng chí Nguyễn Tuy đã triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng mở rộng toàn huyện tại xã Trúc Lâm để bàn việc thống nhất lực lượng khôi phục Đảng bộ và kế hoạch đón thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Cuộc họp có 32 người tham dự, gồm các đảng viên trong chi bộ Trúc Lâm và một số đảng viên ở các chi bộ khác trong huyện, do đồng chí Nguyễn Tuy lựa chọn.
Hội nghị đã phấn khởi được nghe đồng chí Nguyễn Tuy truyền đạt tinh thần chủ trương của Trung ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh. Hội nghị nhận định tuy Nhân dân Hương Khê đang gặp khó khăn do đời sống kiệt quệ và đang bị nạn đói đe dọa, nhưng mọi người đều có lòng căm thù giặc và từ khi được nghe phổ biến Chương trình hành động của Việt Minh, mọi tầng lớp Nhân dân đều hăng hái xin gia nhập Việt Minh và càng thêm tin tưởng ở Việt Minh và cách mạng. Với quyết tâm, niềm tin mới, Hội nghị quyết định:
1. Liên lạc với các đồng chí vừa ở tù về để lập lại Đảng bộ, đồng thời tiếp xúc với những người yêu nước trong huyện để thành lập Mặt trận Việt Minh các xã, xúc tiến chuẩn bị các điều kiện, khẩn trương tập luyện vũ trang, xây dựng các đội tự vệ, sắm sửa vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
2. Mở một đợt tuyên truyền sâu rộng Chương trình hành động của Việt Minh, vạch trần sự xuyên tạc, mị dân của tay sai Nhật, đưa một số cán bộ, đảng viên vào làm thủ lĩnh các tổ chức thanh niên Phan Anh, hạn chế ảnh hưởng của tổ chức này trong thanh niên và giác ngộ thanh niên, lôi cuốn phong trào này đi theo Việt Minh, phát động Nhân dân toàn huyện tham gia các đoàn thể Cứu quốc.
3. Trên cơ sở tuyên truyền Chương trình hành động của Việt Minh mà động viên Nhân dân giúp đỡ nhau giải quyết nạn đói.
Sau Hội nghị cán bộ mở rộng ở Trúc Lâm, phong trào Hương Khê phát triển vượt bậc, thu hút đại bộ phận Nhân dân tham gia Việt Minh. Các đảng viên cựu chính trị phạm được phân công đi móc nối, liên hệ, lựa chọn đảng viên tích cực để chuẩn bị mở hội nghị mở rộng toàn huyện, lập Huyện ủy mới, nắm tình hình địch, nhất là các đồn binh Nhật để chuẩn bị hành động giành chính quyền khi có thời cơ.
Nhờ hoạt động tích cực của các đảng viên, chỉ sau một thời gian ngắn, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc. Các thủ lĩnh thanh niên Phan Anh từ tổng đến xã đều do đảng viên hoặc những người tiến bộ nắm giữ. Các tầng lớp Nhân dân phấn khởi tham gia Việt Minh, các cuộc đấu tranh chống thu thuế bằng thóc, lạc, vừng của chính quyền bù nhìn thân Nhật ở một số thôn xã thu được thắng lợi, làm cho Nhân dân thêm tin tưởng Việt Minh.
Ngày 15/7/1945, Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh ra lời kêu gọi chuẩn bị khởi nghĩa. Lời kêu gọi nhấn mạnh: “Nhận đúng cơ hội, xét rõ điều kiện... hãy mau lên. Cấp tốc lên. Đừng chờ đợi, do dự nữa. Hãy đưa tiền của, xương máu, tài năng hết thảy ra cứu nước. Đánh đuổi giặc Nhật, Tiêu trừ Việt gian. Lập chính quyền Nhân dân cách mạng”[41]. Đồng chí Thái Minh (huyện ủy viên cũ) cùng đồng chí Nguyễn Tạo (người Đức Thọ) đã bắt được liên lạc với các đảng viên ở các xã thuộc tổng Trại La, như Phạm Nghiêm, Lê Trọng Đái, để phổ biến Chương trình hành động của Việt Minh. Tại xã Hương Thụ, các đồng chí đã họp bàn kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở Vũ Quang, tập hợp thanh niên huấn luyện quân sự, chờ đón vũ khí của Đồng minh. Thanh niên các xã thuộc tổng Trại La, các xã Trúc Lâm, Hà Linh đã nô nức kéo về Vũ Quang tập luyện quân sự. Các đảng viên, quần chúng thanh niên xã Đan Trai, Khê Thượng, Vân Cù, Thượng Thụ và nhiều đồng chí khác từ Hương Sơn sang, Đức Thọ lên đã tích cực luyện tập võ thuật, rèn dao, kiếm. Phong trào luyện tập vũ trang xây dựng lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện ở nhiều làng xã trong toàn huyện
Phong trào tiền khởi nghĩa ở Hương Khê với nhiều hình thức đấu tranh ngày càng công khai, quyết liệt đã thôi thúc cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ nhanh chóng có những quyết định mới, táo bạo hơn để đón thời cơ giành chính quyền về tay Nhân dân.
Ngày 20/7/1945, đồng chí Phan Dỵ, phái viên của Việt Minh tỉnh và các đồng chí đảng viên thuộc các nhóm trung kiên đã tổ chức cuộc Hội nghị cán bộ Việt Minh toàn huyện để thành lập Ủy ban Khởi nghĩa Hương Khê, tại nhà đồng chí Đặng Bá Soa, xóm Trại, làng Tế Lễ (nay là xã Hương Thủy). Dự họp có khoảng 40 người: Phan Dỵ, Nguyễn Tuy, Phạm Quang Thu (Hương Thuỷ), Nguyễn Văn Sáng (Hà Linh), Trần Suất, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh (Trúc Lâm), Thái Đình Hàn, Nguyễn Lan (Hương Thọ), Nguyễn Nhiên (Gia Phố), Đinh Duyệt (Phúc Trạch) và một số đồng chí khác ở Nam Trạch, Phú Phong, Phú Gia, Trung Định,... Đó là những cán bộ, đảng viên được lựa chọn từ các xã, các chi bộ cũ, mỗi nơi có 1 đến 3 người[42].
Sau khi phổ biến kế hoạch thoát thân đề phòng lúc cần thiết, Hội nghị đã nghe đồng chí Phan Dỵ báo cáo tình hình thế giới, trong nước và trong tỉnh, phổ biến chủ trương chung của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh là khẩn trương xúc tiến các công việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã sôi nổi thảo luận tình thế cách mạng ở Hương Khê và đi tới quyết định thành lập ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Khê gồm 7 chức danh và 8 ủy viên:
Nguyễn Tuy: Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, phụ trách chung; Phạm Quang Thu: Phó Chủ tịch; Thái Đình Hàn: Ủy viên, phụ trách quân sự; Ngô Quốc Văn: Ủy viên, phụ trách công an; Nguyễn Nhiên: Ủy viên, phụ trách tài chính; Ngô Thanh, Trần Suất: Ủy viên, phụ trách giao thông;- Đặng Bá Phụng: Ủy viên, phụ trách bưu chính.
Những đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Khê nói trên hầu hết là đảng viên vào Đảng từ những năm 1930 - 1931, đã qua thử thách trong nhà tù của đế quốc, phong kiến. Nhiệm vụ của Ủy ban khởi nghĩa là: một mặt, tuyên truyền, tổ chức các quần chúng vào các hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh như: Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc. Nội dung tuyên truyền tập trung vạch mặt đế quốc, phong kiến, thức tỉnh lòng yêu nước, căm thù đế quốc, phong kiến, khắc phục tâm lý hoài nghi, do dự của một bộ phận quần chúng sợ địch khủng bố như sau thời kỳ 1930 - 1931; mặt khác, theo dõi, bám sát các hoạt động của quan lại và hào lý các tổng, xã, những hành động phá hoại của chúng.
Hội nghị nhận định đặc điểm địa lý, dân cư và phong trào cách mạng của huyện để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo đấu tranh phù hợp khi mùa mưa lụt đến. Căn cứ vào thực tế phong trào vùng thượng huyện đang lên cao và ít bị ngập lụt khi mùa mưa đến, lại đông dân, gần huyện lỵ Chu Lễ, nên Hội nghị chủ trương chuyển cơ quan lãnh đạo chung của huyện lên xã Gia Phố[43].
Nếu như Hội nghị Trúc Lâm ngày 27/5/1945 đã đánh dấu sự khôi phục Đảng bộ và mở ra thời kỳ tiền khởi nghĩa sôi nổi, đẩy mạnh phong trào Việt Minh, thì thành công của Hội nghị Tân Lệ ngày 20/7/1945 với việc thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện là bước chuẩn bị trực tiếp cho thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Khê. Đến đây, Đảng bộ Hương Khê đã thật sự được khôi phục và cao trào kháng Nhật, cứu nước ở Hương Khê đã đạt tới cao điểm, chuẩn bị thêm điều kiện cho sự chín muồi của cuộc khởi nghĩa sắp đến. Đồng chí Nguyễn Tuy là người lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ và phong trào cách mạng Hương Khê thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Tân Lệ, một bộ phận của Ủy ban khởi nghĩa huyện chuyển lên hoạt động ở thượng huyện, do đồng chí Phạm Quang Thu, Phó Chủ tịch, phụ trách, có trụ sở đặt tại nhà đồng chí Nho Nhuỵ, xã Gia Phố. Đồng chí Phạm Quang Thu vừa làm nhiệm vụ thường trực của Ủy ban khởi nghĩa huyện vừa trực tiếp chỉ đạo tổng Chu Lễ, thành lập Ủy ban khởi nghĩa tổng Chu Lễ. Bộ phận chính của Ủy ban do đồng chí Nguyễn Tuy, Chủ tịch, phụ trách vẫn lấy địa bàn Trúc Lâm làm trung tâm chỉ đạo vùng hạ huyện. Các ủy viên Ủy ban khởi nghĩa đều được phân công về chỉ đạo các tổng, các xã, thành lập ủy ban khởi nghĩa các nơi theo hình thức nửa bí mật, nửa công khai.
Đến đầu tháng 8/1945, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Mặt trận Việt Minh ra đời, tập hợp quần chúng tham gia các hoạt động tập luyện quân sự, học chữ quốc ngữ, bàn luận thời cuộc. Cán bộ, đảng viên và tự vệ thanh niên vừa theo dõi tình hình địch, vừa tuyên truyền vận động quần chúng chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Phong trào phá kho thóc của Nhật, cứu đói cho dân được tổ chức ở những nơi có điều kiện, nhất là khu vực Chu Lễ. Các ủy ban khởi nghĩa đã tổ chức các cuộc diễn thuyết công khai ở tất cả các chợ trong huyện như: chợ Gia, chợ Huyện, chợ Sòng, chợ Trúc, chợ Nổ, chợ Hào, chợ đồn điền Trần Cảnh Cung... Quần chúng không có nhu cầu mua bán cũng được Việt Minh vận động đi chợ để dự mít tinh...
Trên thực tế, Hương Khê đã thực hiện thành công chủ trương khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận về tay Nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của cách mạng, lấn át phạm vi ảnh hưởng của chính quyền địch.
Ngày 8/8/1945, Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh họp tại huyện Hưng Nguyền, bầu Ban Chấp hành chính thức của Việt Minh Nghệ - Tĩnh. Hội nghị quyết định: Gấp rút xây dựng và phát triển mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh, các hội Cứu quốc, các đội tự vệ, tiểu tổ du kích, thực hiện quân sự hoá toàn dân, thành lập các chiến khu chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Vận động một phong trào treo cờ, khẩu hiệu, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh diễn thuyết, biểu tình tuần hành thị uy để cổ động quần chúng, gây thanh thế cho phong trào. Chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật và nếu họ tỏ thái độ xâm lược thì sẵn sàng đối phó. Khi điều kiện cho phép sẽ tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở nông thôn trước, thành thị sau.
Về chỉ đạo khởi nghĩa, Hội nghị đã chia hai tỉnh thành 6 phân khu (Nghệ An: 4, Hà Tĩnh: 2) để tiện việc chỉ đạo và cử cán bộ phụ trách. Theo đó, Hương Khê thuộc Phân khu Bắc Hà (Bắc Hà Tĩnh)[44].
Thực hiện chủ trương mới của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh và để gây khí thế cho hoạt động của Việt Minh, thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ hơn nữa, Ủy ban khởi nghĩa và Việt Minh huyện đã chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền công khai về Việt Minh. Khẩu hiệu, truyền đơn, cờ đỏ sao vàng được các cấp bộ Việt Minh trong huyện chuẩn bị đầy đủ. Đêm ngày 10/8/1945, ủy ban khởi nghĩa đã chỉ đạo tiến hành một cuộc đại náo trong toàn huyện bằng hình thức mít tinh, diễn thuyết, treo cờ đỏ sao vàng, chăng biểu ngữ, dán khẩu hiệu ở khắp các thôn xã. Sau cuộc đại náo, Nhân dân càng nô nức gia nhập Việt Minh. Các đoàn thể Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc được tổ chức ở hầu khắp các thôn xã.
Để vận động quân Đồng minh trợ giúp, ở Trúc Lâm, Ủy ban khởi nghĩa đã cho dùng nhiều chăn, chiếu quét đất sét mầu, kết lại thành cờ đỏ sao vàng năm cánh và cờ Hoa Kỳ trải trên núi Bãi Khoai, làm tín hiệu nơi có phong trào Việt Minh để liên lạc với máy bay Mỹ, nhận tiếp tế của Đồng minh. Nhiều lượt máy bay Mỹ đã lượn vòng quan sát, song ta không có biện pháp để liên lạc cụ thể với máy bay, nên phi công chỉ rải truyền đơn kêu gọi phối hợp chống Nhật mà không thả vũ khí như ta mong muốn.
Khí thế cách mạng của quần chúng và sự lớn mạnh của phong trào Việt Minh đã phân hoá sâu sắc hàng ngũ địch, nhiều hào lý đã ngỏ ý xin được gia nhập Việt Minh. Một số khác tỏ ra ngoan cố, chống đối Nhân dân đến cùng, bị cán bộ, tự vệ cách mạng theo dõi sát sao, kiềm chế hoạt động của chúng.
Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, quân Nhật ở Đông Dương tê liệt như rắn mất đầu, bọn Việt gian tay sai Trần Trọng Kim hoang mang rệu rã. Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng diễn ra từ 13 đến 15/8/1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào được tổ chức ngày 16/8/1945 đã quyết định phát động Nhân dân cả nước vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân theo nguyên tắc “Tập trung, thống nhất, kịp thời”, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (tiền thân của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, các tỉnh, thành đã lãnh đạo Nhân dân vùng lên tổng khởi nghĩa, hình thành cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử năm 1945. Tổng khởi nghĩa đã lần lượt giành được thắng lợi ở Hà Nội (19/8/1945), Huế (23/8/1945), Sài Gòn (25/8/1945)... Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà...
Ở Nghệ - Tĩnh, nắm bắt được chủ trương chung và trước sự xuất hiện của thời cơ cách mạng, ngày 15/8/1945, Thường vụ Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh đã triệu tập cuộc họp bất thường, cử Ủy ban khởi nghĩa và phát lệnh cho các phủ huyện thực hiện ngay việc giành chính quyền ở địa phương.
Do đã có chuẩn bị trước và với tinh thần chủ động, khi có lệnh của Việt Minh Nghệ - Tĩnh, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh nhanh chóng bùng nổ và giành thắng lợi. Ngày 16/8/1945, cách mạng làm chủ huyện đường Can Lộc. Ngày 17/8/1945, chính quyền cách mạng được thành lập ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Ngày 18/8/1945, Tổng khởi nghĩa thành công ở Thị xã Hà Tĩnh, chính quyền Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Chủ tịch. Cùng ngày, chính quyền cách mạng các huyện Kỳ Anh, Đức Thọ ra đời. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thành công ở Hương Sơn, Nghi Xuân.
Ở Hương Khê, sau khi quân Nhật đầu hàng Đồng minh, bộ máy chính quyền bù nhìn thân Nhật bị tê liệt, quan chức trong huyện hoang mang dao động cực độ. Một toán quân Nhật đóng ở Hương Khê trước lúc rút lui về Vinh đã vơ vét tài sản các công sở và của Nhân dân ta mang đi. Chúng đã bị lực lượng tự vệ cách mạng hạ huyện chặn đánh ở cầu Cửa Rào.
Trận Cửa Rào[45], ngày 15/8/1945 do các đồng chí Nguyễn Tuy, Thái Đình Hàn, Mai Minh, Mai Củng, Nguyễn Khắc Như, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh,... tổ chức, chỉ huy và trực tiếp thực hiện. Tham gia còn có nhiều chiến sĩ tự vệ được lựa chọn từ các nơi, trang bị vũ khí có một số súng săn, chủ yếu là giáo mác. Lực lượng vũ trang cách mạng đã chọn khu vực Chín khúc Hội Nai, nơi địa hình hiểm trở, rừng núi hoang vắng, đường sắt chạy giữa một bên là sông Ngàn Sâu, một bên là vách núi, độ cong lớn, tầm quan sát của địch trên tàu bị hạn chế để bố trí mai phục, tháo bu long đường ray, đặt chướng ngại vật. Khi đoàn tàu hoả bị trật bánh, đầu máy lật nghiêng vào vách núi, nhân lúc địch hoảng loạn, các chiến sĩ tự vệ cách mạng đã khống chế trận địa, tịch thu một số vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực và rút lui an toàn, gây ách tắc giao thông đường sắt của địch trong nhiều ngày.
Trận Cửa Rào là chiến thắng quan trọng của quân dân Hương Khê trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, tạo thanh thế cho Việt Minh và cổ vũ phong trào khởi nghĩa ở địa phương.
Theo quy định của Hội nghị Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, phong trào Hương Khê thuộc sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà, song do điều kiện giao thông liên lạc không kịp thời nên Hương Khê tiếp nhận sự chỉ đạo của cấp trên có bị chậm hơn các huyện khác[46]. Tuy vậy, ngày 18/8/1945, khi nghe tin cách mạng đã giành chính quyền ở tỉnh, Ủy ban khởi nghĩa huyện đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp tại xã Trúc Lâm quyết định kế hoạch giành chính quyền ở huyện lỵ Chu Lễ.
Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ và các tổng xã, thiết lập chính quyền cách mạng của Nhân dân. Hội nghị đã cử cán bộ về tỉnh nắm tình hình, nhận chỉ thị của tỉnh và phân công nhiệm vụ cho các ủy viên về chỉ đạo giành chính quyền ở các tổng, xã. Các đội tự vệ nhanh chóng loan tin cách mạng thành công ở các nơi, khiến quần chúng hết sức hồ hởi, tin tưởng, rạo rực sắm sửa cờ, trống, vũ khí để tham gia giành chính quyền ở Chu Lễ.
Theo mệnh lệnh của ủy ban khởi nghĩa huyện, sáng sớm ngày 19/8/1945, các đoàn biểu tình hạ huyện được tập trung ở bến đò Địa Lợi, các xã vùng thượng huyện tập trung tại khu vực Thuỷ Lâm để chờ lệnh cùng tiến vào huyện lỵ Chu Lễ giành chính quyền. Đoàn biểu tình có đội tự vệ vũ trang quần chúng hỗ trợ, có băng cờ, khẩu hiệu, chiêng trống tập hợp tại các địa điểm chờ lệnh hành động. Tuy vậy, do giao thông viên xuống tỉnh quay về chậm, khâu hậu cần cơm, nước tiếp tế không bảo đảm, nên Ủy ban khởi nghĩa quyết định tạm thời giải tán để bảo đảm sức khoẻ cho quần chúng, chờ lệnh mới của tỉnh.
Nhận được tin cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Khê gặp khó khăn do thiếu sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà, Ủy ban khởi nghĩa Phân khu Nam Hà đã đưa lực lượng từ Thị xã lên chi viện cho Hương Khê giành chính quyền ở huyện lỵ.
Khoảng 3 giờ chiều ngày 19/8/1945, một chiếc ô tô hòm, do đồng chí Cơ và đồng chí Thể cùng một số chiến sĩ tự vệ của Ủy ban khởi nghĩa Phân khu Nam Hà từ tỉnh lên, đi thẳng vào sân huyện lỵ làm quan lại ngơ ngác, run sợ. Đồng chí Phạm Quang Thu, Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện và quần chúng ở Thượng Thạch, Trung Định đã kịp thời có mặt. Trước sức mạnh áp đảo của cách mạng, binh lính, nha lại đều khép nép, không dám có thái độ chống đối. Huyện trưởng Nguyễn Xuân Lâm với áo dài tề chỉnh đã giao nộp đầy đủ sổ sách, con dấu, súng đạn, tài sản của huyện đường cho đại diện Ủy ban khởi nghĩa. Hơn 10 khẩu súng dài (súng trường) của lính khố lục (bảo vệ) được ủy ban khởi nghĩa giao cho tự vệ, dân quân có mặt.
Ngay sau đó, lực lượng khởi nghĩa kéo đi tước vũ khí của lính đồn Chu Lễ. Các đội viên tự vệ, dân quân và quần chúng được huy động đi theo hỗ trợ. Thấy đoàn khởi nghĩa đến, đội Hạp, đồn trưởng đồn Chu Lễ chạy ra tận cổng đón đoàn, xin đầu hàng cách mạng. Đồn Chu Lễ vốn khá đông binh lính, vũ khí, song sau ngày Nhật đảo chính Pháp (3/1945), nhiều binh lính đã mang theo vũ khí bỏ trốn, nhiều vũ khí, tài sản bị quân Nhật vơ vét khi rút chạy về Vinh. Số còn lại chỉ có 12 tên với 7 súng mútcơtông và 200 viên đạn, 1 khẩu súng lục, khoảng vài tạ gạo. Đoàn khởi nghĩa đã hạ lệnh giải tán số binh lính đồn, chờ xét xử sau, vũ khí bị tịch thu và được trang bị cho dân quân Thượng Thạch.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của Nhân dân Hương Khê đã giành thắng lợi mau chóng, không đổ máu.
Chiều tối ngày 19/8/1945, ủy ban khởi nghĩa huyện và một số cán bộ họp bàn việc ra mắt chính quyền cách mạng ở huyện và chỉ đạo giành chính quyền ở các địa phương. Hội nghị quyết định đổi tên Ủy ban khởi nghĩa huyện thành Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê, chủ trương tổ chức các cuộc mít tinh tại các tổng, các xã để xoá bỏ chính quyền đế quốc, phong kiến, vạch mặt tội ác của tay sai phản dân, hại nước, có nợ máu với cách mạng và lập danh sách chúng nộp lên huyện. Hội nghị chủ trương huy động quần chúng các xã tham dự cuộc mít tinh lớn tại Chu Lễ để chào mừng sự ra mắt của Ủy ban cách mạng lâm thời huyện, chào mừng cách mạng thành công ở Hương Khê.
Ngày 21/8/1945, theo chỉ thị của tỉnh, Ủy ban khởi nghĩa Hương Khê đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Chu Lễ, với hàng ngàn quần chúng trong toàn huyện tham dự. Tại buổi mít tinh, ủy ban cách mạng lâm thời Hương Khê ra mắt Nhân dân, do đồng chí Nguyễn Tuy làm Chủ tịch.
Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã tuyên bố thủ tiêu toàn bộ chính quyền thân Nhật, xóa bỏ mọi luật lệ của Pháp, Nhật và phong kiến, tuyên bố thiết lập trật tự xã hội mới và hệ thống chính quyền cách mạng từ huyện xuống các làng xã trong toàn huyện, ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê ra mắt Nhân dân là mốc đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê[47].
Sau cuộc mít tinh ở Chu Lễ, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa và sự lãnh đạo của các đảng viên, quần chúng đã kéo về địa phương tịch thu sổ sách, con dấu của các chánh tổng, lý trưởng, thành lập chính quyền Nhân dân. Chỉ trong 3 ngày sau, toàn bộ chính quyền từ huyện đến làng xã đã thuộc về Nhân dân, về cách mạng.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê có ý nghĩa hết sức to lớn. Với thắng lợi này, Nhân dân Hương Khê đã lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của đế quốc, phát xít, lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn năm của giai cấp địa chủ, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa đã đưa Nhân dân lao động Hương Khê từ địa vị nô lệ thành người làm chủ quê hương, làng xóm của mình. Vối thắng lợi này, Đảng bộ Hương Khê từ một tổ chức hoạt động bất hợp pháp, bị khủng bố, tàn sát, trở thành lực lượng cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống của Nhân dân toàn huyện. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa nói lên tinh thần cách mạng kiên cường bất khuất, truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự do của Nhân dân Hương Khê, nơi đã là căn cứ chống Pháp của Vua Hàm Nghi, của khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Nhiều kinh nghiệm của cuộc khỏi nghĩa là vốn quý cho Đảng bộ, chính quyền, và Nhân dân Hương Khê sau này.
Đảng bộ, Nhân dân Hương Khê vô cùng tự hào với cuộc đấu tranh kiên cường và oanh liệt của mình. Không những Hương Khê đã giải phóng được mình, mà còn góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh và của cả nước.
Thắng lợi nhanh gọn, không đổ máu của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Hương Khê là kết quả của nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan.
Khách quan là do quân Pháp không còn lực lượng ở Hương Khê, quân Nhật hoang mang bỏ chạy, tay sai bị tê liệt, rệu rã không đủ sức chống lại phong trào cách mạng của Nhân dân.
Chủ quan là do các nguyên nhân sau: Đảng bộ Hương Khê đã vượt qua được khó khăn, khôi phục được một số chi bộ nòng cốt, phát động được phong trào Việt Minh, kịp thời lãnh đạo phong trào huyện Hương Khê hòa nhịp với cao trào chung của toàn tỉnh, với cả nước, hình thành lực lượng cách mạng to lớn, có các căn cứ địa và cơ sở đứng chân vững chắc, lập được ủy ban khởi nghĩa huyện, khi thời cơ đến đã nhanh chóng huy động toàn dân nổi dậy giành chính quyền[48]; Nhân dân Hương Khê có truyền thống yêu nước bất khuất, đã vùng lên đấu tranh quyết liệt với đế quốc, phong kiến trong cao trào 1930 - 1931, cao trào kháng Nhật, cứu nước đầu năm 1945, nhất là trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Hương Khê có lực lượng chính trị lớn mạnh, thu hút mọi tầng lớp Nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc, có căn cứ địa và lực lượng tự vệ được tổ chức ở nhiều nơi; Có sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh ủy, của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, của sự động viên cổ vũ của phong trào cách mạng các huyện bạn.
Trong những nguyên nhân trên, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng bộ huyện, của những người đảng viên cộng sản kiên cường, vốn là các cựu chính trị phạm có vai trò quyết định nhất.
Qua quá trình hoạt động, xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng thời kỳ 1930 - 1945, có thể nêu lên một số ưu, khuyết điểm chính của Đảng bộ Hương Khê như sau:
Về ưu điểm:
Thứ nhất, những năm 1930 - 1931, Đảng bộ vừa mới ra đời, đảng viên còn ít, chưa được giáo dục rèn luyện nhiều, nhưng đã lãnh đạo và phát động được Nhân dân toàn huyện vùng lên đấu tranh tạo thành cao trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Phong trào cách mạng ở Hương Khê cơ bản đã đi đúng đường lối của Đảng, biết gắn chặt đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, nên bước đầu đã đưa lại một số quyền lợi thiết thân cho quần chúng lao động như: chia ruộng đất công, giảm tô, giảm tức, làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng ở Đảng.
Thứ hai, trong đấu tranh, Đảng bộ đã xây dựng được một lực lượng cách mạng hùng hậu, trong đó nông dân là quân chủ lực. Đảng bộ đã biết vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn của địa phương mình, đã biết phân hóa kẻ thù, tranh thủ những người có thể tranh thủ được. Đối với những tên phản động chống phá cách mạng, việc trừng trị được thi hành đúng mức, đối với số hương lý hoặc số người thuộc thành phần lớp trên ít nhiều có tư tưởng tiến bộ, đã được giáo dục, tranh thủ, đưa họ vào hội tán trợ, hoặc vận động họ giúp đỡ cách mạng.
Thứ ba, trong điều kiện phải hoạt động bí mật và bất hợp pháp, Đảng bộ đã biết sử dụng các hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế để giành thắng lợi. Những năm 1930 - 1931, Đảng bộ đã chú ý xây dựng các đội tự vệ làm lực lượng bảo vệ Đảng và làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh. Trong thời kỳ vận động dân chủ 1936 - 1939 đã tập hợp được quần chúng lao động, hướng dẫn, tổ chức họ đấu tranh đòi các quyền lợi thiết thực, cải thiện đời sống. Thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng bộ đã chú ý xây dựng các đội tự vệ, khéo sử dụng tổ chức thanh niên Phan Anh, đưa thanh niên đi huấn luyện tự vệ ở các căn cứ để làm nòng cốt cho quần chúng giành chính quyền.
Thứ tư, trong quá trình lãnh đạo quần chúng đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ được thử thách, rèn luyện và đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đức tính hy sinh dũng cảm, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng, gắn bó với quần chúng, được quần chúng tin tưởng và mến phục. Hầu hết cán bộ, đảng viên Hương Khê trong khói lửa đấu tranh, dù bị bắt bớ, tra tấn, bị cùm kẹp, mua chuộc dụ dỗ, vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, của người cán bộ cách mạng.
Nhưng bên cạnh những thành tích và ưu điểm đó, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ Hương Khê cũng còn một số khuyết điểm như:
Thứ nhất, dù Đảng bộ hình thành sớm (02/1930), việc phát triển đảng viên và xây dựng chi bộ tuy nhanh, nhưng phong trào quần chúng lại nổ ra chậm và đến tháng 11/1930 mới có cao trào hoà nhịp với cao trào chung của vùng Nghệ - Tĩnh. Thời kỳ 1932 - 1944, nhìn chung phong trào không sôi nổi, không mạnh.
Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên chưa được giáo dục chính trị để nâng cao lập trường tư tưởng và ý thức giai cấp, nên còn phạm một số thiếu sót trong lãnh đạo, trong chỉ đạo đấu tranh. Trong đấu tranh, Đảng bộ đã bỏ sót nhiều người ưu tú trong Nhân dân lao động xuất hiện trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 để đưa vào Đảng, có biểu hiện tư tưởng “tả khuynh”, hẹp hòi, làm thu hẹp lực lượng cách mạng. Trong việc kết nạp đảng viên, vì thiếu thận trọng, không thông qua phê bình, đấu tranh, nên đã đưa vào Đảng một số ít không đủ tiêu chuẩn, khi bị địch bắt bớ, tra tấn, dụ dỗ mua chuộc, số đó đã đầu hàng, đầu thú, hoặc sau đó nằm im, không dám hoạt động nữa.
Thứ ba, việc xây dựng chi bộ dự bị, bảo vệ cơ sở cốt cán tuy đã được đề ra nhưng chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đầy đủ. Khi phong trào lên mạnh hầu hết cán bộ, đảng viên đều hoạt động công khai, do đó khi địch khủng bố ác liệt, hầu hết đảng viên đều bị bắt, các chi bộ đều tan vỡ, ít đồng chí giữ được bí mật để duy trì phong trào. Trong những năm 1936 - 1939 và thời kỳ tiền khởi nghĩa, tuy có điều kiện phục hồi Đảng bộ, các chi bộ cũ và xây dựng các chi bộ mới nhưng một số đảng viên chưa tích cực thực hiện….
Những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ Hương Khê trong cuộc đấu tranh giành chính quyền nói chung, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 nói riêng rất phong phú. Quan trọng nhất là kinh nghiệm phải luôn chấp hành nghiêm và sáng tạo đường lối, chủ trương chung của Đảng vào hoàn cảnh địa phương. Là phải ra sức xây dựng lực lượng cách mạng, tập hợp quần chúng đấu tranh liên tục bền bỉ, có lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa vững chắc. Là phải tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh, của cấp trên, song tích cực chủ động dựa vào sức mình là chính. Là phải ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt, có tổ chức rộng khắp, có chủ trương đúng, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, dũng cảm sáng tạo, gắn bó với Nhân dân...
Có thể nêu lên một số kinh nghiệm chính thời kỳ này là:
Thứ nhất, muốn phát động được phong trào đấu tranh mạnh mẽ và sâu rộng của quần chúng, muốn bảo vệ được cán bộ, đảng viên và mọi hoạt động của Đảng, trước hết phải phát động cho được nông dân, tổ chức nông dân lại, vì nông dân là lực lượng đông đảo và hùng mạnh ở nông thôn Hương Khê. Đảng bộ phải quan tâm đúng mức quyền lợi của nông dân, phải có những khẩu hiệu đấu tranh hợp với nguyện vọng thiết thực của họ như chia ruộng đất công, giảm tô, giảm tức và phải giáo dục họ về đường lối, chủ trương của Đảng để họ tự nguyện tích cực thực hiện.
Thực tế diễn ra trong cuộc đấu tranh một mất một còn với đế quốc, phong kiến trong thời kỳ Đảng ta còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp, là khi Đảng bộ đã phát động được nông dân vùng lên thì dù phải hy sinh đổ máu họ cũng không nản chí đấu tranh như vụ Rôộc Cồn (20/4/1931 có 17 người hy sinh). Những năm 1931 - 1933, tuy địch tiến hành những cuộc khủng bố vây ráp rất ác liệt, nhưng một số cán bộ, đảng viên có thể hoạt động được thêm một thời gian khá dài vì các đồng chí đã biết bám vào dân và được Nhân dân bảo vệ. Chi bộ Hà Linh tuy phải trải qua những đợt khủng bố rất tàn bạo của quân thù nhưng vẫn hoạt động được liên tục và thành quả mà Nhân dân Hà Linh đấu tranh giành được trong phong trào Xô viết vẫn được giữ vững cho đến Cách mạng tháng Tám thành công, vì chi bộ đã làm tốt công tác vận động quần chúng đấu tranh đúng với đường lối, chủ trương của Đảng.
Ngoài việc nắm lực lượng nông dân, một vấn đề rất quan trọng nữa là phải thực hiện tốt chính sách mặt trận để tập hợp một lực lượng yêu nước và tiến bộ, đưa họ vào các tổ chức quần chúng thích hợp để tăng cường lực lượng cách mạng.
Thứ hai, công tác xây dựng Đảng phải luôn luôn nắm vững đặc điểm của Đảng ta, của địa bàn Hương Khê, một vùng nông nghiệp, kinh tế kém phát triển, nhận thức chung của cán bộ, đảng viên, Nhân dân có nhiều hạn chế. Tuy là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng lại sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nên số đông đảng viên đều xuất thân từ giai cấp nông dân và tiểu tư sản, điều đó càng hết sức đúng với Hương Khê. Vì vậy Đảng bộ cần phải chú trọng kết nạp những quần chúng ưu tú trong nông dân lao động, trong tiểu tư sản, nhưng phải thông qua phong trào đấu tranh cách mạng mà lựa chọn, kết nạp đảng viên, cất nhắc cán bộ. Cũng từ đặc điểm đó mà đảng viên đa số xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản nên sau khi vào Đảng, họ cần phải thường xuyên bồi dưỡng về lý luận Mác - Lênin, về đường lối, chủ trương của Đảng, về quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân.
Hạn chế của Đảng bộ Hương Khê là trong thời gian đầu đã tách rời giữa phát động quần chúng đấu tranh với công tác xây dựng Đảng. Chưa biết kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức và đấu tranh, thông qua phong trào đấu tranh của quần chúng mà củng cố tổ chức, xây dựng Đảng.
Thứ ba, lòng hy sinh dũng cảm, tinh thần tiến công cách mạng, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng tiến lên không ngừng. Tuy chưa được học tập, bồi dưỡng nhiều về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng các cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng bộ Hương Khê trong những năm 1930 - 1931 và cả những năm sau nữa, đã đào tạo rèn luyện cho Đảng bộ một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Đảng, vì dân. Các đồng chí đã bất chấp mọi trở ngại, khó khăn không sợ bị bắn giết, tù đày, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ quần chúng, thương yêu quần chúng, bám sát quần chúng mà hoạt động, luôn luôn giữ vững tính giai cấp và tính tiên phong của người đảng viên.
Gương đấu tranh kiên cường, hy sinh dũng cảm, “vào tù, ra tội” của các đảng viên cộng sản Hương Khê đã có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phong trào quần chúng tiến lên, gắn bó Đảng bộ với quần chúng. Đồng chí Phan Lũ, Bí thư chi bộ Phúc Ấm xông vào chém tên đồn trưởng Chu Lễ trong vụ Rôộc Cồn, các đồng chí Hồ Sỹ Cung, Trần Rạng vẫn hiên ngang trước mũi súng của quân thù, không cúi đầu khuất phục. Các đồng chí Phạm Khuông, Mai Phì bất chấp mọi khó khăn hiểm nguy, gian khổ vẫn bám sát cơ sở hoạt động, đến khi bị sa vào tay giặc vẫn giữ chí khí kiên cường, bất khuất, là những tấm gương sáng cho Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê học tập.
Tóm lại, thành công của Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê là sự kiện trọng đại, bước ngoặt lịch sử của Đảng bộ và quân dân Hương Khê. Từ thắng lợi này, một chế độ mới đã ra đời và phát triển đưa lại những thắng lợi tiếp theo cho Nhân dân Hương Khê. Những kinh nghiệm và niềm tự hào của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê thời kỳ 1930 - 1945 là cơ sở để Đảng bộ lãnh đạo Nhân dân huyện Hương Khê hoà cùng Nhân dân trong tỉnh bắt tay vào một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
CHƯƠNG III ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, KHÔI PHỤC ĐẢNG BỘ, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945 - 1946)
Sau ngày khởi nghĩa thắng lợi, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong bối cảnh vừa có những thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn to lớn. Cùng một lúc, chính quyền cách mạng phải giải quyết nhiều công việc vừa khẩn trương cấp bách, vừa căn bản lâu dài.
Toàn thể cán bộ, Nhân dân được huy động, tập trung vào việc xoá bỏ chính quyền cũ, thiết lập chính quyền mới. Nhiều cán bộ, đảng viên và những quần chúng tích cực, tiêu biểu, có trình độ được phân công đảm nhiệm các nhiệm vụ của chính quyền, đoàn thể. Ủy ban nhân dân cách mạng được củng cố từng bước với các ủy viên phụ trách từng lĩnh vực hành chính, quân sự, bưu điện, tư pháp, kinh tế, giáo dục, công an, y tế...
Các hoạt động cứu đói, tăng gia sản xuất được đẩy mạnh. Các ruộng đất công, ruộng đất của đế quốc, phản động, địa chủ, đồn điền được trưng thu để chia lại cho nông dân nên đã ngăn chặn được nạn đói.
Tuần lễ vàng được phát động, thu hút đông đảo Nhân dân tham gia. Toàn huyện góp được 3,4 cân tiểu ly vàng trong một tuần từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945. Huyện tổ chức một số trại sản xuất tập trung để cung cấp lương thực, thực phẩm cho cán bộ, bộ đội như: ở Tây Hồ, Địa Lợi, mở các cửa hàng dịch vụ, hiệu thuốc, quán ăn, quán trọ, tổ chức buôn bán trâu, bò, lợn ở Lào về cung cấp cho Nhân dân và tạo nguồn thu cho ngân sách của huyện.
Việc thực hiện chủ trương giảm tô 25%, chia lại công điền, công thổ, ruộng đất của đồn điền Pháp được tiến hành, bước đầu đưa lại lợi ích thiết thực cho dân nghèo.
Phong trào xoá nạn mù chữ, đổi mới hoạt động văn hoá, văn nghệ, nêu cao tinh thần yêu nước, cách mạng, đổi mới sinh hoạt cộng đồng... được phát động, thu hút toàn dân tham gia. Học sinh các trường tiểu học được tựu trường, phong trào vệ sinh, phòng bệnh, thể dục, thể thao được chú trọng, tạo bầu không khí vui tươi lành mạnh trong Nhân dân.
Quá trình xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng cùng công tác cứu đói, phát triển văn hoá xã hội được Đảng bộ Hương Khê hết sức quan tâm. Mặc dù các cơ sở Đảng được thành lập nhiều, các đảng viên đông nhưng do bị địch khủng bố, bắt bớ, giam cầm nên hệ thống tổ chức của Đảng bộ bị phá vỡ nhiều lần. Trừ các chi bộ Trúc Lâm, Hà Linh là hoạt động khá liên tục và đã khôi phục lại trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, còn hầu hết chi bộ các xã đến tháng 8/1945 vẫn chưa được khôi phục. Vì vậy khi cách mạng thành công, việc khôi phục Đảng bộ diễn ra có nhiều khó khăn, trở ngại.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Xứ ủy và của Tỉnh ủy Hà Tĩnh[49], Huyện ủy lâm thời đã cử cán bộ về các xã móc nối, liên lạc và công nhận đảng tịch cho các đảng viên cũ, hoạt động từ thời kỳ 1930 - 1931 và trước Cách mạng tháng Tám vẫn còn giữ vững tư cách đảng viên, trung thành với cách mạng. Đồng thời tiến hành kết nạp những quần chúng ưu tú, đã được thử thách vào Đảng. Với phương thức đó và sự nỗ lực cố gắng của các cán bộ, nhất là ý thức đoàn kết nội bộ, đặt sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng lên trên hết, các cán bộ, đảng viên cũ và mới trong huyện đã từ bỏ các thành kiến, ngờ vực trước đấy để cùng nhau khôi phục hệ thống tổ chức Đảng.
Đến cuối tháng 12/1945, trên cơ sở các chi bộ đã được khôi phục, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh, uy tín của Đảng lên cao, Đảng bộ huyện Hương Khê đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II để bàn chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng, thành lập lại Huyện ủy chính thức, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đại hội khai mạc vào ngày 20/12/1945 tại làng Trung Định (Hương Thuỷ).
Trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh (họp ngày 12/12/1945), Đại hội đã tập trung bàn định về một số vấn đề quan trọng cấp bách và cơ bản như:
Đánh giá tình hình cách mạng nói chung và của huyện nói riêng sau ngày khởi nghĩa thành công. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách mạng, yêu nước, tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Nhân dân. Quyết định nhanh chóng khôi phục Đảng bộ, phát triển đảng viên và chi bộ mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Tập trung nỗ lực xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng từ huyện đến xã, đồng thời xây dựng và củng cố các đoàn thể quần chúng, nhất là Mặt trận Việt Minh. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiết kiệm, cứu đói. Xây dựng nền giáo dục mới, xây dựng trường lớp cho con em đến trường học tập, chú trọng công tác y tế, bài trừ văn hóa, phong tục lạc hậu... Đối với công tác quân sự, công an, Đại hội nhấn mạnh phải ra sức xây dựng lực lượng dân quân du kích tập trung của huyện và dân quân du kích tại chỗ của các làng xã, thực hiện toàn dân luyện tập quân sự, toàn dân vũ trang để bảo vệ địa phương, cảnh giác với các hoạt động phá rối của bọn phản động và xâm lấn biên giới của quân Pháp từ Lào sang.Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 ủy viên, đồng chí Nguyễn Tuy[50], Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính; đồng chí Phan Dỵ - Phó Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Quang Thu - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính; các đồng chí Nguyễn Bính, Nguyễn Văn Sáng là Ủy viên Ban Thường vụ. Huyện ủy viên là các đồng chí: Dương Phương, Mai Minh, Ngô Lập, Thái Đình Hàn, Trần Suất, Đặng Bá Phụng.
Sau Đại hộ, Huyện ủy đã tập trung xây dựng, củng cố Mặt trận Việt Minh các cấp. Ở cấp huyện, Đại hội Mặt trận Việt Minh được tổ chức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Việt Minh huyện gồm 18 người do đồng chí Phan Dỵ làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Sáng làm Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Tuy là ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Dương Đức Cơ là Ủy viên Thư ký.
Thời kỳ này tổ chức Đảng đang trong quá trình phục hồi, sau đó đi vào hoạt động bí mật theo chủ trương của Trung ương Đảng, nên Đảng đã lấy danh nghĩa Việt Minh để lãnh đạo công khai. Tổ chức Đảng được gọi công khai là Ban Tuyên huấn Việt Minh. Về mặt văn bản, tổ chức Đảng được ghi danh là Cứu quốc Hội. Mỗi cán bộ Đảng vừa có chức vụ trong Đảng vừa có chức vụ ở Việt Minh hoặc ở chính quyền. Nhìn bên ngoài quần chúng chỉ thấy cán bộ Việt Minh mà khó thấy được cán bộ Đảng.
Tiếp theo thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945, việc chính thức lập lại Đảng bộ huyện cuối năm 1945 đã đánh dấu mốc chuyển biến căn bản, toàn diện lịch sử huyện Hương Khê sang một giai đoạn mới, vững chắc. Đảng bộ huyện Hương Khê từ đây thực sự là lực lượng cầm quyền, lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ địa phương.
Từ đầu năm 1946, các hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của quân dân trong huyện ngày càng phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Một đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi được triển khai trong các cấp, các ngành, các địa phương với mục tiêu tuyên truyền rộng rãi thắng lợi của cách mạng, nâng cao niềm tự hào và trách nhiệm làm chủ chế độ mới cho toàn Đảng, toàn dân trong huyện. Các chi bộ xã đều tổ chức đại hội lập chi ủy chính thức và bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện. Tổ chức Đảng tăng cường vai trò lãnh đạo mọi công việc và đều lấy danh nghĩa công khai là Đoàn thể. Cấp tổng được bãi bỏ, cấp xã được củng cố.
Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6/01/1946 và bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã ngày 27/2/1946 đã được Đảng bộ lãnh đạo chặt chẽ, Nhân dân hăng hái thực hiện. Các hội quần chúng như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Công nhân, Hội mẹ chiến sĩ, Hội cứu trợ binh sĩ bị nạn... được thành lập và củng cố, tham gia Mặt trận Việt Minh, Liên Việt. Hoạt động gây rối của một số phần tử Việt quốc bị ngăn chặn. Khối đoàn kết toàn dân được tăng cường. Hệ thống chính quyền cấp xã được chấn chỉnh, kết hợp các xã cũ thành các xã mới rộng hơn. Phong trào tăng gia sản xuất, hoạt động giao lưu buôn bán tiếp tục phát triển.
Phong trào bình dân học vụ được toàn dân hưởng ứng với hàng vạn người được thoát nạn mù chữ. Hàng chục trường tiểu học được xây dựng, thu hút con em Nhân dân lao động đến trường học tập. Tháng 10/1946, Trường Trung học Hương Khê[51] được Đảng bộ chỉ đạo xây dựng với sự nỗ lực của các cán bộ chủ chốt như đồng chí Nguyễn Tuy, Nguyễn Văn Sáng, Lưu Văn Xân,... Đây là một trong ba trường trung học công lập đầu tiên dưới chế độ mới ở Hà Tĩnh.
Một nhiệm vụ cấp bách khác của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê sau cách mạng là bảo vệ biên giới, chống quân Pháp từ Lào đánh sang. Trước đó, khi bị Nhật đảo chính, một số tàn quân Pháp đã chạy sang Lào lẩn trốn, nay tìm cách theo đường số 8 từ Napê sang Hương Sơn, Vũ Quang, theo đường Banafào sang Hương Khê... Một số phần tử phản động khi nghe tin Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ cũng có hành vi phản tuyên truyền, tìm cách chống phá chính quyền... Vì vậy, Đảng bộ và chính quyền huyện đã khẩn trương xây dựng lực lượng dân quân du kích, đưa lực lượng sang đánh địch trên đất Lào, hoặc vùng sát biên giới như: Vũ Quang, Tân Ấp.
Từ tháng 10/1945, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở, luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí trong toàn dân, theo chủ trương của tỉnh, một tiểu đoàn vũ trang tập trung được khẩn trương xây dựng ở Hương Khê. Đây là Tiểu đoàn Tự vệ tập trung của huyện, gọi là Tiểu đoàn Giải phóng quân Hương Khê, do đồng chí Ngô Quốc Văn, đồn trưởng đồn Chu Lễ làm Chỉ huy trưởng. Quân số của Tiểu đoàn lúc thành lập có 300 người, đều là thanh niên tình nguyện, con em Nhân dân trong huyện. Việc bảo đảm hậu cần cho Tiểu đoàn đều dựa vào Nhân dân. Trang bị vũ khí huy động trong Nhân dân hay do cán bộ chiến sĩ tự mua sắm mang theo. Huyện đã tổ chức tuần lễ thu góp kim khí để rèn đúc vũ khí cho bộ đội, dân quân. Các hội như: Phụ nữ, Phụ lão, Hội mẹ chiến sĩ đều tổ chức hũ gạo tiết kiệm để cứu đói cho dân nghèo và cung cấp cho Giải phóng quân. Bản thân cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn cũng tự túc một phần lương thực, thực phẩm bằng sự tiếp tế của gia đình. Có hai hạ sĩ quan quân đội Nhật sau chiến tranh đã không về nước mà tình nguyện ở lại giúp ta đánh Pháp, tham gia làm huấn luyện viên quân sự, hướng dẫn cách sử dụng vũ khí cho bộ đội của tiểu đoàn[52].
Tuy vũ khí thô sơ, song Tiểu đoàn đã ra sức tập luyện, hành quân dã ngoại, tập trận giả, động viên khí thế chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chính quyền cách mạng, làm thất bại các âm mưu gây rối loạn của quân Tưởng và tay sai Việt Quốc. Đặc biệt, Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị của tỉnh và của Nghệ An phối hợp đánh tàn quân Pháp ở Napê, Vũ Quang và Tân Ấp, Banafào, diệt một số tên, đuổi chúng sang bên kia biên giới. Chiến thắng Napê, Vũ Quang đã làm thất bại âm mưu đột nhập vào nội địa hòng tiến xuống chiếm lại vùng Nghệ - Tĩnh của quân Pháp, góp phần bảo vệ vững chắc khu vực biên giới phía Tây của tỉnh những ngày đầu sau cách mạng thành công.
Nói chung, suốt năm 1946, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ địa bàn ngày càng được Đảng, chính quyền, quân dân Hương Khê nhận thức đầy đủ hơn và ra sức thực hiện, đạt được nhiều kết quả, có ý nghĩa to lớn cho trước mắt và lâu dài.
II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954)
Đến giữa tháng 12/1946, trong khi tình hình mọi mặt của Hương Khê nói riêng, Hà Tĩnh nói chung đang có sự chuyển biến tốt thì cuộc đấu tranh của quân dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội chống các hành động khiêu khích, gây chiến của thực dân Pháp ngày càng trở nên phức tạp. Quân Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, trao quyền kiểm soát Hà Nội cho chúng. Trước hành động xâm lược trắng trợn đó của địch, đêm 19/12/1946, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động quân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến tỉnh, từ cuối năm 1946, Hương Khê đã được coi là trọng điểm phòng thủ, đồng thời tăng cường chuẩn bị để trở thành một khu căn cứ quan trọng của tỉnh, của Khu IV khi cần thiết. Vì vậy, khi có lệnh kháng chiến của cấp trên và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với quân dân cả nước và quân dân trong tỉnh, quân dân Hương Khê đã lập tức bước vào cuộc kháng chiến theo điều kiện cụ thể của địa phương mình. Đó là triển khai các phương án bố phòng, tăng cường luyện tập quân sự, chuẩn bị sơ tán khỏi các vùng trọng điểm, quản lý chặt chẽ các phần tử xấu, tích cực thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến... Tháng 02/1947, Tiểu đoàn Giải phóng quân huyện Hương Khê và lực lượng của tỉnh đã chặn đánh quân Pháp sang vùng Vũ Quang, đuổi chúng tới tận Càđốcnathon, Napê (Lào).
Đầu năm 1947, quân Pháp đánh mạnh từ phía Nam ra Thừa Thiên, từ Lào sang Quảng Trị, tiếp đó tiến nhanh ra Quảng Bình. Cuộc chiến tranh xâm lược của quân Pháp đã gây ra những thiệt hại và khó khăn cho quân dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên, cơ quan Ủy ban hành chính Trung Bộ và ngành hoả xa. Trong khi đó, các tỉnh phía bắc Khu IV vẫn được bảo vệ vững chắc, trở thành vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, một cuộc sơ tán Nhân dân, di chuyển các cơ quan, đơn vị từ Bình - Trị - Thiên ra các tỉnh phía bắc Khu IV, trước hết là Hà Tĩnh, được khẩn trương thực hiện. Vùng Hương Khê được Ủy ban hành chính Trung Bộ chọn làm An toàn khu (ATK), đặt các cơ quan, trường học, công xưởng, nơi sơ tán của Nhân dân, gia đình cán bộ, học sinh từ Bình - Trị - Thiên ra theo đường sắt. Đội ngũ cán bộ, học sinh, kỹ sư, công nhân kỹ thuật đến sơ tán ở huyện Hương Khê lên tới hàng ngàn người, trong đó có những nhà khoa học có tên tuổi như Giáo sư Phạm Đình Ái, người điều chế ra axít sunfuaric đầu tiên ở nước ta. Trường Kỹ nghệ của Trung Bộ có 12 giáo viên, 31 học sinh...
Từ ngày 25 đến ngày 26/02/1947, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ III tại nhà đồng chí Đặng Bá Soa, xóm Trại, làng Tế Lễ (nay là xã Hương Thủy). Để thực hiện chủ trương toàn quốc kháng chiến của Đảng và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại hội đã bàn định các biện pháp lãnh đạo cuộc kháng chiến ở huyện:
Chuyển toàn bộ hoạt động của huyện sang thời chiến, tiếp tục củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, vận động toàn dân sưu tầm vũ khí cho tự vệ tập trung và dân quân du kích. Tăng cường công tác bố phòng, kết hợp với các đơn vị vệ quốc đoàn đưa lực lượng bố trí ở các điểm cao vùng biên giới Việt - Lào kiên quyết bảo vệ địa bàn, tổ chức đào hầm hào công sự, cắm chông, chống đổ bộ đường không, bảo mật, phòng gian nghiêm ngặt, thực hiện ba không (không nghe, không thấy, không biết). Ra sức bảo đảm an toàn cho các hoạt động của các đơn vị, cơ quan ATK, thực hiện tốt nhiệm vụ căn cứ địa, hậu phương cho Bình - Trị - Thiên.Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 ủy viên, đồng chí Nguyễn Văn Sáng giữ chức Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, đồng chí Nguyễn Triêm - Phó Bí thư. Ủy viên Ban Thường vụ là đồng chí Lê Hữu Tuy. Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch ủy ban là đồng chí Lưu Văn Xân; các Huyện ủy viên là đồng chí Mai Minh, Vũ Trọng Côn, Dương Đình Cán, đồng chí Liễu, đồng chí Ngân.
Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ lần thứ III, từ đầu năm 1947, quân dân Hương Khê đã có nhiều phong trào thi đua kháng chiến kiến quốc sôi nổi. Các địa phương đã đẩy mạnh tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm để phục vụ cho nhu cầu của địa phương mình và cung cấp cho bộ đội, cán bộ. Với nhiều biện pháp chống hạn, mở rộng diện tích, các vụ sản xuất năm 1947 đều cho thu hoạch khá, đời sống Nhân dân không bị đảo lộn lớn. Nhiều đợt, nhiều lớp huấn luyện quân sự chính trị được mở để đào tạo cấp tốc cán bộ cho các địa phương, đơn vị. Hầu hết Nhân dân Hương Khê đã tham dự các cuộc luyện tập quân sự, tự mua sắm vũ khí sẵn sàng đánh giặc bảo vệ quê hương. Các cán bộ, đảng viên ngày đêm lăn lộn với phong trào, gắn bó với Nhân dân để công tác, được Nhân dân nuôi dưỡng, giúp đỡ mọi mặt. Số lượng và chất lượng đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng tăng lên nhanh chóng. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể quần chúng những ngày đầu kháng chiến được nhanh chóng kiện toàn phù hợp với tình hình thời chiến.
Sự tăng lên đột biến về nhân tài, vật lực do việc sơ tán, tản cư của các cơ quan, công xưởng và Nhân dân từ Bình - Trị - Thiên, Trung Bộ ra từ giữa năm 1947, làm cho vùng Hương Khê nhộn nhịp hẳn lên với bầu không khí sôi động “trên bến dưới thuyền”, đèn điện sáng lung linh ở các cơ xưởng. Sinh hoạt văn hoá, văn nghệ phong phú, tình cảm tiền tuyến, hậu phương chan hoà. Việc Đảng bộ, quân dân Hương Khê được đón tiếp cơ quan cấp trên và đồng bào các tỉnh bạn ra sơ tán là một vinh dự lớn nhưng đồng thời cũng đặt ra cho huyện thêm một trách nhiệm mới, nặng nề. Đó là nhiệm vụ của một vùng căn cứ địa, hậu phương, phải ra sức bảo vệ địa bàn, cung cấp lương thực, thực phẩm, san sẻ cửa nhà, vườn ruộng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan, công xưởng, giúp đỡ cán bộ và Nhân dân tản cư đến.
Trên một khu vực rộng lớn theo tuyến đường sắt chạy dọc huyện và theo sông Ngàn Sâu, Rào Nổ, với trung tâm là Thị trấn Chu Lễ, hàng chục cơ quan, công xưởng, trường học của Trung Bộ được bố trí hoạt động một cách liên hoàn. Tuy về nhiều mặt, các cơ quan, công xưởng của ATK hoạt động độc lập, song về công tác Đảng, các cơ quan đó có Liên chi ủy lãnh đạo, quan hệ công tác mật thiết với Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê. Huyện ủy và Liên chi ủy đã có nhiều cuộc hội nghị liên tịch bàn phối hợp công tác, nhất là việc bảo đảm an toàn và cung cấp hậu cần, nhân lực phục vụ vận tải, sản xuất, bình dân học vụ. Đảng bộ huyện Hương Khê đã chỉ đạo phát động các phong trào đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, phong trào ghi tên tòng quân, phong trào bình dân học vụ, xây dựng nếp sống mới, vệ sinh bảo vệ sức khoẻ, hợp tự đền chùa. Đặc biệt, phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng được khơi dậy sôi nổi với nhiều đội tuồng, chèo, cải lương phục vụ cán bộ, bộ đội, Nhân dân.
Với nhiều cố gắng của cán bộ, bộ đội, Nhân dân sơ tán đến và Nhân dân bản địa nên đến cuối năm 1947, Xưởng bào chế hoá chất, Trường Kỹ nghệ thực hành, Trường Trung học Hương Khê - Bình - Trị - Thiên và nhiều công binh xưởng được thiết lập trên địa bàn huyện, làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quân sự, văn hoá cho Hương Khê.
Thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Đảng, Nhân dân Hương Khê tham gia triệt phá các công sở, nhằm bảo vệ địa phương, bảo vệ các ATK như: phá tan các công sở, nhà xây kiên cố ở Chu Lễ, các nhà ga, đánh sập tất cả các cầu trên tuyến đường sắt đi qua huyện, như: cầu Cửa Rào, cầu Thanh Luyện, cầu Lộc Yên, đường sắt, đường cáp treo Tân Ấp - Xóm Cục - Bainafào… Các tuyến đường liên xã cũng được phá hoại. Nhân dân vừa đào rãnh qua đường, vừa đắp ụ tác chiến bằng đất để ngăn cản các phương tiện cơ giới của thực dân Pháp. Mọi người đều dốc sức, dốc lòng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến mà không quản khó khăn, thiệt hại.
Công tác rào làng chiến đấu được chỉ đạo triển khai tích cực. Học tập kinh nghiệm làng chiến đấu Cự Nẫm (Quảng Bình), Đảng bộ huyện đã lãnh đạo các xã thực hiện nghiêm túc việc rào làng, đắp ụ, làm hầm trú ẩn, cất giấu của cải, lương thực. Mỗi làng chỉ để lại một số cổng làng ra vào, đồng thời lập điếm canh, trạm gác do dân quân du kích các xóm túc trực ngày đêm. Trong các thôn, xóm, bà con tiến hành đào hầm bí mật, hào giao thông ngang, dọc để dễ dàng di chuyển không chỉ trong xóm mà thông sang các xóm khác. Công tác bảo mật, phòng gian, chống gián điệp, biệt kích, bảo vệ cơ quan, trường học, các cơ sở sản xuất... trở thành phong trào rộng khắp trong toàn dân.
Đến cuối năm 1947, Hà Tĩnh bị địch bao vây đánh phá từ ba phía Tây, Nam và Đông nhằm mục tiêu chiếm đóng. Trong tình hình đó, Hương Khê - địa bàn đứng chân lại càng trở nên quan trọng, thiết yếu đối với cả tỉnh, Khu và của cả nước. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ, ngày 6/01/1948, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành Đại hội đề ra chủ trương tập trung xây dựng và bảo vệ Hà Tĩnh thành một tỉnh hậu phương, căn cứ địa vững mạnh của vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, chi viện ngày càng lớn cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Lào. Hà Tĩnh được chia thành ba liên huyện để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, trong đó Hương Khê thuộc Liên huyện I[53].
Ngày 10/01/1948, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ IV tại xã Vĩnh Hương (Hương Châu - Phúc Đồng nay). Đại biểu Đảng bộ cơ quan huyện và các Đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc đã về dự Đại hội. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh:
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển sản xuất, công tác và trường kỳ kháng chiến của Trung ương Đảng, Liên khu ủy. Phát động phong trào thi đua ái quốc, nhất là phong trào luyện quân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đại hội dân quân, phong trào thi đua tòng quân, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Điều tra tình hình ruộng đất, tập quán canh tác để có kế hoạch lãnh đạo sản xuất. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, nâng cao nhận thức tư tưởng và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Lập bộ phận bí mật, bộ phận công khai để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống.Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 16 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Triêm, Phó Bí thư là đồng chí Lê Hữu Tuỵ, ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện là đồng chí Nguyễn Văn Sáng. Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban là đồng chí Lưu Văn Xân. Ủy viên Ban Thường vụ là đồng chí Dương Đức Cơ. Huyện ủy viên là các đồng chí: Dương Đình Cán, Hà Văn Nghị, Mai Minh, Đặng Đạo, Lê Đức, Vũ Trọng Côn, Nguyễn Tư Nghĩa, Võ Hiệp Cũng, Trần Đình Phù, Trần Đình Oanh, Mai Xuân Quế.
Từ năm 1948, công cuộc xây dựng và bảo vệ Hương Khê tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào thi đua ái quốc được các tầng lớp Nhân dân tham gia sôi nổi với khẩu hiệu: “Người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”. Trại nuôi bò ở Địa Lợi được mở rộng, cửa hàng tạp phẩm Tam Anh, cửa hàng bán thuốc lá, thuốc lào, thuốc tây và các xưởng sản xuất giấy viết, giấy đánh máy được mở ở nhiều nơi, phong trào tự túc lương thực được các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh. Trên cơ sở phong trào thi đua sản xuất, công tác lên cao, đời sống Nhân dân được cải thiện, văn hoá xã hội phát triển lành mạnh, Đảng bộ được tăng thêm hàng ngàn đảng viên mới.
Việc thực hiện chủ trương tinh giản biên chế cấp huyện, tăng cường cấp xã được Đảng bộ huyện Hương Khê thực hiện nghiêm túc. Các xã nhỏ được hợp nhất lại thành xã lớn. Năm 1948, toàn huyện còn lại 11 xã là: Hương Lĩnh, Tây Hồ, Phú Xuân, Hiệp Phố, Hương Thuỷ, Hương Châu, Phúc Đồng, Tân Hương, Hương Giang, Cao Thắng, Hàm Nghi.
Công tác bảo vệ địa bàn Hương Khê được chú trọng, phần lớn Nhân dân trong độ tuổi 18 - 45 đều tham gia dân quân. Theo chủ trương của tỉnh, tháng 8/1948, Đảng bộ đã chỉ đạo thành lập một đại đội độc lập, thoát ly sản xuất, làm nhiệm vụ thường trực bảo vệ cơ quan, công sở, biên giới[54].
Hậu phương Hương Khê được củng cố, xây dựng ngày càng lớn mạnh đã phát huy tác dụng đối với cuộc kháng chiến, với chiến trường Bình - Trị - Thiên và chiến trường Trung Lào. Phong trào toàn dân tham gia kháng chiến, ủng hộ, đỡ đầu dân quân, đóng góp lương thực, thực phẩm, vận chuyển hàng hoá chi viện mặt trận, đi bộ đội, dân công... diễn ra liên tục, sôi nổi.
Riêng cơ xưởng Chu Lễ, đến tháng 5/1948 đã sản xuất và cung cấp được cho mặt trận Bình - Trị - Thiên 65 khẩu bích kích pháo, 312 súng kíp, 480 quả mìn, 3.160 quả lựu đạn và hàng vạn viên đạn các loại[55]. Năm 1948, Hương Khê đã khôi phục lại tuyến đường sắt dùng chạy ôtô ray, từ Hoà Duyệt đi Chu Lễ, Khe Nét, Minh Cầm (Quảng Bình). Những chỗ không bắc được cầu thì chuyển tải bằng cáp treo, cầu tạm, hoặc bằng thuyền qua sông, suối. Trong năm 1948, các đầu máy goòng BTT1 và BTT2 (BTT là Bình - Trị - Thiên) đã vận chuyển được vào Quảng Bình 358 tấn thóc, 449 tấn gạo, 33 tấn ngô, 205 tấn muối, 33.513 mét vải, 92.735 viên thuốc tân dược.
Ngày 6/01/1949, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ V được triệu tập, họp tại nhà đồng chí Dương Đình Cán, xã Tân Hương (Hương Bình). Sau khi thảo luận tình hình nhiệm vụ, đánh giá công tác nhiệm kỳ qua, Đại hội đã quyết nghị:
Đề cao trách nhiệm hậu phương đối với chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Trung Lào, cả về chi viện quân sự và kinh tế. Tăng cường bố phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện thế trận chiến tranh Nhân dân để đối phó với các cuộc tập kích, đột kích của địch. Đẩy mạnh cuộc vận động tăng gia sản xuất, phát động Nhân dân bỏ vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Thực hiện một bước giảm tô, chống hoạt động bao vây kinh tế của địch. Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và củng cố các đoàn thể Cứu quốc, tăng cường công tác cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, ra sức phát triển đảng viên mới, đặt mục tiêu cho công tác phát triển Đảng đạt tỷ lệ 300% theo tinh thần nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, nâng cao trình độ lý luận cho đảng viên, thực hiện kiểm thảo, chỉ trích tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, địa phương, bản vị trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân.Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Triêm; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện là đồng chí Dương Đức Cơ; Ủy viên Ban Thương vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hàng chính huyện là đồng chí Ngô Quốc Văn; hai ủy viên Ban Thường vụ phụ trách công tác Mặt trận và Công an là đồng chí Hà Văn Nghị và Mai Minh. Huyện ủy viên là các đồng chí: Lê Đức, Võ Văn Quang, Phan Thương, Võ Hiệp Cũng, Trần Đình Oanh, Đặng Đạo, Mai Xuân Quế, Nguyễn Đình Niêm, Nguyễn Văn Chữ và đồng chí Châu.
Theo nghị quyết của Đại hội, năm 1949, Hương Khê có nhiều phong trào nổi bật, như cuộc vận động đỡ đầu dân quân, phát triển Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng... Phong trào thi đua ái quốc tiếp tục lên cao nhằm vào ba mục tiêu chính là: tự túc ăn mặc, thanh toán nạn mù chữ, xây dựng lực lượng dân quân. Lực lượng dân quân tự vệ phát triển mạnh, chiếm 25% số dân, nhiều xã đạt 50% số dân. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh, với hàng ngàn đảng viên mới, tổ chức Đảng có ở tất cả các làng, xã trong toàn huyện.
Do cuộc kháng chiến của quân dân cả nước chuyển dần từ cầm cự sang phản công nên yêu cầu chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng lớn. Cuộc vận động hiến tiền, gạo nuôi quân, hiến ruộng, quần áo, vũ khí được đẩy mạnh với các hình thức vận động phong phú. Nhiều bài thơ, hò, vè cổ động các phong trào được sáng tác, lưu hành[56]. Nhân dân tích cực thực hiện chủ trương hiến điền cho kháng chiến, nhiều địa chủ cũng đã “cúng” ruộng đất, trâu bò cho chính quyền để tỏ rõ sự ủng hộ kháng chiến và có số để tránh việc thực hiện giảm tô 25%. Qua phong trào này, các địa phương đã huy động được số lượng vật chất rất lớn, nhiều gia đình nuôi dân quân của thôn, của xã để luyện tập quân sự có đợt vài tuần, có đợt một tháng. Nhiều địa phương giao cho dân quân số ruộng đất và trâu bò, lợn, gà, nông cụ, nhà cửa do Nhân dân góp để quản lý sản xuất nhằm tự túc phục vụ tập luyện. Năm 1949, thông qua tuyến đường goòng Thanh Luyện, Chu Lễ, Đò Vàng, Ngành Hoả xa và dân công Hương Khê đã vận chuyển cho mặt trận Bình - Trị - Thiên được 2.012 tấn lương thực, vũ khí, thuốc men và phục vụ 30.479 lượt cán bộ, bộ đội, dân công qua lại giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình. Xí nghiệp Đường goòng Hà Tĩnh (ở Hương Khê) là đơn vị đầu tiên của Hà Tĩnh được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Thực hiện chủ trương phát triển Đảng sâu rộng, làm cho Đảng trở thành một Đảng mang tính chất quần chúng rộng rãi, công tác phát triển đảng viên mới được đẩy mạnh. Tỉnh ủy giao chỉ tiêu cho Huyện ủy, Huyện ủy giao chỉ tiêu cho chi bộ xã, chi bộ xã giao chỉ tiêu cho từng đảng viên phải vận động, giáo dục kết nạp đảng viên mới đạt số lượng nhất định trong từng tháng, từng quý. Do đó, nhiều chi bộ chỉ lo đảm bảo chỉ tiêu số lượng, coi nhẹ chất lượng, việc thẩm định lý lịch đảng diễn ra lỏng lẻo, có người còn ghi tên người thân quen, trong gia đình mình vào Đảng. Chỉ tính ở xã Hương Lĩnh số đảng viên kết nạp thời kỳ này đã lên tới 653 người. Tình trạng đó làm cho số lượng đảng viên trong Đảng bộ tăng nhanh, song chất lượng không bảo đảm, nhất là về ý thức giác ngộ giai cấp, trình độ lý luận, không được rèn luyện thử thách chu đáo. Thậm chí có đảng viên mù chữ, một số là phần tử cơ hội, có cả địa chủ, lập trường chính trị không rõ ràng cũng đưa vào Đảng.
Phong trào thi đua xoá nạn mù chữ được phát động sôi nổi. Năm 1949, Hương Khê được công nhận là huyện thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân, góp phần làm cho tỉnh Hà Tĩnh trở thành tỉnh đầu tiên trong cả nước thanh toán nạn mù chữ, được nhận thư khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (15/5/1949) và Huân chương Độc lập của Chủ tịch nước (6/1949). Năm 1950, cuộc cải tổ giáo dục được đẩy mạnh ở Hương Khê, lôi cuốn sự quan tâm, đóng góp của Nhân dân vào phát triển giáo dục, cả quốc lập và dân lập. Các trường tiểu học, trung học được chuyển thành trường phổ thông cấp I, cấp II. Hầu hết các xã có trường phổ thông cấp I, toàn huyện có một trường phổ thông cấp II, đào tạo tới lớp 7[57].
Phong trào ghi tên tòng quân lên cao, nhiều xã có 100% thanh niên xung phong lên đường tham gia kháng chiến. Các đoàn thể quần chúng thu hút được đông đảo Nhân dân tham gia. Đảng bộ đã vận động được 85% số dân tham gia các đoàn thể khác nhau như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu vong, Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ lão... Tháng 4/1950, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt huyện đã mở đại hội hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt huyện.
Phát hiện sự lớn mạnh của hậu phương ta và để ngăn chặn các cuộc tiến công của quân ta trên các chiến trường, thực dân Pháp đã tăng cường đánh phá vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Thủ đoạn của Pháp là bất ngờ cho quân từ biển lên, từ Lào sang đánh phá nhằm mở rộng phạm vi, chiếm giữ lâu dài, đi tới xoá bỏ vùng tự do này. Hành động thường xuyên là dùng máy bay ném bom đường sá, cầu cống, kho tàng, rải truyền đơn truyên truyền phản động, cho gián điệp đột nhập để gây bạo loạn, làm mất ổn định hậu phương ta... Hương Khê là vùng ATK của Liên khu IV, có tuyến đường goòng nối liền vùng tự do với chiến trường Bình - Trị -Thiên, có đường chiến lược sang Trung Lào nên đây là một trọng điểm ném bom của máy bay, gây bạo loạn của gián điệp địch[58].
Trận ném bom lớn đầu tiên của máy bay địch xuống Hương Khê là tháng 10/1948. Bom địch đã ném xuống đường ôtô khu vực Thuỷ Lâm, Chu Lễ, làm hỏng đường và hư hại một số ruộng lúa. Ngày 6/01/1950 và ngày 17/01/1950, máy bay địch đánh phá dữ dội vùng ga Chu Lễ. Ngày 6/01/1950, địch ném 50 quả bom xuống khu vực Thị trấn nay làm 3 người chết, 7 người bị thương, 6 nhà cháy, 9 nhà bị sập. Ngày 17/01/1950, địch tiếp tục ném 40 quả bom loại 50 kg làm 16 nhà dân bị cháy và bị chết 2 người dân đi thuyền.
Hành động đánh phá của địch đã gây cho Hương Khê nhiều thiệt hại, song tội ác của chúng càng làm cho quân dân ta thêm căm thù, cảnh giác, quyết tâm xây dựng và bảo vệ địa phương, ra sức chi viện tiền tuyến.
Ngày 15/5/1950, Đảng bộ huyện Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ VI tại nhà đồng chí Nguyễn Kim Hạp (xã Phú Phong). Đại hội đã thảo luận và quyết nghị:
Đẩy mạnh công tác, nhằm phục vụ kháng chiến, tích cực tăng gia sản xuất, tổ chức đời sống văn hoá - xã hội cho Nhân dân. Chiến đấu và phục vụ chiến đấu; quán triệt đưa cách mạng dân tộc dân chủ chuyển nhanh sang “Tổng phản công”. Tổng động viên nhân tài, vật lực để xây dựng lực lượng, lấy xây dựng bộ đội địa phương làm trọng tâm, chi viện cho mặt trận là thiết thực bảo vệ hậu phương. Xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Hà Văn Nghị, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện là đồng chí Dương Đức Cơ. Ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí: Nguyễn Văn Cung, Hồ Sỹ Định, Phan Kha. Huyện ủy viên gồm các đồng chí: Ngô Xuân Áng, Nguyễn Tư Nghĩa, Đoàn Đào, Phạm Quang Nậm, Trần Tùng, Phan Du, Nguyễn Tú, Nguyễn Kim Hạp...
Tháng 10/1950, Hương Khê bị một trận lụt lớn chưa từng có, Nhân dân bị
thiệt hại lớn về người và của. Nhiều đoạn đường sắt, đường bộ bị hư hỏng, nhiều kho tàng của Nhà nước bị ngập, tổn thất hàng trăm tấn lúa, nhiều sổ sách, giấy tờ, nhiều nhà cửa, trâu bò bị lũ cuốn trôi.
Từ năm 1951 về sau, Hương Khê cùng toàn tỉnh làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến, cho cả mặt trận Bình - Trị - Thiên, Lào và các mặt trận ở chiến trường chính Bắc Bộ. Các đợt dân công của Hương Khê đã đi sâu phục vụ bộ đội ở Bình - Trị - Thiên và Trung Lào.
Tháng 02/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương được tiến hành. Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Tháng 4/1951, tại huyện Hương Khê, Đại hội đại biểu Nhân dân Trung Lào cũng được tiến hành để hoan nghênh chủ trương thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Đảng cách mạng riêng và thực hiện cuộc liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương trên cơ sở mới. Đảng bộ, chính quyền và đoàn thể Nhân dân của cả tỉnh, huyện, xã đã cử các đoàn đại biểu đến chào mừng Đại hội, tỏ tình đoàn kết với quân dân nước bạn. Đảng bộ và Nhân dân huyện Hương Khê đã thực hiện tốt việc giúp đỡ để Đại hội đại biểu Nhân dân Trung Lào tiến hành thành công tốt đẹp.
Ngày 15/7/1951, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ VII được tiến hành tại nhà đồng chí Hiên, xã Tân Hương (Hương Bình)[59]. Nội dung Đại hội là:
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (02/1951) về tình hình thời gian qua và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới trong phạm vi cả nước. Đánh giá tình hình công tác nhiệm kỳ qua của Đảng bộ huyện và đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới là tiếp tục xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Ra sức xây dựng Đảng, xây dựng mặt trận, các đoàn thể, xây dựng lực lượng về mọi mặt,...Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 19 ủy viên do đồng chí Hà Văn Nghị làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Ngô Xuân Áng, Huyện ủy viên, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, đồng chí Nguyễn Văn Cung là Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí Hồ Sỹ Định, Phan Kha. Các Huyện ủy viên là: Lê Đình Sửu, Mai Minh, Nguyễn Đình Hạnh, Phan Du, Trần Đức Thắng, Đoàn Đào, Trần Suất, Trần Tùng, Nguyễn Niệm, Đặng Mạnh, Phan Nguyên, Phạm Triện, Hồ Sỹ Tương, Phan Thị Đường, Lê Xuân Bính...[60].
Sau Đại hội, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức cho toàn Đảng bộ học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, nhất là Chính cương, Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam.
Việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp được triển khai thành cuộc đấu tranh lớn trong toàn huyện về lợi ích kinh tế. Nhiều địa chủ đã phản ứng chính sách thuế nông nghiệp bằng cách bỏ hoang ruộng đất để không phải nộp thuế. Huyện ủy đã mở cuộc họp quan trọng tại đền Trạng (Hương Thuỷ) để triển khai cuộc đại vận động sản xuất, tiết kiệm chống lại hành động để hoang hoá ruộng đất của địa chủ và một số nông dân. Cuộc vận động tăng gia sản xuất, tiết kiệm, thực hiện chính sách thuế nông nghiệp được đẩy mạnh từ cuối năm 1951 và kéo dài liên tục trong năm 1952, đưa lại kết quả to lớn về kinh tế, chính trị.
Cuối năm 1951, bọn phản động đội lốt tôn giáo gây ra vụ phiến loạn ở xã Tây Hồ (Lộc Yên) nhằm âm mưu khiêu khích, tạo cớ nổi loạn chống đối chính quyền. Mục tiêu của chúng là chống chính sách thuế nông nghiệp của Đảng và làm mất ổn định vùng hậu phương trực tiếp chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên và cho cả miền Nam. Nhân ngày Lễ Trái tim Đức Mẹ ở xứ Tràng Lưu (21/8/1951), chúng huy động giáo dân xứ Tràng Lưu và vùng lân cận ra đường giương cờ, khẩu hiệu, đánh trống biểu dương lực lượng mà không xin phép chính quyền. Khi công an địa phương ra khuyên bảo, chúng đánh bị thương, công an đã điều tra và bắt 3 tên. Bọn phản động tiếp tục xúi giục, kích động giáo dân biểu tình chống đối, công khai tuyên bố “bất hợp tác với chính quyền” và “đình công kháng chiến”. Chúng thành lập đội quân cảm tử gồm hàng trăm thanh niên có vũ trang giáo mác, gậy gộc canh gác nhà thờ ngày đêm và lập hệ thống báo động bằng trống liên hoàn từ xứ Tràng Lưu đến các họ, xứ trong toàn huyện để đối phó với chính quyền.
Trước tình hình nghiêm trọng trên, Liên khu 4, Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Công an tỉnh lập đoàn công tác về phối hợp với huyện Hương Khê giải quyết vấn đề. Dưới sự lãnh đạo của đoàn công tác, Huyện ủy Hương Khê đã đẩy mạnh công tác về tuyên truyền, vận động để bà con giáo dân hiểu rõ về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước là tôn trọng tự do tín ngưỡng, không nghe theo luận điệu phản động, xuyên tạc. Đồng thời, phối hợp với các lực lượng điều tra tìm ra các đối tượng cầm đầu, đưa chúng ra trước giáo dân vạch rõ âm mưu dùng vỏ bọc tôn giáo để tiếp tay cho kẻ địch chống đối chính quyền, khôi phục lại khối đoàn kết toàn dân. Sau hơn một năm đấu tranh, vụ việc được giải quyết, đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của bọn phản động trước công luận và bà con giáo dân; an ninh trật tự ở địa phương trở lại ổn định, giáo - lương đoàn kết, phấn khởi tham gia sản xuất, kháng chiến.
Năm 1952, phong trào sản xuất, tiết kiệm tuy được đẩy mạnh, song cuối năm, Hương Khê bị ba trận lụt, gây thiệt hại lớn. Do đó, việc thu thuế nông nghiệp gặp trở ngại. Huyện ủy Hương Khê bị Tỉnh ủy phê bình, chỉ đạo kiểm điểm do không lãnh đạo thực hiện tốt công tác thu thuế nông nghiệp. Đảng bộ đã nhận khuyết điểm, vận động nhân dân lao động sản xuất, cố gắng hoàn thành chỉ tiêu. Tuy vậy, đời sống Nhân dân rất khó khăn.
Do nhu cầu vận tải, tiếp tế cho mặt trận ngày càng tăng, sự đánh phá đường sá của máy bay địch ngày một nhiều, năm 1952, công tác giao thông ở Hương Khê tiếp tục được đẩy mạnh. Lực lượng hoả xa ở Hương Khê được tổ chức theo hình thức xí nghiệp quốc doanh, gọi là Công ty đường goòng Tĩnh - Bình. Cán bộ, công nhân công ty đã chế tạo được 5 đầu máy kéo kiểu BTT (Bình - Trị - Thiên) trọng tải từ 8 đến 16 tấn và 40 goòng đẩy tay các loại từ 7 tạ đến 3 tấn. Công nhân đã dùng dầu lạc, dầu đu đủ thay thế dầu mỡ, bảo đảm chạy goòng. Số vốn của Xí nghiệp năm 1952 có 10.625.606 đồng, năm 1953 có tới 46.940.828 đồng.
Thời gian này, cơ quan Huyện ủy đóng tại làng Trung Định nhưng có sự thay đổi về nhân sự. Đến tháng 4/1952, có 4 đồng chí được bổ sung vào Huyện ủy là Nguyễn Văn Tư, Trần Đình Hậu, Hoàng Mỹ, Nguyễn Kim Dự. Cuối năm 1952, đồng chí Đặng Tỵ được điều động lên công tác ở huyện, làm Bí thư Thanh niên Cứu quốc.
Nhiệm vụ lớn của Đảng bộ huyện Hương Khê từ năm 1952 là lãnh đạo thực hiện các đợt giảm tô, xây dựng Đảng, huy động dân công, lương thực, thực phẩm phục vụ các chiến dịch lớn cả ba hướng Bình - Trị - Thiên, Trung Lào và Bắc Bộ.
Đảng bộ Hương Khê đã nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Khu ủy và Tỉnh ủy về phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức, thu thuế nông nghiệp và xây dựng Đảng, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Thời điểm này, việc thu thuế nông nghiệp gặp khó khăn do bị lụt lớn, mất mùa, nhiều vùng bị đói, phải cứu tế.
Tháng 4/1953, cuộc vận động chỉnh Đảng tập trung vào vấn đề lập trường giai cấp, động cơ vào Đảng, thực hiện thuế nông nghiệp và giảm tô. Huyện ủy Hương Khê bị khiển trách là hữu khuynh trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ. Tỉnh ủy đã thi hành kỷ luật tập thể Ban Thường vụ và đồng chí Bí thư Huyện ủy, một số cán bộ điều động đi công tác ở nơi khác.
Năm 1954, chủ trương giảm tô được thực hiện trên diện rộng, tỉnh lập các đoàn giảm tô về tận xã. Việc thu thuế nông nghiệp ở Hương Khê gặp khó khăn do bị lụt lớn, mất mùa, nhiều vùng bị đói, phải cứu tế. Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện bị cách chức, một số đồng chí khác bị hạ bậc công tác.
Trong thời gian cuối năm 1953, đầu năm 1954, bộ máy Huyện ủy có sự thay đổi lớn. Thay cho số cán bộ bị kỷ luật và đi công tác nơi khác là một số đồng chí được bổ sung mới như: đồng chí Đặng Mạnh, đồng chí Phan Nguyên (đầu năm 1954), đồng chí Phạm Triện và đồng chí Hồ Sỹ Tương (9/1954)... Vị trí Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện từ đầu năm 1953 có sự thay đổi liên tiếp. Sau khi đồng chí Hà Văn Nghị được điều động đi công tác khác (5/1953), chức vụ Bí thư Huyện ủy do đồng chí Trần Đình Hậu đảm nhiệm[61]. Đồng chí Hoàng Mỹ là Phó Bí thư phụ trách công tác chính quyền.
Sự biến động trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện và việc nhiều cán bộ bị kỷ luật, bị điều động đi công tác khác thời kỳ này có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Thời kỳ này, Đảng ta có chủ trương đưa một số nhân sĩ trí thức, thành phần lớp trên tham gia các đoàn thể và chính quyền để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Theo đó, Hương Khê đã đưa đồng chí Ngô Xuân Áng, một đảng viên người Công giáo làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện; ông Ngô Soa, một chủ đồn điền lớn làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện... Việc làm đó khi thực hiện giảm tô bị coi là có quan hệ với địa chủ trong công tác cán bộ.
Trong thời kỳ diễn ra cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, Hương Khê là hậu phương trực tiếp của chiến dịch Trung Lào, địa bàn tập kết lực lượng, là nơi xuất quân của bộ đội, dân công tham gia chiến dịch.
Theo quyết định của Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh, ngày 18/11/1953, một bộ phận của Đại đoàn 304 từ Thanh Hoá vào hợp quân với Đại đoàn 325 ở Hương Khê thành lập Bộ Chỉ huy và lực lượng chiến dịch Trung Lào do các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Quý Hai chỉ huy. Tổng quân số tham gia chiến dịch lên tới 10.000 cán bộ, chiến sĩ. Toàn bộ chiến dịch ta đã huy động 80.909 dân công với 5.944.865 ngày công, trong đó Hà Tĩnh đảm nhiệm phần chính, tới 56.000 người, riêng số dân công cho hỏa tuyến hoạt động trên đất Lào là 28.300 người. Số vật chất cung cấp cho bộ đội, dân công là 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò, cấp phát 50 tấn vũ khí đạn dược[62]. Tháng 01/1954, Hà Tĩnh đã huy động 1.299 chiếc thuyền các loại, 394 xe đạp thồ phục vụ vận tải.
Là hậu phương trực tiếp của chiến dịch, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện dốc sức người, sức của, ý chí, tinh thần phục vụ tiền tuyến. Hàng vạn dân công Nghệ An, Hà Tĩnh, trong đó có hàng ngàn dân công Hương Khê, đã liên tục nạo vét sông Ngàn Sâu, tu sửa đường sắt bảo đảm cho các đoàn thuyền vận tải từ Đức Thọ chuyển lương thực lên chợ Trúc, Chu Lễ, chợ Sòng. Từ đó dân công lại chuyển lên các ga đường sắt để goòng chuyển tiếp vào Quảng Bình rồi chuyển sang Lào phục vụ bộ đội. Đường bộ chạy từ Linh Cảm lên Cửa Rào, Thanh Luyện, Chu Lễ vào Quảng Bình được gấp rút xây dựng. Chu Lễ là tổng kho của mặt trận Trung Lào, nơi đặt phòng hậu cần của Đại đoàn 325 và 304 trong chiến dịch Trung Lào. Lực lượng của hai đại đoàn này và dân công hoả tuyến đã được nhận bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm tại tổng kho Chu Lễ trước khi rời hậu phương ra tiền tuyến. Chỉ trên tuyến đường goòng, năm 1953, ta đã chuyên chở được 38.418 bộ đội, hành khách, 3.771 tấn hàng hoá và 251 tấn hành lý[63].
Được hậu phương hết sức chi viện, bộ đội Đại đoàn 325 và 304 cùng quân dân nước bạn đánh địch ở Trung Lào, giành thắng lợi vang dội ở Banafào, đèo Mụ Giạ, tiến xuống Hạ Lào, sang sát sông Mê Công, loại khỏi vòng chiến đấu 4.000 tên địch, giải phóng phần lớn vùng Trung, Hạ Lào. Chiến thắng Trung, Hạ Lào mà trong đó Đảng bộ, quân dân Hương Khê đóng góp một phần quan trọng đã phối hợp với Chiến dịch Điện Biên Phủ và các chiến trường khác, đưa cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân dân ta đến thắng lợi vẻ vang.
Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, Đảng bộ Hương Khê đã tiếp tục lãnh đạo Nhân dân làm tốt nhiệm vụ hậu phương trong tình hình mới. Nhiều cán bộ Đảng, chính quyền, quân sự, đoàn thể đã được cử đi tham gia các đoàn tiếp quản vùng mới giải phóng ở Quảng Bình. Nhiều địa phương đã tổ chức đón tiếp, cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, cán bộ, dân công, Nhân dân từ Trung Lào, Bình - Trị - Thiên, Khu V ra tập kết.
Nhìn chung, trong thời kỳ 1945 - 1954, Đảng bộ Hương Khê đã trải qua một chặng đường nhiều thử thách, biến cố, đạt nhiều thành tựu lớn nhưng cũng mắc phải một số khuyết điểm, thiếu sót.
Ưu điểm, thành công của Đảng bộ trong thời kỳ 1945 - 1946 là đã lãnh đạo Nhân dân chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững được thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám. Đồng thời nỗ lực vượt qua các trở ngại chủ quan, khách quan sau bao năm bị kẻ địch đánh phá để khôi phục hệ thống tổ chức Đảng, lập lại cơ quan Đảng bộ. Những cố gắng và kết quả đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, căn bản, đã đặt nền móng vững chắc, lâu bền cho tiến trình phát triển về sau của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng bộ đã chấp hành nghiêm chỉnh đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Trung ương Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của Khu ủy và Tỉnh ủy. Mọi chủ trương, chỉ thị của cấp trên đều được Đảng bộ quán triệt, vận dụng vào thực tế địa phương để đề ra các nhiệm vụ, biện pháp, tổ chức Nhân dân thực hiện. Hệ thống chính trị của huyện được xây dựng và củng cố. Hệ thống tổ chức Đảng được thiết lập hoàn chỉnh từ huyện xuống các xã, các thôn xóm với hàng chục đảng bộ, hàng trăm chi bộ và hàng ngàn đảng viên. Huyện ủy tuy có nhiều biến động về nhân sự, song đã giữ vững vai trò trung tâm lãnh đạo của Đảng bộ, có nhiều chủ trương đúng đắn lãnh đạo quân dân trong huyện thực hiện tốt các nhiệm vụ của trên giao, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền là công cụ sắc bén của Nhân dân, thực hiện chuyên chính với kẻ địch và bọn phản động, tổ chức Nhân dân sản xuất, xây dựng, học tập... Hầu hết Nhân dân tích cực tham gia các đoàn thể kháng chiến. Các hội quần chúng được tổ chức với hàng vạn hội viên.
Trên cơ sở hệ thống chính trị được xây dựng và phong trào quần chúng sôi nổi, liên tục, Đảng bộ đã lãnh đạo xây dựng Hương Khê trở thành một huyện căn cứ địa, hậu phương có tiềm lực ngày càng lớn mạnh, về kinh tế, nói chung Hương Khê đã chú trọng sản xuất lúa, hoa màu, khai thác lâm thổ sản, chăn nuôi đại gia súc, trong đó có cả những cơ sở sản xuất tập trung của huyện. Cơ bản huyện đã tự trang trải được lương thực và có phần đóng góp cho kháng chiến. Về văn hóa xã hội, Hương Khê là nơi có nền giáo dục phát triển với hệ thống trường học khá đều khắp, trong đó có trường Trung học (đào tạo đến lớp 7, là một trong số ít huyện ở Hà Tĩnh và Khu IV có mô hình trường này). Công tác y tế, vệ sinh, cứu chữa thương, bệnh binh đều được chú trọng. Hoạt động văn hóa văn nghệ của Nhân dân có nhiều tiến bộ, quan hệ Nhân dân, quân dân, Đảng với dân được tăng cường. Về quân sự, Hương Khê là một trong những huyện có bộ đội địa phương mạnh nhất của Hà Tĩnh. Tiểu đoàn bộ đội tập trung của huyện đã tham gia nhiều trận ở vùng biên giới Việt - Lào, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Với sự phát triển về mọi mặt, huyện Hương Khê không chỉ bảo vệ được địa bàn, xây dựng thành hậu phương mà còn có nhiều đóng góp cho kháng chiến. Đó là đã hoàn thành tốt vai trò căn cứ địa cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, cho các cơ quan của Ủy ban hành chính Trung Bộ và cho kháng chiến của quân dân nước bạn Lào. Tại đây, nhiều cơ quan, công xưởng của Trung Bộ, của các tỉnh bạn phía nam đã ra đứng chân, hàng vạn Nhân dân đã ra sơ tán. Nhiều đoàn cán bộ, bộ đội của cách mạng Lào đã sang đứng chân, đặt cơ sở huấn luyện tại Hương Khê. Nhiều nơi là địa điểm đóng cơ quan của lực lượng kháng chiến Trung Lào[64].
Hương Khê là địa bàn tập kết lực lượng của Đại đoàn 325 và Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304 trong chiến dịch Trung Lào thời kỳ tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Hương Khê đã tiếp nhận hàng ngàn cán bộ, bộ đội, Nhân dân từ Trung Lào, từ Bình - Trị - Thiên ra tập kết.
Với những thành tựu đó, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện hoàn thành nhiệm vụ mà cuộc kháng chiến đòi hỏi, huyện căn cứ địa, hậu phương trong vùng tự do, căn cứ địa hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm đó, Đảng bộ Hương Khê cũng mắc phải một số tồn tại, hạn chế trong lãnh đạo phong trào quần chúng. Đó là có lúc đã giải quyết không tốt các vấn đề huy động sức dân, hoặc vấn đề tôn giáo cũng như trong công tác xây dựng Đảng, nên để xảy ra một số vụ việc.
Bài học kinh nghiệm của Đảng bộ Hương Khê thời kỳ kháng chiến chống Pháp được rút ra là:
Thứ nhất, phải ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh, phải củng cố chính quyền và đoàn thể quần chúng để tạo nên hệ thống chính trị ổn định, vững chắc làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân. Trong xây dựng Đảng phải chú trọng việc giáo dục lý luận, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đảng viên vững vàng về chính trị, có năng lực trong công tác, sâu sát gần gũi quần chúng. Trong xây dựng chính quyền phải chú ý tính chất dân chủ Nhân dân, phải làm cho bộ máy chính quyền thật sự là của dân, do dân và vì dân. Trong xây dựng các đoàn thể kháng chiến phải chú ý tính chất quần chúng rộng rãi, thu hút đông đảo mọi tầng lớp Nhân dân, cô lập bọn phản động và kẻ thù.
Thứ hai, phải phát động phong trào quần chúng, coi phong trào quần chúng là điều kiện để thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước. Khi có được sự hưởng ứng của quần chúng thì các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc sẽ được thực hiện hiệu quả. Ngược lại, không chú ý phát động, giáo dục quần chúng mà nặng về gò ép, mệnh lệnh thì có thể được việc trước mắt, song về lâu dài sẽ tạo ra sự ngăn cách giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền, ảnh hưởng đến khối đoàn kết, hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ sẽ giảm sút.
Thứ ba, phải xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Nhiệm vụ cách mạng, kháng chiến là công việc to lớn, tốn nhiều sức người, sức của và cả xương máu, do đó rất cần có tiềm lực ngày càng hùng hậu. Lực lượng đó phải dựa vào sức mình là chính, nghĩa là phải dựa vào các tầng lớp Nhân dân trong huyện, không trông chờ ỷ lại bên ngoài. Thực lực đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, là sự kết hợp tất cả thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh Nhân dân toàn dân, toàn diện. Đảng bộ Hương Khê đã chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp (chủ yếu là sản xuất vũ khí), cả thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhờ vậy, Hương Khê không có nạn đói mà còn có phần đóng góp cho kháng chiến. Trong xây dựng nhân lực, Đảng bộ đã lôi cuốn hầu hết Nhân dân tham gia các đoàn thể kháng chiến, nhờ đó Hương Khê đã có hàng vạn dân công phục vụ tiền tuyến, có hàng ngàn thanh niên gia nhập quân đội. Ngoài ra, Đảng bộ còn đào tạo được nhiều cán bộ cung cấp cho các yêu cầu công tác ở địa phương khác.
Thứ tư, phải nắm vững đặc điểm huyện căn cứ địa, hậu phương, bồi dưỡng đi đôi với huy động sức dân. Đảng bộ Hương Khê nhận thức ngay từ đầu đặc điểm của địa phương là huyện hậu phương, do đó chú ý kết hợp xây dựng với bảo vệ, kết hợp bồi dưỡng sức dân với huy động cho kháng chiến. Trong thực tế, Hương Khê đã trở thành một hậu phương có tiềm lực khá về mọi mặt và một ATK vững chắc của Liên khu, của tỉnh, một địa bàn đứng chân quan trọng của lực lượng vũ trang và cơ quan tỉnh bạn, của kháng chiến Lào. Hơn thế, Hương Khê còn cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Lào và chiến trường chính Bắc Bộ. Có được như vậy là do Đảng bộ đã biết kết hợp ngay từ đầu và suốt cuộc kháng chiến việc xây dựng với bảo vệ, bồi dưỡng sức dân bằng các chính sách có lợi cho nông dân để từ đó có điều kiện mà huy động cho tiền tuyến.
CHƯƠNG IV ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1954 - 1965)
I. LÃNH ĐẠO HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ (1954 - 1957)
Tháng 7/1954, hoà bình lập lại ở Đông Dương, song nước ta lại bị chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (cầu Hiền Lương - sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Cùng với quân dân miền Bắc và quân dân trong tỉnh, quân dân Hương Khê bước sang thời kỳ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh hoà bình. Thuận lợi có nhiều, song khó khăn của Hương Khê lúc này cũng không ít. Đó là nền kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, đời sống Nhân dân khó khăn, thêm vào đó là hậu quả chiến tranh để lại còn nặng nề.
Lúc này, kẻ địch ở phía Nam vẫn ra sức tuyên truyền dụ dỗ đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, trong đó không ít người ở Hương Khê cũng tìm cách bỏ quê hương, gây nên nguy cơ xáo động trong Nhân dân theo đạo Thiên chúa. Theo chủ trương của tỉnh, Huyện ủy đã thành lập Ban chống di cư, cử các cán bộ có uy tín về vùng đồng bào có đạo tuyên truyền, giải thích chính sách đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Mặt khác, trực tiếp cảnh cáo những phần tử phản động, xuyên tạc chính sách, gây chia rẽ lương giáo, chia rẽ Nhân dân. Nhờ sự tích cực của cán bộ, tinh thần giác ngộ của Nhân dân mà về cơ bản ta đã giữ được đồng bào, huyện không bị ảnh hưởng lớn.
Để ổn định tình hình, Huyện ủy chủ trương ra sức phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế. Với sự giúp đỡ của bộ đội, nhiều nơi trong huyện đã tu sửa công trình thủy lợi, đào đắp kênh mương dẫn nước, phục hóa, khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Hình thức tổ chức tổ đổi công, vần công được phát triển ở nhiều nơi trong huyện. Tuy có nhiều cố gắng trong sản xuất, song do lụt lớn (tháng 10/1954) nên tình hình kinh tế, đời sống của Nhân dân Hương Khê sau hòa bình vẫn có nhiều khó khăn.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phòng, chống đói và phục hồi sản xuất (3/11/1954), theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, đầu năm 1955, Huyện ủy Hương Khê đã tổ chức hội nghị quân dân chính Đảng, phát động phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Đồng thời kêu gọi mọi tầng lớp Nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, giải quyết nạn đói lúc giáp hạt. Với chủ trương đó, Nhân dân Hương Khê đã có nhiều hình thức giúp nhau sản xuất, đời sống, giảm thiểu sự thiếu đói. Tuy vậy, trong chỉ đạo nhiều nơi cũng có những lệch lạc, như trông chờ, ỷ lại cấp trên, chưa có nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực chủ động giải quyết nạn đói, việc huy động nhà khá giả ủng hộ nhà nghèo còn hạn chế nên đã để xảy ra tình hình đói diễn ra gay gắt ở nhiều làng xã.
Bên cạnh khôi phục sản xuất, huyện đã chỉ đạo các địa phương ổn định và phát triển giáo dục, y tế. Các trường lớp được tiếp tục khai giảng năm học mới, thu hút đông đảo con em Nhân dân vào học. Phong trào bình dân học vụ được duy trì ở các thôn xóm. Công tác vệ sinh phòng bệnh được chú ý. Hoạt động ca múa, liên hoan văn nghệ nhân dịp lễ, tết nguyên đán được tổ chức thường xuyên. Không khí hòa bình thể hiện rõ trong hoạt động văn hóa, văn nghệ của Nhân dân.
Tháng 3/1955, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy nhấn mạnh: một bộ phận Nhân dân miền Bắc vẫn còn bị địa chủ bóc lột, chưa thực sự làm chủ ruộng đất; giai cấp địa chủ tồn tại vẫn là một chỗ dựa của các thế lực đế quốc, phản động để gây thế lực chống đối cách mạng, phá hoại hòa bình... Vì vậy chủ trương phải thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (8/1955), Trung ương cho rằng cải cách ruộng đất có quan hệ mật thiết với củng cố miền Bắc, với đấu tranh thống nhất nước nhà, phải kiên quyết tiến hành trên phạm vi toàn miền Bắc và ấn định đến tháng 7/1956 phải hoàn thành nhiệm vụ này.
Từ trong kháng chiến, Hương Khê đã thực hiện một phần quan trọng cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô, bước đầu cải cách ruộng đất, đưa lại nhiều kết quả có lợi cho nông dân. Sau ngày hòa bình, chấp hành chủ trương của Đảng, Đảng bộ đã quán triệt và thực hiện cuộc cải cách ruộng đất sâu rộng trên quy mô toàn huyện. Đầu năm 1955, Hương Khê và toàn tỉnh đã triển khai các cuộc đấu tranh chống địa chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” theo phương châm: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, cô lập phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ”. Đội cải cách do cấp trên thành lập đã về các xã thay thế các đội giảm tô, tiến hành xâu chuỗi, bắt rễ, phát động quần chúng, phân định thành phần, phân chia lại ruộng đất, nông cụ, trâu bò cho nông dân. Chủ trương của Đảng được đại đa số nông dân hưởng ứng, tạo thành cuộc cách mạng sôi động ở nông thôn, nhất là phong trào “có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”. Liên tục nhiều tháng, Nhân dân Hương Khê đã vùng lên thực hiện ước mơ của mình, giành ruộng đất của địa chủ về tay mình.
Tuy vậy, trong thực tế chỉ đạo phong trào đấu tranh của nông dân tiến hành cải cách ruộng đất, các đội cải cách đã không dựa vào tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, quan liêu không sát thực tế, lại mang tư tưởng rập khuôn, giáo điều, máy móc, áp đặt tỷ lệ phần trăm trong phân định thành phần giai cấp ở nông thôn, nặng hình thức đấu tô, dẫn tới nhiều sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài nhiều đợt.
Từ tháng 9/1953, theo chủ trương chung, Huyện ủy đã lãnh đạo thực hiện cuộc vận động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Đến hết năm 1954, qua 6 đợt, Hương Khê cơ bản đã hoàn thành cuộc vận động này để chuyển sang thực hiện cuộc cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, kết hợp chống địch cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam.
Trong thực hiện những công tác lớn đó, đội ngũ cán bộ Hương Khê có sự thay đổi rất lớn, cả ở cấp huyện và xã. Các đội công tác giảm tô, cải cách ruộng đất, chống di cư trong đồng bào Công giáo do tỉnh tổ chức, quản lý về từng xã. Đại bộ phận cán bộ đương chức ở huyện và mới điều từ xã lên được tập trung phục vụ cho công tác này ở địa bàn Liên khu IV. Số cán bộ còn lại ở huyện không đáng kể, mọi công việc do đội công tác giải quyết.
Cuộc cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức diễn ra rất phức tạp, đại bộ phận cán bộ, kể cả số người do tỉnh điều còn ở lại đều bị quy kết, buộc thôi việc, bị quản thúc, giam giữ và cải tạo, nhiều đồng chí không giữ nổi bình tĩnh đã tỏ thái độ chống đối, bị buộc tội càng nặng hơn.
Trong bối cảnh đó, Huyện ủy Hương Khê thời kỳ này tiếp tục có những xáo động lớn. Đầu năm 1955, Thường vụ Huyện ủy chỉ còn đồng chí Hoàng Mỹ tiếp tục đảm nhiệm công tác ở huyện, phụ trách khối cơ quan cấp huyện. Các công việc khác do cán bộ của đoàn cải cách của Khu ủy đảm nhiệm. Cuối năm 1955, các đồng chí Trần Đình Hậu, Phạm Triện và một số đồng chí khác được điều động đi thực hiện công tác giảm tô đợt 5.
Hoàn thành cải cách ruộng đất là yêu cầu khách quan để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân dân, để chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Được các đoàn cán bộ cải cách ruộng đất của Liên khu tăng cường về chỉ đạo, phát động, toàn dân Hương Khê đã tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng và Chính phủ. Phong trào hội họp, phát động quần chúng nông dân vùng lên đấu tranh, đấu tô địa chủ, cường hào, phản động, phân định thành phần giai cấp, tịch thu, trưng thu, trưng mua, phân chia ruộng đất, tài sản của địa chủ cho nông dân nghèo... thực sự là một cuộc cách mạng quyết liệt, cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt, làm chấn động mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Hương Khê, nhất là từ giữa năm 1955 đến giữa năm 1956.
Trong quá trình kháng chiến, đến trước cải cách ruộng đất, cách mạng đã tịch thu, trưng thu, giao cấp một phần ruộng đất của địa chủ, Việt gian cho nông dân. Từ năm 1945 đến năm 1949 thu của đồn điền được 50 mẫu, 1 sào, 7 thước (Đồn điền Hương Mai có 47 mẫu, 8 sào, 7 thước; Hương Luyện 2 mẫu, 2 sào); của địa chủ Việt gian phản động được 2 mẫu, của địa chủ bỏ hoang được 283 mẫu. Cộng thời kỳ 1945 - 1949 được 334 mẫu, 3 sào, 7 thước. Từ năm 1949 đến tháng 4/1953, ruộng địa chủ bỏ hoang: 46 mẫu, 5 sào; ruộng bán công bán tư: 347 mẫu 4 sào. Cộng 2 khoản: 399 mẫu, 9 sào. Từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1955, ruộng đất địa chủ bỏ hoang: 33 mẫu, 3 sào, 13 thước; ruộng bán công bán tư: 182 mẫu, 7 sào, 11 thước; ruộng bán công bán tư trong sửa sai: 55 mẫu, 2 sào, 7 thước; ruộng nhà chung giao canh (trước cải cách ruộng đất): 92 mẫu, 2 sào, 2 thước; ruộng nhà chung còn phát canh: 9 mẫu, 8 sào. Cộng: 373 mẫu, 4 sào, 3 thước.
Trước cải cách ruộng đất, địa chủ đã phân tán khá nhiều ruộng đất dưới nhiều hình thức. Từ năm 1945 đến năm 1949, phân tán 77 mẫu, 4 sào, 3 thước, từ năm 1949 đến năm 1953 là 920 mẫu, 9 sào, 4 thước. Ruộng đất còn phát canh của địa chủ là 1.406 mẫu, 7 sào. Ruộng đất của thành phần khác: 446 mẫu, 8 sào. Phú nông có 39 mẫu, 5 sào, 4 thước. Cộng: 4.570 mẫu, 3 thước.
Trong và sau cải cách ruộng đất, toàn huyện có 632 người bị quy là địa chủ. Tuy vậy, sau khi sửa sai số lượng này giảm đi nhiều.
Thành phần cố nông trước cải cách ruộng đất có 657 hộ, 1.971 người, trong cải cách ruộng đất có 1.649 hộ, 5.058 khẩu. Số ruộng đất của cố nông trước cải cách ruộng đất có gần 670 mẫu. Số ruộng đất cố nông được chia trong cải cách ruộng đất có hơn 1.426 mẫu[65]. Cộng ruộng đất của cố nông toàn huyện có 2.096 mẫu, 1 sào, 10 thước. Có 1.396 hộ cố nông được chia trâu bò, 860 hộ được chia nhà cửa, 96 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần bần nông có 1.144 hộ, 4.322 nhân khẩu được chia nguyên canh ruộng đất với 2.199 mẫu, 1 sào. Có 1.831 hộ, 7.862 nhân khẩu được chia bù thêm ruộng đất với diện tích 1.907 mẫu, 7 sào, 1.172 hộ được chia trâu bò, 383 hộ được chia nhà cửa, 42 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần trung nông có 448 hộ, 2.119 nhân khẩu được chia ruộng đất nguyên canh với diện tích 1.104 mẫu, 5 sào, 7 thước. Có 354 hộ, 1.947 nhân khẩu được chia thêm ruộng đất với diện tích 456 mẫu, 1 sào, 7 thước, 96 hộ được chia trâu bò, 10 hộ được chia nhà cửa.
Thành phần khác (thợ thủ công, buôn bán nhỏ, dân tản cư, vạn chài, một số địa chủ) có 13 hộ, 48 nhân khẩu được chia ruộng đất nguyên canh với số ruộng đất là 23 mẫu, 7 thước; 198 hộ, 761 nhân khẩu được chia thêm ruộng đất với diện tích là 84 mẫu, 2 sào; 78 hộ được chia trâu bò; 34 hộ được chia nhà cửa; 8 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần |
Hộ được chia ruộng đất |
Diện tích ruộng đất được chia |
Hộ được chia trâu bò |
Hộ được chia nhà |
Hộ được giúp làm nhà mới |
Cố nông |
2.306 |
2096 mẫu, 1 sào, 13 thước |
1395 |
860 |
96 |
Bần nông |
1813 |
1907 mẫu, 7 sào |
1172 |
383 |
42 |
Trung nông |
354 |
|
96 |
10 |
|
Thành phần khác |
198 |
|
78 |
34 |
8 |
Cộng |
4671 |
|
2841 |
1287 |
146 |
Tháng 7/1955, Hương Khê có 12.113 hộ, 48.788 nhân khẩu, trong đó có 87 người dân tộc thiểu số. Năm 1957, toàn huyện có 12.229 hộ, 51.376 nhân khẩu. Di cư vào Nam có 159 hộ với 646 khẩu. Số hộ địa chủ sau sửa sai còn lại 249 hộ, 1.054 khẩu. Tổng diện tích trồng trọt: 16.420 mẫu, 5 sào, tương đương 8.210,2 ha.
Cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành đã đưa lại nhiều lợi ích vật chất và tinh thần cho quần chúng nông dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, mở đường cho việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, bước đầu tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, do đánh giá không đầy đủ, chính xác tình hình thực tế cũng như tương quan lực lượng địa chủ và nông dân, phương pháp công tác của các đội cải cách có nhiều sai lầm, không kết hợp với tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, dẫn đến quy kết thiếu khách quan, không thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Từ đó dẫn đến những sai lầm. Việc rập khuôn thực hiện tỷ lệ 5% hộ dân cư là địa chủ đã khiến cho nhiều cán bộ, đảng viên bị quy là địa chủ, có bóc lột nên bị đình chỉ công tác, bị đưa ra khỏi Đảng.
Trong việc chỉnh đốn tổ chức, các Đoàn ủy, đội cải cách đã bỏ qua vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp. Thậm chí ngay khi vừa mới phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, đã tiến hành chỉnh đốn chi bộ, xử trí đảng viên theo yêu cầu của cấp trên một cách máy móc, không đúng với thực tế. Tình hình đó đã dẫn đến xử trí oan, sai đối với một số cán bộ, đảng viên, quần chúng. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể Nhân dân bị vô hiệu hoá, mất hiệu lực.
Cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất đi vào chiều sâu, kết hợp với chỉnh đốn tổ chức, đồng chí Hoàng Mỹ cũng bị quy là địa chủ và bị đình chỉ công tác. Huyện ủy về cơ bản không tồn tại vào cuối năm 1955. Về cá nhân, tháng 11/1955, đồng chí Lê Xuân Bình là Huyện ủy viên làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, tháng 01/1956, đồng chí Đặng Minh Lương là Phó Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Huy Sơ được tỉnh chỉ định làm Bí thư Huyện ủy tạm thời. Tuy vậy, bộ máy lãnh đạo bị vô hiệu quá, thực việc là các cán bộ của Đoàn ủy cải cách. Cuối năm 1955 đầu năm 1956, tình trạng khủng hoảng bộ máy nghiêm trọng diễn ra cả trong Đảng và chính quyền.
Ngày 26/3/1956, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị kiểm điểm công tác chỉnh đốn tổ chức, khi phân tích tình hình đã chỉ rõ Hà Tĩnh là địa phương phạm nhiều sai lầm. Ngày 31/7/1956, Tỉnh ủy Hà Tĩnh họp đánh giá ưu điểm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện chỉnh đốn tổ chức. Tỉnh ủy cho rằng do không đánh giá đúng tình hình thực tế, không biết dựa vào tổ chức, thậm chí còn nhận định trong Đảng có phản động, cùng với việc không nắm vững mục đích, yêu cầu, phương châm, phương pháp của công tác chỉnh đốn tổ chức nên đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng, làm cho tình hình nông thôn rối ren, phức tạp, nội bộ Đảng thiếu đoàn kết, thống nhất, mất tác dụng lãnh đạo, quân phản động được dịp ngóc đầu dậy phá hoại phong trào.
Tháng 10/1956, Đảng ta đã phát hiện ra sai lầm trong cải cách ruộng đất và chủ trương kiên quyết sửa sai. Cuối năm 1956, chủ trương sửa sai của Đảng được phổ biến học tập trong cán bộ, Nhân dân toàn huyện. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác sửa sai, từ tháng 7 đến tháng 11/1956, Huyện ủy lâm thời được lập lại do Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ định. Ban Thường vụ Huyện ủy lâm thời gồm 8 đồng chí. Đồng chí Trần Đình Hậu được cử làm Bí thư. Đồng chí Đặng Minh Lương - ủy viên Ban Thường vụ được cử quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính (sau đó, đồng chí Hồ Sỹ Định - Ủy viên Ban Thường vụ được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện), đồng chí Nguyễn Tú là Phó Bí thư Thường trực. Các đồng chí này đồng thời là trưởng và phó ban sửa sai của huyện, ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Hoàng Mỹ, Nguyễn Kim Hồ, Nguyễn Tư, Hồ Sỹ Tương[66].
Chủ trương của Đảng bộ là phải nhận rõ nguyên nhân của sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đó là do trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, không thấy hết thực trạng nông thôn sau Cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi nhiều, nhất là cuộc kháng chiến ở hoàn cảnh vùng tự do, đã cuốn hút phần lớn địa chủ cũng như con cái họ đi vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Không thấy được bằng nhiều chính sách khác nhau, ta đã từng bước đưa lại ruộng đất cho nông dân, số ruộng đất địa chủ chiếm hữu không còn nhiều, sự bóc lột không lớn như ở nước khác. Mặt khác, việc giao quá nhiều quyền hành cho đội cải cách, xem nhẹ vai trò của tổ chức Đảng và chính quyền địa phương là sai lầm, làm cho tình hình càng phức tạp thêm.
Trên cơ sở nhận rõ sai lầm và theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Hà Tĩnh tháng 6/1957, Đảng bộ đã chỉ đạo các đội sửa sai nhìn thẳng vào khuyết điểm, kiên quyết sửa sai cho Nhân dân. Việc củng cố, khôi phục Đảng bộ được khẩn trương tiến hành song song với việc sửa sai. Một số cán bộ, đảng viên trưởng thành trong cải cách ruộng đất và một số cán bộ cũ lần lượt ra tù, được phục hồi công tác, khôi phục Đảng tịch do được sửa sai, một số được điều đi công tác ở các địa phương khác nay được tập hợp về để kiện toàn lại bộ máy của Đảng bộ, của chính quyền, đoàn thể của huyện.
Các cuộc họp của quần chúng được tổ chức để phổ biến chủ trương của Đảng cho Nhân dân, minh oan cho người bị xử lý oan, trả lại thành phần cho số người bị quy sai, trả lại ruộng đất, nông cụ, trâu bò nếu tịch thu không đúng. Cuộc sửa sai đã diễn ra qua ba bước: học tập, sửa sai, củng cố tổ chức, về cơ bản các bước đó được cán bộ, đảng viên, Nhân dân thông suốt, hưởng ứng và thực hiện, song cũng gặp phải nhiều khó khăn, nhất là công tác chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên bị xử lý sai, quan hệ giữa đảng viên cũ và đảng viên mới. Đến cuối năm 1957, cơ bản công tác sửa sai cải cách ruộng đất được thực hiện xong và thu kết quả tốt trong toàn huyện.
Những sai lầm của Hương Khê trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức về cơ bản tương tự như ở Hà Tĩnh, Khu IV và miền Bắc. Tuy vậy, với việc sửa sai nghiêm túc, nhanh gọn, cải cách ruộng đất ở Hương Khê vẫn đạt được những thành công cơ bản.
Cùng với sửa sai, Đảng bộ đã lãnh đạo củng cố và phát triển các tổ đổi công và bước đầu xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Năm 1957, toàn huyện có 1.458 tổ đổi công và 2 hợp tác xã nông nghiệp (cả huyện có 243 xóm, bình quân mỗi xóm có 5-7 tổ). Đến cuối năm 1957, về cơ bản Hương Khê đã hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, khôi phục được kinh tế, ổn định tình hình, sản xuất có bước phát triển, văn hóa xã hội có sự tiến bộ.
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ (1958 - 1960)
Đến năm 1957, miền Bắc nói chung, Hương Khê nói riêng đã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bộ mặt thôn quê đã có nhiều biến đổi quan trọng, song nền kinh tế vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp, sản xuất nhỏ cá thể, lạc hậu. Chế độ bóc lột bị xóa bỏ, nhưng quan hệ sản xuất mới chưa được xác lập, năng suất lao động thấp, đời sống Nhân dân nhiều nơi còn khó khăn. Mặt khác, cuộc cải cách ruộng đất đã đưa lại những lợi ích to lớn căn bản cho nông dân, song do ruộng đất, trâu bò, nông cụ được chia là thuộc quyền sở hữu của nông dân nên đã có hiện tượng mua bán ruộng đất, thuê mướn nhân công, phân hoá giàu nghèo, xuất hiện trở lại chế độ địa chủ, nhiều nông dân lại bị mất ruộng đất.
Để xoá bỏ tận gốc chế độ bóc lột, xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp cho Nhân dân, tạo tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, làm nhiệm vụ căn cứ địa, hậu phương cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, nên từ năm 1958, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc chuyển sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhằm mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (khóa II, 11/1958) đề ra nhiệm vụ của miền Bắc là: Phải đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân. Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương tháng 4/1959 nhấn mạnh: cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định: đối với điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu thì hợp tác hóa là hình thức phù hợp nhất để phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta không chỉ coi cải tạo nông nghiệp là trọng tâm mà còn nêu quan điểm phải kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính. Biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa được thực hiện phổ biến ở nông thôn là thực hiện hợp tác xã, thiết lập các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán. Nguyên tắc là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, thận trọng, vững chắc... Đảng cho rằng, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh rất phức tạp, nặng nề vì nó là cuộc chiến đấu chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi.
Chấp hành chủ trương của Đảng và nhận thức được tính chất và ý nghĩa của nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, năm 1958, Đảng bộ Hương Khê đã mở nhiều hội nghị tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Nhiều hình thức tuyên truyền phát động phong trào hợp tác hóa được tổ chức. Các cuộc rước đuốc, hô khẩu hiệu của thanh thiếu niên hàng đêm khắp các thôn xã, các khẩu hiệu cổ vũ nông dân vào con đường làm ăn tập thể, các đội ca kịch phê phán làm ăn cá thể, nêu gương tinh thần tập thể, việc giáo dục tinh thần “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”,... được tiến hành rầm rộ.
Từ những tổ đổi công được hình thành năm 1957, Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng thành các hợp tác xã. Các đảng viên, cán bộ, đoàn viên được giao nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương hợp tác hoá và bản thân phải gương mẫu tham gia, vận động gia đình vào hợp tác xã. Những nơi vốn có phong trào cách mạng mạnh từ các thời kỳ trước được Đảng bộ chọn làm thí điểm xây dựng hợp tác xã như Hương Thanh, Hương Hà, Hương Long, Hương Phố, Hương Thuỷ...
Các cán bộ huyện được phân công xuống các xã, các vùng theo dõi, chỉ đạo, đôn đốc giúp đỡ phong trào hợp tác hóa. Nhân dân Hương Khê đã hăng hái hưởng ứng chủ trương hợp tác hoá của Đảng. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên là những người đi đầu trong phong trào xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Các tổ đổi công được xây dựng khắp nơi trong huyện và trên cơ sở những tổ đổi công làm ăn tốt, số hộ đông, quản lý có hiệu quả, Đảng bộ đã chỉ đạo cho xây dựng thành các hợp tác xã cấp thấp. Các nguyên tắc chung về xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, được cơ bản thực hiện. Cán bộ, đảng viên và các gia đình tiên tiến đã đi đầu trong việc viết đơn gia nhập tổ đổi công và hợp tác xã. Các ban quản trị, thư ký, đội trưởng sản xuất đều được đại hội xã viên bầu dân chủ, công khai. Những ruộng đất, công cụ, trâu bò của các hộ góp vào hợp tác xã được trả dần qua khấu hao trên cơ sở hoa lợi thu nhập hàng năm của hợp tác xã. Đất 5% được duy trì cho hộ xã viên. Công việc trong hợp tác xã có sự phân công quy thành công (10 điểm là 1 công) để cuối mùa vụ nhận sản phẩm. Tổng sản phẩm của mùa vụ chia cho tổng ngày công sẽ thành giá trị một ngày công, từ đó nhân với số lượng công của gia đình sẽ thành thu hoạch của gia đình.
Việc khai hoang mở rộng diện tích, làm thủy lợi, đường sá, cải tạo đồng ruộng do có sự hợp tác trong lao động mà đưa lại nhiều kết quả rõ rệt so với làm ăn cá thể. Khí thế làm chung trở thành động lực của hợp tác xã với tinh thần phấn khởi của Nhân dân, nhất là thanh niên. Việc cày bừa làm đất, cấy nhỏ dảnh, bón phân, làm cỏ, phòng trừ sâu bệnh được hợp tác xã chú ý. Việc quản lý lao động được bảo đảm, có bình công chấm điểm chặt chẽ cuối ngày, cuối công việc. Việc sử dụng công cụ cải tiến như cày 51, cào cỏ Nghệ An được khuyến khích. Một số hợp tác xã có điều kiện đã tổ chức làm nghề phụ như khai thác gỗ, nứa, làm vôi, đốt than...
Nhờ có sự vận động tích cực của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các đội công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến tháng 12/1960, Hương Khê căn bản kết thúc kế hoạch hợp tác hoá nông nghiệp bậc thấp. Toàn huyện có 8.678 hộ trên tổng số 12.400 hộ vào hợp tác xã, đạt tỉ lệ 77,2%, trong 210 hợp tác xã có 2 hợp tác xã bậc cao, đạt tỉ lệ 1,9%.
Yếu tố thành công trở thành bài học kinh nghiệm của Đảng bộ là triển khai chủ trương kỹ lưỡng; tạo sự nhất trí cao trong cán bộ, đảng viên; tạo lòng tin cho tuyệt đại bộ phận quần chúng vào đường lối, chủ trương của Đảng, quyết tâm đi theo con đường làm ăn tập thể; thông qua cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh, đấu tranh giữa hai con đường mà giáo dục, giác ngộ cho đảng viên và quần chúng...
Kết quả đạt được của năm đầu làm ăn tập thể ở Hương Khê, năm 1959, là năng suất lúa đạt 1.588 kg/ha, sản lượng 17.956 tấn, bình quân đầu người 331 kg, tạo cơ sở để vươn lên giải quyết vấn đề lương thực ở huyện. Tuy nhiên, năm 1960, do bị trận lụt kỷ lục nên Hương Khê mất mùa nặng, trong khi đó, kỹ thuật lạc hậu, yếu tố công nghiệp tác động không đáng kể, chủ yếu là dùng sức người, dựa vào khí thế cách mạng của quần chúng “biến sỏi đá phải thành sắn, gạo”. Mặt khác, thành phần nông dân cá thể, thợ thủ công, tiểu thương vẫn còn khá đông, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật tin tưởng vào con đường làm ăn tập thể, tư tưởng chân trong, chân ngoài còn nặng đã gây tác động không tốt đến lòng tin của Nhân dân, làm hạn chế kết quả của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế nông nghiệp.
Cùng với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ Hương Khê cũng chỉ đạo xây dựng các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng. Năm 1957 có một số hợp tác xã mua bán, năm 1958 hình thành khá nhiều. Ngày 13/4/1959, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành nghị quyết về việc phát triển ngành mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, đồng thời đẩy mạnh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân, sắp xếp lại tiểu thương, thợ thủ công. Thực hiện chủ trương của tỉnh, công tác này được tiến hành tích cực ở Hương Khê, đến năm 1960 phần lớn các xã đã có hợp tác xã mua bán. Ngành mậu dịch quốc doanh của huyện ra đời đã đi vào phục vụ tích cực đời sống Nhân dân. Hợp tác xã nông nghiệp cùng với hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng thành lập thời kỳ này được coi là “Ba ngọn cờ hồng” (nông nghiệp, mua bán, tín dụng), góp phần xây dựng chế độ mới, nâng cao mức sống cho Nhân dân, đảm bảo khâu hậu cần toàn diện.
Một số điểm kinh tế mới được huyện chỉ đạo phát triển, lấy các chợ lớn trong huyện như: chợ Trúc, chợ Gia, chợ Sòng... làm điểm đầu tư. Tại đây, các hợp tác xã mua bán, các cửa hàng bách hóa, cửa hàng lương thực, bệnh xá, trường học,... được xây dựng.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng vùng kinh tế mới, Tỉnh ủy đã giao cho Tỉnh đoàn Hà Tĩnh nhiệm vụ khảo sát, nghiên cứu một số đồn điền cũ ở huyện Hương Khê để tiến hành khai hoang, mở rộng diện tích, phát triển kinh tế. Tháng 3/1959, Tỉnh đoàn Hà Tĩnh điều động 5 cán bộ đầu tiên lên Hương Khê phối hợp với Huyện đoàn huy động lực lượng thanh niên xung kích của các xã khai hoang vùng đồn điền Bùi Huy Tín cũ xây dựng một cơ sở sản xuất nông nghiệp có quy mô và tình chất tiên tiến theo mô hình nông trường.
Chiều ngày 19/4/1959, hàng trăm đoàn viên, thanh niên thuộc 4 xã: Lộc Yên, Hương Vĩnh, Hà Linh, Hương Thủy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn Lê Đình Sảnh đã tập trung tại đồn điền cũ Bùi Huy Tín làm lễ khởi công xây dựng nông trường. Những người dự mít tinh đã vỗ tay reo hò, thể hiện tinh thần xây dựng chủ nghĩa xã hội của tuổi trẻ Hương Khê quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, tiến lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng tin tưởng giao phó.
Rạng sáng ngày 20/4/1959, sau hồi còi phát lệnh xuất quân của đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn, hơn 400 thanh niên đại diện cho tuổi trẻ Hương Khê đã bổ nhát cuốc đầu tiên xây dựng nông trường. Ngày 20/4/1959 được đánh dấu là ngày thành lập Nông trường 20/4 theo Quyết định số 28/QĐ-UBHC của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh. Thời gian đầu cơ sở sản xuất nông nghiệp tiên tiến này có tên là Nông trường Thanh niên, sau đổi tên là Nông trường 20/4[67].
Trong công tác xây dựng Đảng, sau nhiều lần bổ sung cán bộ, chỉ định các cương vị chủ chốt của Huyện ủy, tháng 9 năm 1959, tại Hương Phố, Đảng bộ Hương Khê mở Hội nghị đại biểu, làm nhiệm vụ của một Đại hội Đảng bộ để thành lập Huyện ủy chính thức và chuẩn bị cho viêc chuyển các chi bộ cơ sở thành đảng bộ. Hội nghị đã kiểm điểm công tác lãnh đạo, khôi phục kinh tế, hoàn thành các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bàn phương hướng nhiệm vụ mới. Ban Chấp hành Đảng bộ được Hội nghị bầu ra có 19 đồng chí, do đồng chí Trần Đình Hậu làm Bí thư, đồng chí Đặng Minh Lương, Thường vụ, quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện. Đồng chí Nguyễn Tư, ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban. Ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Hoàng Mỹ, Nguyễn Tú, Hồ Sỹ Đăng, Lê Hữu Kính, Bùi Quang.
Hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Hương Khê tại Hương Phố, tháng 9/1959, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ chính thức là Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ VIII[68].
Tháng 10/1959, Đảng bộ lãnh đạo thực hiện Nghị quyết phát triển sản xuất Đông Xuân với quyết tâm cao đi đôi với củng cố, phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Các tổ đổi công được tập trung chỉ đạo để nâng lên thành hợp tác xã bằng cách đi sâu vào phân công lao động, bình công chấm điểm như hợp tác xã. Công tác Công giáo vận được Đảng bộ tăng cường để vận động giáo dân vào hợp tác xã. Những băn khoăn của Nhân dân là vấn đề hiệu quả kinh tế, song lúc đó, với khí thế mới, sản xuất đã có bước phát triển, nhất là trong việc khai hoang, mở rộng diện tích, xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông nông thôn, vì vậy những băn khoăn đó không thành trở ngại lớn.
Trong công tác quân sự địa phương, những năm 1958 - 1959, hàng trăm cán bộ, bộ đội hoàn thành nhiệm vụ được phục viên trở về quê hương đã tăng thêm lực lượng cán bộ cho huyện và các xã. Hầu hết số bộ đội phục viên này đã trở thành nòng cốt cho phong trào địa phương, giữ các cương vị chủ chốt ở các cấp ủy, chính quyền địa phương và các hợp tác xã, nhất là làm xã đội trưởng, công an xã, chỉ huy dân quân tự vệ. Luật Nghĩa vụ quân sự được chấp hành nghiêm chỉnh, 100% thanh niên ở độ tuổi đã đăng ký khám tuyển quân sự. Mỗi năm Hương Khê có trên dưới 100 thanh niên lên đường nhập ngũ. Phong trào tập luyện quân sự trong dân quân tự vệ được duy trì. Năm 1959, thực hiện Chỉ thị của Trung ương về cách mạng miền Nam là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, huyện đã tổ chức cho tất cả dân quân học tập tinh thần chỉ đạo chung và chỉnh huấn tư tưởng trong Đảng rất quyết liệt. Từ đó, việc thực hiện nhiệm vụ phục vụ mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội của Hương Khê thời kỳ này cũng có bước khởi sắc nhanh chóng và toàn diện, hầu hết con em đều được đến trường. Các xã đều có trường phổ thông cấp I, một số xã có trường cấp II như Hương Phố, Hương Bình, Hương Thanh... Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đều phân công các ủy viên phụ trách công tác văn xã. Bình dân học vụ được duy trì và củng cố. Cán bộ, đảng viên, thanh niên đi đầu trong phong trào học tập, xây dựng đời sống mới. Ngoài bệnh viện huyện, một số bệnh xá, nhà hộ sinh cũng được xây dựng ở một số xã. Số lượt người được tiêm chủng, phát thuốc chống sốt rét tăng hơn trước. Việc phun thuốc DDT diệt muỗi được thực hiện. Đội chiếu phim của huyện đã lưu động phục vụ Nhân dân. Các buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ nhân dịp lễ, tết trở thành sinh hoạt văn hóa quan trọng của các thôn xã. Một số đoàn văn công của Trung ương, của tỉnh đã về biểu diễn ở sân vận động Chu Lễ.
Kinh tế, văn hóa phát triển đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân, an ninh chính trị được giữ vững. Trong xã hội hầu như không có vụ việc tiêu cực gì lớn xảy ra. Quan hệ Đảng, chính quyền, Nhân dân được xây dựng tốt đẹp. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa II và Hội đồng nhân dân cấp xã và tỉnh được thực hiện tốt trên địa bàn huyện, Ủy ban hành chính huyện thời kỳ này do đồng chí Hoàng Mỹ làm Chủ tịch. Đồng chí Hồ Sỹ Định được tỉnh điều lên làm Trưởng ty Y tế, đồng chí Trần Đình Hậu được điều lên Ban Mặt trận của tỉnh. Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, dân quân du kích hoạt động tích cực, đi đầu trong các phong trào sản xuất, công tác, như: làm thủy lợi, làm phân xanh, cải tiến kỹ thuật, chăm sóc gia đình liệt sĩ, giúp đỡ thương bệnh binh,...
Đảng bộ Hương Khê sau những khó khăn, đã được kiện toàn. Đợt phát triển Đảng lớp 6-1 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng được thực hiện trong toàn huyện[69]. Thông qua các phong trào thi đua trong năm 1960, Đảng bộ đã lựa chọn, kết nạp được hơn 200 đảng viên mới.
Năm 1960 là năm tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng. Sau khi chỉ đạo đại hội các xã trong huyện, đến tháng 2/1960, Đảng bộ Hương Khê đã tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IX tại Thị trấn Chu Lễ, để thảo luận, góp ý kiến cho dự thảo Báo cáo chính trị và Điều lệ sửa đổi của Trung ương Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Tư, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy lên chỉ đạo Đại hội.
Theo chủ trương chung của Đảng, Đại hội Đảng bộ Hương Khê đã thảo luận những vấn đề quan trọng như: tính chất giai cấp của Đảng, tên Đảng, ngày thành lập Đảng, Điều lệ Đảng, những nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới. Đại hội cũng đã dành nhiều thời gian thảo luận báo cáo của Đảng bộ tỉnh và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh.
Trọng tâm công tác của Hương Khê được Đại hội xác định vẫn là phát triển ba ngọn cờ hồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân, đồng thời nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương phải xây dựng Đảng bộ thật sự ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh. Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1960 - 1962 có 23 ủy viên, do đồng chí Nguyễn Văn Cung làm Bí thư, đồng chí Hoàng Mỹ, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Tú làm Phó Bí thư Thường trực, ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Nguyễn Kim Hồ, Lê Hữu Kính, Bùi Đình Quang, Nguyễn Lự.
Từ Đại hội này, bộ máy Đảng bộ được xây dựng hoàn chỉnh, hoạt động đi vào nền nếp, quy củ hơn trước. Đồng chí Bí thư phụ trách chung và công tác Đảng; đồng chí Phó Bí thư làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, các trưởng ngành đều là Huyện ủy viên, trong đó Thường vụ Huyện ủy đều kiêm trưởng các ngành quan trọng như Huyện đội trưởng, Trưởng công an. Cơ chế này có tác dụng tốt trong việc bảo đảm cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt kịp thời và thực hiện có hiệu quả ở địa phương.
Sau Đại hội Đảng bộ, Huyện ủy đã có nhiều hình thức tuyên truyền về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ là lãnh đạo Nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước năm 1960, trọng tâm công tác của Đảng bộ là: phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa trong năm 1960 để năm 1961 bước sang thời kỳ thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Không khí làm ăn tập thể đã động viên được nhiệt tình, hăng hái của toàn dân vào sản xuất, nhất là làm thuỷ lợi, làm đường giao thông, nhà kho, sân phơi, trạm chăn nuôi, khai hoang, phục hoá, làm trường học, trạm xá, nhà hộ sinh, tập luyện quân sự... Đến cuối năm 1960, về căn bản, Hương Khê đã hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hầu hết Nhân dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, lâm nghiệp, hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu cơ bản là quốc doanh và tập thể. Nông nghiệp tăng trưởng, đời sống xã viên được nâng lên. Một số nông trường, lâm trường và công trình thuỷ lợi được hình thành.
Với truyền thống hướng về tiền tuyến, thời kỳ 1954 - 1960, Đảng bộ, quân dân Hương Khê đã liên tục có các hoạt động ủng hộ đồng bào miền Nam, đồng bào Bình Định kết nghĩa. Nhiều đợt tuyển quân, đóng góp chi viện miền Nam, các phong trào sản xuất, công tác, học tập mang tên Bình - Hà được phát động và thực hiện sôi nổi trong toàn huyện. Những phong trào đó của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê có ý nghĩa như một luồng gió nhỏ góp phần làm nên những trận bão táp cách mạng của đồng bào, chiến sĩ miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh "đơn phương” của đế quốc Mỹ và tay sai, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công sau cuộc Đồng khởi 1959 - 1960.
Hạn chế của Đảng bộ huyện Hương Khê thời kỳ 1958 - 1960 là trong lãnh đạo phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, có nơi, có lúc thiếu tôn trọng những nguyên tắc mà V.I.Lênin đã nêu ra, nhất là nguyên tắc tự nguyện. Các cấp ủy và chính quyền địa phương, các cán bộ, đảng viên do chạy theo thành tích, nóng vội đã thúc ép nhiều hộ gia đình vào hợp tác xã, khiến cho họ tuy có vào hợp tác nhưng không tích cực lao động, đóng góp, ý thức làm chủ thấp. Mỗi khi công việc có khó khăn là số xã viên này lại nảy sinh tư tưởng chùn bước, làm ảnh hưởng tới tinh thần của những xã viên khác, song lại không cho họ ra khỏi hợp tác xã. Các biện pháp kỹ thuật trong hợp tác xã còn đơn giản, lãng phí nhân lực trong công tác thủy lợi. Nhiều nơi bỏ qua những kinh nghiệm sản xuất truyền thông, không chú trọng thâm canh, nặng về quảng canh. Trình độ quản lý của cán bộ hợp tác xã nói chung còn non yếu. Năng suất lao động chưa cao, đời sống có tăng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là lúc thiên tai mất mùa.
Các mặt văn hóa, xã hội có tiến bộ, song chất lượng chưa cao, phong trào quần chúng vẫn còn nặng về hình thức, cơ sở vật chất cho y tế, giáo dục còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, học tập của Nhân dân. Trình độ văn hóa và nhận thức chính trị, năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ, đảng viên còn nhiều non kém.
Những hạn chế thiếu sót đó đã làm hạn chế những kết quả của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Hương Khê thời kỳ 1958 - 1960.
III. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)
Tháng 9/1960, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối chiến lược cách mạng chung cho cả nước là: Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Đại hội coi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam và với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, vì nó tạo ra cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế, quân sự bảo đảm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước và hậu phương cho miền Nam, đồng thời chuẩn bị điều kiện cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau này. Để thực hiện mục tiêu đó, Đại hội đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đề ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu phấn đấu đến năm 1965 hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng một bước cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống Nhân dân và tăng cường quốc phòng, an ninh làm tốt nhiệm vụ hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam.
Theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, và dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê vòng 2 được tổ chức để triển khai thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tại địa phương. Đại hội đã xác định nhiệm vụ của Đảng bộ trong năm 1961 là tích cực củng cố và phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng một số hợp tác xã cấp cao, ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời chú trọng nghề rừng và tiểu thủ công nghiệp; đẩy mạnh hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục; củng cố chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang địa phương; ra sức xây dựng Đảng, nhất là chi bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo trong mọi ngành, mọi mặt công tác, đảm bảo hoàn thành mọi nhiệm vụ; nâng cao đời sống Nhân dân; góp phần củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội và làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hòa bình, thống nhất đất nước.
Để thực hiện những nhiệm vụ đó, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung làm tốt các biện pháp cụ thể như: xây dựng các hợp tác xã có quy mô lớn để chuyển lên bậc cao, tăng cường các biện pháp thủy lợi, mở rộng diện tích. Chú trọng mở thêm trường lớp hệ giáo dục phổ thông; xây dựng thêm trạm xá, nhà hộ sinh, đưa cán bộ y tế về xã khám bệnh, phát thuốc cho Nhân dân; tăng cường các biện pháp nâng cao đời sống người dân; bảo vệ an ninh, quốc phòng; tăng cường xây dựng đoàn thể, xây dựng Đảng và chính quyền,...
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, năm 1961 là năm Hương Khê đẩy mạnh mọi mặt hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa. Phong trào thi đua với Hợp tác xã Đại Phong (Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) được phát động trong toàn huyện. Các hợp tác xã đã tổ chức cho xã viên nghe giới thiệu về Hợp tác xã Đại Phong, trên cơ sở đó tổ chức đảng ký thi đua xây dựng hợp tác xã về phong trào sản xuất, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật. Nhiều hợp tác xã được kiểm tra, đánh giá và được công nhận là hợp tác xã bậc cao, có phương án sản xuất hàng vụ, hàng năm, có sân phơi, nhà kho, công trình thuỷ lợi, đường sá, có đội ngũ cán bộ biết làm ăn, năng suất tăng, thu nhập tăng, đời sống xã viên được cải thiện... Tỷ lệ hộ nông dân vào hợp tác xã đạt tới 95%. Để đáp ứng nhu cầu lương thực và góp phần chi viện cho chiến trường miền Nam, các cơ quan cấp huyện cũng tổ chức sản xuất lúa nhập kho với tiêu chí 13kg/người/tháng.
Phong trào làm thủy lợi, khai hoang phát triển mạnh mẽ trong toàn huyện. Nhiều đập nước được xây dựng, nhiều trại khai hoang được mở rộng trồng hoa màu.
Việc áp dụng công cụ cải tiến, thay đổi cách thức sản xuất được chú trọng, như làm xe kéo bằng trâu, dùng quang gánh gánh lúa thay đòn xóc, dùng liềm xén để gặt lúa, sử dụng máy tuốt lúa, cấy dày, thả bèo hoa dâu, làm đường, sân phơi, nhà kho, làm guồng nước. Nhiều nơi đã liên hệ với công nhân các công nông lâm trường, công nhân hỏa xa để lắp máy bơm nước. Các phong trào: đi bò vàng về bò xanh, sạch làng tốt ruộng, nuôi trâu, bò béo, làm nhà vệ sinh... diễn ra sôi nổi. Việc nuôi gia cầm được phát triển khắp nơi, có nơi còn làm ao thả cá.
Ngành may mặc, vận tải thời kỳ này có bước phát triển mới. Năm 1961, huyện có Hợp tác xã vận tải - may mặc Tây Thịnh, riêng may mặc có 30 hộ có máy khâu. Một số nơi có các đội làm nghề phụ như: đốt than, dịch vụ khảo sát địa chất, khai thác than (Hương Châu), bốc gỗ cho công ty đường goòng (Hương Thanh).
Ngành lâm nghiệp được coi trọng. Nhiều hợp tác xã thành lập đội sơn tràng để khai thác gỗ. Hằng năm, cả huyện khai thác được từ 18.000 đến 20.000 m3 gỗ, hàng triệu cây nứa phục vụ việc xây dựng kho tàng, công sở. Lâm trường quốc doanh Trại Trụ là lực lượng chủ yếu trong khai thác gỗ. Ngày 20/4/1960 có thêm Lâm trường Chúc A.
Về công tác xây dựng đảng, tháng 6/1962, Đảng bộ triển khai cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ “Bốn tốt”: đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chủ trương của đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; xây dựng, củng cố và phát triển đảng tốt.
Về văn hoá, nhiều nơi lắp máy thu thanh, có trạm thông tin, đêm đêm có rước đuốc phổ biến chủ trương của Đảng, Nhà nước, có các buổi biểu diễn văn nghệ “cây nhà lá vườn”, tự biên tự diễn, tạo nên không khí vui tươi lành mạnh trong thôn xóm.
Để lãnh đạo đưa phong trào của huyện tiếp tục tiến lên, tháng 3/1962, Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ X được tiến hành tại Thị trấn Chu Lễ. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt kinh tế, quân sự, văn hoá, xã hội. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội cho rằng, bên cạnh các ưu điểm, thành công, đây vẫn là vấn đề yếu kém của Đảng bộ. Đó là vai trò xung phong gương mẫu của đảng viên, của tổ chức Đảng còn phải tiếp tục phấn đấu nhiều, trình độ còn phải nâng cao hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Mục tiêu của Đảng bộ là phấn đấu có 60% đảng viên và chi bộ, đảng bộ đạt bốn tốt.
Ban Chấp hành Đảng bộ khoá 1962 - 1963 có 28 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Văn Cung; Phó Bí thư là đồng chí Nguyễn Tú; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện là đồng chí Lê Hữu Kính; Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng ủy là đồng chí Phan Văn Thành: Ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Nguyễn Kim Hồ, Lê Công Ba, Bùi Đình Quang, Cao Phượng, Nguyễn Đình Dưỡng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, cuộc vận động ba xây, ba chống được triển khai sâu rộng ở Hương Khê thời kỳ 1962 - 1963. Huyện ủy đã cử cán bộ đi tập huấn ở tỉnh và về truyền đạt cho các xã để thực hiện. Một số hợp tác xã ở Hương Thịnh, Hương Xuân, Hương Giang, Hương Bình, Hương Châu, Hương Thanh,... được chọn làm thí điểm cho cuộc vận động. Huyện đã cử nhiều chủ nhiệm, kế toán trưởng hợp tác xã đi dự tập huấn ở tỉnh và mở nhiều lớp cho cán bộ theo khu vực. Việc giáo dục chính trị cho xã viên cũng được chú ý, nâng cao ý thức làm chủ cho xã viên. Khâu chọn giống được đề cao, áp dụng các loại giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi, như lúa Mộc tuyền, Chân châu lùn, lợn lai... Nhiều hợp tác xã đã thành lập các đội chuyên để xử lý khâu giống, làm thủy lợi, làm phân bón, khai thác lâm thổ sản. Bưởi Phúc Trạch được chú trọng phát triển và trồng thêm ở nhiều nơi. Các loại cây có giá trị như: chè, dầu trẩu, củ nâu, tre nứa, lá tro, lá nón,... đều được đầu tư phát triển.
Nhìn chung, đến giữa năm 1963, tình hình Hương Khê tiếp tục có sự chuyển biến tốt. Về quan hệ sản xuất, các hợp tác xã đã được củng cố thêm một bước, có 86,4% hộ vào hợp tác xã và 83% ruộng đất, trong đó 60,22% là hợp tác xã bậc cao. Vùng Thiên chúa giáo có 74,8% số hộ vào hợp tác xã. Về sản xuất, nông nghiệp tăng khá nhanh, giá trị sản lượng hai năm 1961 - 1962 tăng bình quân 6,7 đến 7%. So với năm 1960 tăng 5,9% (tỉnh Hà Tĩnh năm 1960 có 2.262 hợp tác xã, thu hút 80% số hộ và 70% ruộng đất vào hợp tác xã). Đời sống Nhân dân được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững. Các ngành nghề trong hợp tác xã được phát triển như: thủ công, giao thông vận tải, lò vôi, lò gốm, lâm nghiệp, trồng cây, làm nón, đúc lưỡi cày, lò rèn,...
Việc áp dụng khoa học - kỹ thuật được khuyến khích như: giống lúa mới, giống sắn xanh, làm phân xanh, phân vô cơ, thâm canh tăng năng suất, trồng rau. Phong trào làm thuỷ lợi được đẩy mạnh như: đắp bờ vùng, bờ thửa giữ nước tại đồng ruộng, xây dựng các hồ, đập thuỷ lợi vừa và nhỏ: Khe Sông, Khe Con, Thuận Trị, đập Làng, Ông Đọn, Rú Mạo...
Công tác đảm bảo an ninh, trật tự được đặc biệt chú ý. Dân quân xã, tự vệ các lâm, nông trường được xây dựng và tăng cường quân số, chất lượng. Các hoạt động bảo mật phòng gian, truy bắt gián điệp, biệt kích được chú trọng. Huyện xóa bỏ triệt để đường dây qua Lào, vào Nam của những người từ phía Bắc tìm cách vượt tuyến vào Nam. Năm 1963, biệt kích nhảy dù xuống Trại Trụ, tự vệ lâm trường cùng dân quân các xã chặn đánh và bắt được Lê Vạn Uyển, người Hương Xuân trốn sang Lào từ năm 1956.
Tháng 7/1963, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI được tổ chức tại Chu Lễ. Đại hội đã đánh giá những thành tựu và khuyết điểm của Hương Khê trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1961 - 1962 và bàn nhiệm vụ, kế hoạch 2 năm 1963 - 1964. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1963 - 1964 gồm 21 ủy viên, đồng chí Nguyễn Tú được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phan Văn Thành giữ chức Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Đặng Minh Lương - ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện; Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch (kế tiếp nhau) là các đồng chí Đoàn Khắc Kiên, Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện. Thường vụ còn có các đồng chí Bùi Đình Quang, Võ Lan, Lê Đăng Trang.
Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ nhiệm kỳ 1962 - 1963, ghi nhận những tiến bộ mới của quân dân trong huyện, đồng thời cũng nêu lên các hạn chế, tồn tại. Đại hội cho rằng, đến giữa năm 1963, tình hình Hương Khê vẫn còn nhiều mặt yếu kém. Hoạt động kinh tế của hợp tác xã còn nhiều hạn chế. Hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí nhiều sức lao động, vật tư, nhất là thủy lợi. Việc ghi công, chấm điểm còn lỏng lẻo. Đặc biệt việc quản lý hợp tác xã quy mô lớn yếu kém do trình độ cán bộ chưa theo kịp với tình hình. Phong trào hợp tác hoá chưa đồng đều, nhiều hợp tác xã nâng lên cấp cao nhưng đội ngũ cán bộ quản lý thiếu và non yếu về trình độ, chưa được đào tạo. Tập thể hoá tư liệu sản xuất ở mức tuyệt đối làm nảy sinh các mâu thuẫn trong sản xuất, như ruộng đất bị bỏ hoang, song không cho xã viên tận dụng sản xuất thêm, thiếu trâu bò nhưng không được chăn nuôi riêng, hàng hoá dụng cụ khan hiếm nhưng không cho phát triển các ngành nghề tiểu thủ công. Việc phát triển ngành giáo dục có thu hút đông đảo con em đến trường, song kinh tế có hạn, giáo viên thiếu, trường lớp tạm bợ, bổ túc văn hoá bị xem nhẹ, văn hoá quần chúng yếu.
Sau Đại hội, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, nhất là phát triển nông nghiệp, củng cố hợp tác xã đi đôi với xây dựng, củng cố các chi bộ, đảng bộ nông thôn, củng cố chính quyền, đoàn thể cấp xã.
Phong trào phá xiềng ba sào, phong trào “Thiên lý mã” được phổ biến trong các địa phương. Hương Khê tiếp nhận nhiều hộ gia đình từ Đức Thọ lên khai hoang ở vùng Hương Nam, Hương Tân, Hương Giang và nhiều hộ Việt kiều ở Thái Lan về và ở Thạch Hà lên khai hoang ở vùng Truông Bát, Hà Linh, hình thành các vùng kinh tế mới.
Phong trào đọc sách báo phát triển. Thị trấn Chu Lễ có hiệu sách, sân vận động với nhiều hoạt động văn thể. Các đoàn ca kịch của Trung ương, của Liên khu V, đoàn xiếc Trung ương đều về biểu diễn ở Hương Khê. Các tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan giảm hẳn. Huyện tổ chức nhiều đợt phun thuốc DDT chống sốt rét, khám bệnh phát thuốc giun, thuốc đau bụng cho Nhân dân không mất tiền. Luật hôn nhân và gia đình được phổ biến, chống hành vi bạo lực, tảo hôn đối với phụ nữ. Địa vị, vai trò người phụ nữ được tôn trọng, nhiều chị em được bầu vào cơ quan đảng, chính quyền và hợp tác xã. Nhiều xã gần với vùng thị trấn đã có mạng lưới loa truyền thanh, xây dựng được trường cấp II, trạm xá. Có xã đã có y sĩ, nơi nào cũng có nhà trẻ, nhà mẫu giáo do hợp tác xã đài thọ.
Trong bảo vệ địa bàn, nhiều toán gián điệp, biệt kích của Mỹ và tay sai thả dù hoặc đột nhập từ Lào sang Hương Khê đều bị quân dân địa phương phát hiện và bắt giữ. Tại Chu Lễ, Tòa án quân sự Quân khu IV đã mở nhiều cuộc xử án biệt kích. Nhiều cuộc triển lãm về bắt gián điệp, biệt kích các nơi cũng được trưng bày để Nhân dân biết, tăng cường cảnh giác.
Lực lượng vũ trang huyện, dân quân du kích các xã, nhất là xã trọng điểm được thường xuyên chú ý xây dựng, tăng cường trang bị vũ khí. Huyện đội, công an, tòa án, viện kiểm sát, đều được Đảng bộ chú ý tăng cường cán bộ và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Tại Hương Hà, Hương Thu, có một doanh trại quân đội vừa huấn luyện vừa sản xuất cây công nghiệp (dầu sả) là lực lượng bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ địa bàn Hương Khê. Nông trường 20-4, lâm trường Trại Trụ, Chúc A, Công ty đường goòng, các đội thuyền vận tải đường sông, cơ quan huyện... đều là những cơ sở chính quyền, kinh tế, và cũng là nơi có các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tự vệ mạnh bảo vệ địa bàn.
Trong công tác vận động quần chúng, suốt thời kỳ thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo các đoàn thể phát động nhiều phong trào thi đua công tác, lao động sản xuất, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, nhiệt tình của các tầng lớp Nhân dân vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường cảnh giác bảo vệ quê hương. Năm 1963 - 1964, toàn huyện có phong trào thi đua cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, phong trào xây dựng, củng cố đưa hợp tác xã lên bậc cao. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, chống tham ô, lãng phí, quan liêu được đề cao. Phong trào bổ túc văn hoá, thi đua hai tốt, vệ sinh, phòng bệnh tiếp tục phát triển. Tính từ năm 1946 đến năm 1964, Hương Khê có 2.570 tân binh lên đường nhập ngũ, có 321 liệt sĩ.
Hệ thống chính trị ở Hương Khê, nhất là Đảng bộ huyện Hương Khê tiếp tục được xây dựng và củng cố. Hầu hết các thôn xóm, các cơ quan công, nông, lâm trường, xí nghiệp đều đã có tổ chức Đảng hoạt động và trực tiếp lãnh đạo mọi mặt ở cơ sở. Các công việc quan trọng từ sản xuất, công tác, chiến đấu phần nhiều đều do các đảng viên của Đảng đảm nhiệm.
Các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh tháng 4/1962, bầu cử Hội đồng nhân dân huyện tháng 4/1963 đều được Đảng bộ lãnh đạo tổ chức chu đáo, được Nhân dân trong huyện hưởng ứng tích cực. Qua các kỳ bầu cử, chính quyền các cấp càng được củng cố, nâng cao năng lực quản lý, điều hành các hoạt động ở địa phương, Nhân dân càng có ý thức hơn trong việc tham gia xây dựng chính quyền và phát huy quyền làm chủ của mình. Đoàn Thanh niên có phong trào thi đua xây dựng Chi đoàn 4 tốt, phấn đấu trở thành đảng viên. Năm 1964 có các đợt thi đua sôi nổi mang tên Điện Biên - Ấp Bắc, phong trào mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, phong trào trả thù cho anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Hội Phụ nữ có phong trào thi đua xây dựng gia đình văn hóa, chăm sóc nuôi dạy con, tẩy trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng tình làng nghĩa xóm và nòng cốt trong sản xuất. Mặt trận Tổ quốc mà nòng cốt là Hội Phụ lão có nhiều hoạt động, nhất là trong phong trào trồng cây gây rừng và động viên con cháu hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, tham gia các hoạt động đấu tranh thống nhất nước nhà, tiết kiệm xây dựng nông thôn mới.
Nhìn chung, sau 10 năm xây dựng trong hoà bình (1954 - 1964), bộ mặt Hương Khê đã có thay đổi căn bản, mỗi ngày một tiến bộ hơn. Hương Khê thực sự đã trở thành một huyện có kinh tế nông, lâm nghiệp khá phát triển, văn hoá xã hội lành mạnh, chính trị, quốc phòng lớn mạnh. Bộ mặt của Hương Khê đã thực sự có những đổi mới, nhất là không khí lao động, sản xuất, phong trào cách mạng của quần chúng. Hương Khê đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục.
Đảng bộ đã quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III và các Nghị quyết Trung ương lần thứ năm, thứ bảy, thứ tám và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh tháng 7/1963... vào điều kiện cụ thể Hương Khê. Các cấp ủy Đảng đã nhận rõ nhiệm vụ ba cuộc cách mạng trong điều kiện huyện miền núi, coi trọng vị trí hoa màu trong cơ cấu cây lương thực, đã đưa cách mạng quan hệ sản xuất đi lên một bước mới thông qua cuộc vận động cải tiến quản lý lần thứ nhất; đã biết lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính của cách mạng kỹ thuật để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Công tác củng cố hợp tác xã được thường xuyên coi trọng. Đến cuối năm 1965, toàn huyện có 95 hợp tác xã bậc cao, đạt 89,7% tổng số hợp tác xã. Các vùng kinh tế có khó khăn, vùng công giáo số hộ tham gia hợp tác xã đạt 69,2%. Về thủy lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đến năm 1965 đã đào đắp 1.488.552 m3 đất đá, 197 hồ đập lớn nhỏ và hàng ngàn mét kênh mương dẫn nước. Mua sắm trang bị 29 máy bơm, phục vụ tưới tiêu cho 2.700 ha vụ chiêm, 3.200 ha vụ mùa. về sản xuất và sử dụng phân bón đã được chú trọng hơn trước, nhất là phong trào làm phân xanh, bùn ao, đưa bình quân phân bón mỗi ha lên 5 tấn. Thành lập và củng cố 17 lò vôi, đốt được 629 tấn để phục vụ sản xuất cải tạo đất và xây dựng. Các ngành trong hợp tác xã được chú trọng phát triển. Công tác quản lý đã vươn ra quản lý các ngành sản xuất mới mẻ như: sơn tràng, mộc, rèn, các đội thuỷ lợi, trồng cây. Hợp tác xã trở thành chỗ dựa cả vật chất và tinh thần của Nhân dân, nơi thể hiện diện mạo mới của nông dân, nông thôn xã hội chủ nghĩa.
Năm 1965, Hương Khê được mùa toàn diện. Diện tích lúa cả năm tăng 490 ha so với năm 1961. Năng suất lúa đạt 1.491 kg, riêng vụ chiêm đạt 1.657 kg, vụ thu 1.308 kg, vụ mùa 1.373 kg đưa sản lượng lúa cả năm táng 25,9%. Tổng sản lượng lương thực toàn huyện đạt 13.392 tấn. Các chỉ số diện tích, tỷ trọng màu tăng 28,7%, bình quân lương thực đầu người đạt 331 kg. Đàn trâu năm 1961 có 8.738 con, năm 1965: 10.157 con, tăng 16,24%. Đàn bò năm 1961 có 7.360 con, năm 1965: 8.279 con, tăng 12,49%. Đàn lợn năm 1961: 9.336 con, năm 1965: 11.456 con, tăng 22,71%. Lợn nái năm 1961: 840 con, năm 1965: 2.118 con, tăng 152,14%...
Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong thời kỳ 1954 - 1965 là cơ sở, điều kiện để Hương Khê vươn lên thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau đó.
CHƯƠNG V ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN,
CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1975)
I. LÃNH ĐẠO CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN (1965 - 1968)
Giữa lúc quân dân miền Bắc đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam cuộc đấu tranh của quân dân ta cũng giành được những thắng lợi to lớn. Nhất là phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), quân dân miền Nam đã tiến lên giành thế tiến công, tiến tới đánh bại chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ. Tiếp đó, từ năm 1961 đến năm 1965, được sự chi viện ngày càng to lớn của miền Bắc, quân dân miền Nam đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại các kế hoạch bình định, lập ấp chiến lược của địch, từng bước làm thất bại kế hoạch Stalây - Taylo và kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, đưa chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ đến chỗ phá sản.
Thấy rõ nguy cơ sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền và sự thất bại hoàn toàn của “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, từ đầu 1965, đế quốc Mỹ đã vội vã chuyển sang chiến tranh cục bộ, trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến tranh xâm lược, dùng không quân, hải quân đánh phá ra miền Bắc. Âm mưu đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ là phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, giải phóng miền Nam của Đảng và Nhân dân ta.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động quân và dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong không khí sôi sục tinh thần chống Mỹ, cứu nước, tháng 3/1965, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ XII tại xã Hương Phố. Đại hội chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận rõ âm mưu của đế quốc Mỹ; đẩy mạnh sản xuất, công tác; ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt, nhất là xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ; giữ vững an ninh địa bàn; chú trọng xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, đoàn kết toàn dân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; ra sức ủng hộ, chi viện cách mạng miền Nam... Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ là tiếp tục lãnh đạo đưa hợp tác xã lên bậc cao và sẵn sàng đối phó với sự đánh phá của máy bay Mỹ.
Ban Chấp hành Đảng bộ do Đại hội bầu ra có 23 ủy viên. Đồng chí Đặng Tỵ, Tỉnh ủy viên là Bí thư Huyện ủy; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện là đồng chí Lê Hữu Kính; Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng là đồng chí Đặng Minh Lương, tiếp đó là đồng chí Phan Văn Thành. Ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí: Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện, Bùi Đình Quang, Võ Lan, Lê Đăng Trang.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, của Tỉnh ủy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XII, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và toàn dân Hương Khê đã nhanh chóng bước vào thời kỳ mới. Thường vụ Huyện ủy tổ chức nhiều cuộc họp đột xuất để bàn định kế hoạch khẩn trương triển khai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong tình hình mới; vạch kế hoạch chuyển hướng xây dựng kinh tế và mọi mặt hoạt động của huyện từ thời bình sang thời chiến; xác định quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, kiên quyết xây dựng và bảo vệ địa phương, đồng thời huy động sức người, sức của cung cấp cho mặt trận, bảo đảm giao thông vận tải chi viện chiến trường.
Các cơ sở sản xuất, cơ quan huyện ở Chu Lễ được chỉ đạo sơ tán về các xã lân cận. Xí nghiệp sản xuất phốt phát ở Phú Lễ được chuyển sâu vào Lèn để tiếp tục sản xuất. Các cầu đường bộ, đường sắt được nguỵ trang. Các trường học, bệnh viện, bệnh xá có phương án sơ tán đến nơi an toàn hơn. Công tác sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được đặc biệt chú ý. Huyện đội đã cử cán bộ về tập huấn, huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ các cơ quan, xí nghiệp, nông lâm trường, thôn xã. Một số đơn vị trực chiến được xây dựng với vũ khí trang bị mới do Tỉnh đội và Quân khu tăng cường.
Trong khi quân và dân Hương Khê đang khẩn trương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ thì ngày 26/3/1965, quân dân Thị xã Hà Tĩnh, Đèo Ngang đã nổ súng đánh Mỹ trận đầu tiên và bắn rơi được 12 máy bay.
Ở Hương Khê, từ đầu năm 1965, máy bay Mỹ thường xuyên bay lượn trinh sát tuyến vận tải đường sắt, đường bộ, đường sông Ngàn Sâu và các cơ sở quân sự, dân sự như: doanh trại bộ đội, các công, nông, lâm trường... Sáng 26/3/1965, máy bay Mỹ ném bom vào nhiều vị trí, làm 01 người chết tại bệnh viện huyện. Để nhanh chóng ứng phó với địch, tự vệ Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức chiến đấu. Vào 10h30 phút cùng ngày tại sân vận động Chu Lễ, tự vệ huyện nổ loạt súng đầu tiên bắn chiếc máy bay AĐ6 bay từ hướng thị xã lên.
Ngày 31/3/1965, chúng đã cho máy bay ném bom phá hoại doanh trại quân đội ở Hương Hà, Bệnh viện Hương Khê, gây cho ta nhiều thiệt hại về tài sản. Tại Bệnh viện huyện, bom đạn Mỹ đã sát hại một sản phụ đang lúc chuyển dạ, không thể ra nơi trú ẩn.
Ngày 15/4/1965, Thường vụ Huyện ủy họp quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 11. Sau khi nghe tình hình miền Nam, nội dung cơ bản của Nghị quyết 11, Hội nghị đã chủ trương chuyển trụ sở của huyện vào Hương Long. Trong khi chờ quyết định của tỉnh, tạm thời sơ tán từng bộ phận vào dân, một bộ phận vẫn ở Chu Lễ. Huyện ủy phân công các Huyện ủy viên phụ trách từng cụm và quy định chế độ hội ý, báo cáo định kỳ để bảo đảm nắm và chỉ đạo thông suốt, kịp thời, thống nhất trên phạm vi toàn huyện, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh, giao thông liên lạc khó khăn.
Ngày 4/6/1965, Ban Thường vụ họp bàn vấn đề kinh tế thời chiến và nhiệm vụ quốc phòng. Hội nghị đã nghe báo cáo về phân loại phản động ở địa phương, dự kiến bổ sung huyện ủy viên, điều chuyển một số đồng chí đảm nhiệm công việc mới cho phù hợp với thời chiến như: đồng chí Phan Huy Suyền bàn giao công tác thanh niên, sang chỉ đạo giao thông, đồng chí Đặng Minh Lương sang Thường trực Đảng,... Hội nghị quyết định thành lập Ban Sơ tán của huyện, chỉ đạo việc sơ tán cơ quan, Nhân dân ở vùng trọng điểm bị đánh phá.
Ngày 18/6/1965, đồng chí Trần Anh Liên, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đã về thăm và làm việc với Thường vụ Huyện ủy Hương Khê, bàn thực hiện nhiệm vụ phối hợp chi viện cho chiến trường A, B, C. Theo tinh thần đó, tối ngày 20/6/1965, Ban Thường vụ Huyện ủy họp bàn huy động dân công cho bến phà Địa Lợi với số lượng 340 người, khẩn trương bảo đảm thông suốt cho phà hoạt động (tỉnh giao 300 người); ngoài ra, còn cho tuyển thanh niên xung phong và lực lượng bốc vác, sửa chữa đường sá. Tối ngày 23/6/1965, Thường vụ nghe đại diện Tỉnh ủy thông báo về phòng chống biệt kích, gián điệp của địch.
Liên tục trong các tháng giữa năm 1965, máy bay Mỹ đã dồn dập đánh phá các mục tiêu ở Hương Khê, như bắn cháy Trường cấp 2 Hương Thanh, đánh cầu Thanh Luyện, phà Địa Lợi, Lộc Yên, cầu 30 thước, cầu Cửa Rào, Thị trấn Chu Lễ...
Trong khói lửa chiến tranh, phong trào quân sự hóa mọi mặt đời sống được triển khai và trở nên phổ biến. Đến giữa năm 1965, căn bản Hương Khê đã chuyển sang thời chiến và hình thành được thế trận của chiến tranh Nhân dân. chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Công tác phòng không sơ tán được khẩn trương thực hiện, nhà dân nào cũng đào hầm trú ẩn, các trường học được chuyển đến các địa điểm mà địa phương cho là an toàn nhất.
Huyện chỉ đạo một mặt phát động tinh thần căm thù giặc Mỹ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, mặt khác chỉ đạo ra sức thực hiện công tác phòng không Nhân dân, xây dựng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ. Trong chiến đấu phải phối hợp tốt với bộ đội chủ lực để bắn máy bay, bắt giặc lái, bảo vệ các trọng điểm. Trong phòng tránh, phải có đèn phòng không cho xe qua lại, trồng cây và nguỵ trang cho xe ô tô ẩn nấp, ngụy trang các công trình thuỷ lợi, cấm dùng đèn đuốc đi lại ban đêm tuỳ tiện, thưng che bếp, đèn trong nhà không để lọt ánh sáng ra ngoài. Các chợ búa, trường học phải có hầm, hào sơ tán. Không tập trung quá đông người, kể cả trong sản xuất, phải chia thành các nhóm nhỏ. Về an ninh, phải đề cao cảnh giác, chống phao tin đồn nhảm của địch, ngăn chặn kịp thời các vụ trộm cắp tài sản tập thể và Nhà nước, cá nhân. Tăng cường hoạt động của các ngành công an, toà án...
Để đảm bảo an toàn, cơ quan Huyện ủy sơ tán về xã Hương Long, Ủy ban nhân dân huyện sơ tán sang xã Hương Vĩnh. Giữa năm 1966, cả Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đều sơ tán về xã Hương Bình. Trường cấp III Hương Khê sơ tán về các xã Hương Phong, Hương Vĩnh. Bệnh viện huyện sơ tán về xã Hương Long.
Hương Khê trở thành khu vực trung chuyển quan trọng trên con đường giao liên của bộ đội, thương bệnh binh vào ra chiến trường và là vùng kho, trạm quan trọng trên tuyến giao thông vận tải của các loại phương tiện sắt, thủy, bộ. Số lượng bộ đội vào chiến trường B dừng chân huấn luyện, củng cố tại Hương Khê ngày một đông, thương - bệnh binh ra điều trị, an dưỡng ngày một nhiều. Kho tàng bến bãi lập nên ở khắp nơi dọc sông Ngàn Sâu, dọc tuyến đường số 15, dọc đường sắt. Mối tình quân dân được tăng cường, tinh thần hậu phương với tiền tuyến được đề cao. Song vấn đề đặt ra là giặc Mỹ đã liên tục đánh phá ác liệt Hương Khê hòng ngăn chặn con đường chi viện chiến trường miền Nam. Hơn nữa, nhu cầu cung cấp lương thực, thực phẩm tại chỗ cho bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, thương bệnh binh ngày càng lớn.
Trước đòi hỏi của cuộc chiến đấu tại chỗ và nhu cầu chi viện tiền tuyến, Đảng bộ huyện Hương Khê đã phát động phong trào toàn dân bắn máy bay Mỹ, toàn dân làm giao thông vận tải, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, áp dụng triệt để chế độ tem phiếu, bao cấp thời chiến.
Từ năm 1965 và liên tiếp các năm sau, phong trào làm bèo hoa dâu, cấy lúa thẳng hàng, làm ruộng cao sản, ruộng tăng sản, phong trào thuỷ lợi, cải tạo nội đồng được chú trọng. Đường giao thông vận tải liên thôn, liên xã, liên huyện được nâng cấp, làm mới ở khắp nơi. Hàng trăm công trình thuỷ lợi nội đồng, đê đập vừa và nhỏ được đào đắp ở hầu hết các xã, thôn trong huyện. Chiến dịch thuỷ lợi Bồng Sơn phát động trong các tháng mùa hè năm 1966 đã thu hút toàn dân trong huyện tham gia. Kết quả đã có đợt huy động 48.000 người tham gia, có hàng ngàn xã viên, thanh niên các hợp tác xã được bình bầu là dũng sỹ Bồng Sơn các cấp[70]. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ, áp dụng giống mới được đẩy mạnh. Huyện có 122 hợp tác xã, trong đó có 70 hợp tác xã đã lên bậc cao, các hợp tác xã khác đều được học tập để nhập các hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã lớn hơn, để lên bậc cao. Có 13 trại chăn nuôi với 574 con trâu bò, có 8 trại thí điểm nuôi lợn tập thể. Các hợp tác xã kết nạp thêm 158 hộ, quản lý thêm 100,5 ha đất làm riêng.
Công nghiệp địa phương có bước phát triển nhanh, hình thành Xí nghiệp than Động Đỏ (Hương Hà), nhiều lò vôi, lò gạch, lò rèn. Hoạt động lâm nghiệp khai thác gỗ, tre, nứa phục vụ kinh tế, quốc phòng được chú ý. Các hợp tác xã mua bán được thiết lập, thực hiện chế độ phân phối hàng tiêu dùng tối thiểu cho Nhân dân.
Phong trào chống Mỹ, cứu nước diễn ra sôi nổi trong các đoàn thể Nhân dân như: phong trào Ba sẵn sàng, Ba đảm đang, phong trào đi bộ đội, Thanh niên xung phong, đi dân công hoả tuyến. Chưa bao giờ tuổi trẻ Hương Khê, chị em Hương Khê lại tình nguyện tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sôi nổi như thời kỳ này. Toàn huyện có hàng trăm quân nhân phục viên được gọi tái ngũ, hàng ngàn thanh niên tham gia Thanh niên xung phong, đi bộ đội.
Công tác quân sự địa phương được chú ý hơn trước. Thanh niên, dân quân là lực lượng xung kích trên mọi mặt công tác, sản xuất, chiến đấu, nhất là tham gia các đội trực chiến, ứng cứu giao thông, làm các công trình giao thông, thuỷ lợi. Lực lượng dân quân tự vệ thu hút phần lớn người trong độ tuổi lao động tham gia với số lượng hàng ngàn người. Lực lượng Bộ đội địa phương huyện, Công an nhân dân được tăng cường. Các đồn biên phòng ở biên giới Việt - Lào: đồn 95, 97, 99 được bổ sung lực lượng.
Phong trào bắn máy bay được diễn ra sôi nổi với hàng chục đội dân quân trực chiến, nhất là các xã dọc theo các tuyến đường vận tải, nơi trọng điểm giao thông, khu vực nông, lâm trường, xí nghiệp... Khẩu hiệu “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng” được nông dân, công nhân Hương Khê thực hiện sinh động, hiệu quả trên thực tế. Ngày 20/9/1965, quân dân Hương Vĩnh, Hương Xuân và tự vệ công nhân Nông trường 20/4 đã phối hợp bắn máy bay, vây bắt giặc lái Mỹ nhảy dù. Quân dân ta đã bắn rơi một trực thăng, bắt sống 5 tên giặc Mỹ đến cứu và cầu cứu. Hình ảnh “O du kích nhỏ giương cao súng”[71] đang giải tên giặc Mỹ cao lớn cúi đầu là do nhà nhiếp ảnh Phan Thoan ghi được trong sự kiện này. Đó là biểu tượng nói lên khí phách hiên ngang của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Với chiến công này, quân dân Hương Khê được thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Nông trường 20-4 và quân dân Lộc Yên được tặng Huân chương Quân công hạng Ba, Đội 6 Lâm trường Chúc A, dân quân Hương Phong được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, quân dân xã Hương Xuân, tự vệ Phòng Giao thông, bộ đội địa phương huyện được tặng Huân chương Chiến công hạng Hai, các xã Hương Đô, Hương Lạc được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba, Hương Lĩnh, Tự vệ cơ quan huyện được tặng Bằng khen.
Do huyện Hương Khê nằm ở vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt nên đế quốc Mỹ đã đánh phá thường xuyên, liên tục bằng mọi thủ đoạn, mọi loại bom đạn, vào mọi thời tiết, mọi mục tiêu, kể cả khu dân cư. Tổn thất mà bom đạn Mỹ gây ra cho Hương Khê là hết sức to lớn. Tất cả các xã trong huyện đều bị đánh phá ngay từ những tháng đầu của chiến tranh phá hoại. Tuyến đường sắt và sông Ngàn Sâu chạy dọc huyện, từ Đức Thọ vào Tuyên Hóa (Quảng Bình), đường 15 từ Khe Giao lên Hà Linh, vào Tuyên Hóa, là hệ thống giao thông sắt, thủy, bộ chủ yếu của Hương Khê và hậu phương miền Bắc chi viện miền Nam qua Hương Khê, luôn luôn bị máy bay địch bắn phá ác liệt. Có những nơi trở thành tọa độ đánh phá thường xuyên của máy bay Mỹ như khu vực bến phà Địa Lợi, cầu 30 thước, cầu Thanh Luyện, chợ Trúc, Thị trấn Chu Lễ, ga Hương Phong, Lộc Yên,...
Vào lúc 16 giờ 30’ ngày 9/2/1966 có 6 quả bom rơi trúng lớp 5A Trường cấp II Hương Phúc làm cho 33 học sinh bị chết tại chỗ, 24 học sinh và thầy giáo Thái Văn Nhậm bị thương. Hầu hết các em học sinh đều tuổi măng non. Tin giặc máy bay Mỹ ném bom làm chết nhiều học sinh Trường cấp 2 Hương Phúc được truyền đi rất nhanh, gây nên một làn sóng căm phẫn trong Nhân dân cả nước và Nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Sự căm thù giặc Mỹ xâm lược đã trở thành một làn sóng mạnh mẽ, rộng khắp với các hoạt động phản đối chiến tranh, đòi đế quốc Mỹ cút khỏi Việt Nam. Giáo viên, học sinh toàn miền Bắc lúc đó đã cùng để tang cho những học sinh Hương Phúc bị bom Mỹ giết hại.
Trước tình hình đó, ngày 14/2/1966, Thường vụ Huyện ủy họp đánh giá thiệt hại trong vụ địch ném bom vào trường Cấp II Hương Phúc và bàn biện pháp sơ tán triệt để Nhân dân khỏi các vùng trọng điểm gần cầu đường, công trình quốc phòng nhằm đảm bảo an toàn cho người. Một phong trào phòng không sơ tán được Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện chỉ đạo ráo riết, được toàn dân triệt để thi hành. Khẩu hiệu “Nhà che mưa, che nắng, hầm hố che máu, che xương” trở thành hiện thực. Nhà nhà đào hầm hào, người người thực hiện phòng không Nhân dân. Các hợp tác xã đều chi công điểm cho xã viên đi đào hầm hào ở các vùng trọng điểm giao thông, nơi sản xuất gần các khu vực địch đánh phá, làm trường lớp, hầm hào, đắp lũy cho các lớp học, các trạm xá, nhà hộ sinh, chợ búa...
Mặc dù trong điều kiện chiến tranh, máy bay bắn phá ác liệt nhưng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, văn nghệ, thông tin, y tế ở huyện Hương Khê vẫn không ngừng phát triển. Phong trào thi đua Hai tốt, giáo dục phổ thông 3 cấp, bổ túc văn hoá được duy trì và phát triển. Số học sinh, số trường lớp vẫn tăng lên, thầy trò vẫn duy trì học tập chuyên cần trong các lán ngầm ẩn sâu vào lòng đất. Trường cấp III Hương Khê được chuyển vào xã Hương Vĩnh an toàn hơn để tiếp tục đào tạo các thế hệ trí thức tương lai cho quê hương, đất nước.
Các trường học được phân tán thành nhiều lớp rải rác vào các làng xã. Lớp học được hạ thấp xuống đất, chung quanh có lũy cao bao bọc. Học sinh tự giác không mặc quần áo màu sáng, lúc đi học đều có mũ rơm. Ánh sáng của đèn, của bếp được che chắn đề phòng địch phát hiện. Việc ngụy trang được toàn dân thực hiện cả lúc đi lại, cày cấy. Học sinh trường cấp III đã tự vào rừng đốn gỗ, chặt nứa, cắt tranh để về làm lớp học, làm hầm, lũy. Nhân dân các xã sẵn sàng cưu mang Nhân dân, học sinh đến sơ tán, học tập. Mọi nhà dân đều là nơi để hàng hoá, nơi đóng quân, nghỉ ngơi của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công.
Ngành y tế được quan tâm phát triển, tạo thành mạng lưới cấp cứu tại chỗ và theo tuyến xã, huyện, quân dân y, đông tây y kết hợp. Ngoài chữa bệnh, điều trị thông thường, vấn đề cứu chữa người bị thương do bom đạn Mỹ ngày càng trở nên cấp bách. Trong khó khăn, các y, bác sĩ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc không kể ngày đêm để cứu chữa bộ đội, cán bộ, Nhân dân bị thương. Nhiều sáng kiến về điều trị sử dụng thuốc nam, nhiều tấm gương tận tụy chăm sóc người bệnh, kể cả hiến máu cứu người bị nạn xuất hiện, được Nhân dân khen ngợi.
Bệnh viện huyện được sơ tán về xã Hương Long đã cùng với bệnh viện Quân khu IV ở xã Hương Bình tạo nên trung tâm y tế mạnh cứu chữa, điều trị cho bộ đội, Nhân dân. Bác sĩ Đặng Hoàng và các đồng nghiệp đã xử lý thành công nhiều ca cấp cứu hiểm nghèo, trong đó có một linh mục bị thương rất nặng, đem lại niềm tin cho giáo dân. Các xã đều có trạm xá, nhà hộ sinh, trạm thuốc nam với đội ngũ cán bộ tại chỗ do hợp tác xã đài thọ, bảo đảm nhu cầu cấp cứu, điều trị cho Nhân dân, giảm số phải chuyển lên tuyến trên. Các hợp tác xã đều có cán bộ y tế cơ sở, có tủ thuốc của mình. Huyện đã nhanh chóng mở nhiều lớp đào tạo cán bộ y tế trình độ y tá, cứu thương và gửi cán bộ đi đào tạo y sĩ. Việc khám tuyển nghĩa vụ quân sự đều do ngành y tế của huyện đảm nhiệm bảo đảm chất lượng sức khỏe của tân binh giao cho các đơn vị bộ đội. Phong trào xây dựng ba công trình vệ sinh cơ bản (giếng nước, nhà tắm, nhà xí) được thực hiện khắp các địa phương. Toàn ngành y tế đã xây dựng được ý thức hướng về cơ sở, lấy tuyến xã và hợp tác xã làm địa bàn phục vụ trọng yếu, giải tỏa nhanh bệnh nhân cho bệnh viện huyện. Các trạm xá khu vực được xây dựng và tăng cường phương tiện, cán bộ để kịp thời giải quyết hậu quả chiến tranh cho khu vực.
Hoạt động Văn hóa thôn tin được quan tâm. Ngành văn hóa, thông tin được tăng cường về số lượng cán bộ và phương tiện truyền tải. Ban Tuyên huấn Huyện ủy và Phòng Văn hóa thông tin Ủy ban hành chính huyện được tăng cường cán bộ có năng lực và nhiệt tình về công tác. Hệ thống loa truyền thanh từ huyện được nối dài đến các xã cung cấp kịp thời tin tức thời sự cho Nhân dân. Báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân, báo Hà Tĩnh, các bản tin thời sự đều được cấp phát đến các xã. Cổng chào, khẩu hiệu, bảng tin được dựng ở khắp nơi với nội dung nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mọi người, từ già đến trẻ, cán bộ đến người dân bình thường đều háo hức theo dõi tin tức thời sự, trao đổi, truyền tin mọi sự kiện gần xa, cùng chung vui lo về mọi thắng lợi, khó khăn của hậu phương và tiền tuyến. Các đội chiếu phim phục vụ Nhân dân cả ngày và đêm. Văn nghệ nghiệp dư, múa hát tập thể, “tiếng hát át tiếng bom”, đọc báo, nghe loa phát thanh... trở thành phong trào quần chúng. Ngay cả khi địch đang đánh phá thì cán bộ, nhân viên ngành bưu điện vẫn bảo đảm giao thông thông suốt, không lúc nào để mất liên lạc với trên và các địa phương.
Công tác quân sự địa phương được tăng cường về mọi mặt. Ngoài các đơn vị chủ lực thường xuyên có mặt trên địa bàn huyện, Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở các xã, cơ quan, nông trường, xí nghiệp... Huyện ủy thường xuyên có một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ phụ trách trực tiếp công tác quân sự, làm Chính trị viên Huyện đội. Đồng chí Bí thư Huyện ủy trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện. Ban quân sự các xã đều do đồng chí Bí thư Đảng ủy phụ trách, Xã đội trưởng đều là đảng ủy viên hoặc là Thường vụ Đảng ủy. Ý thức quốc phòng toàn dân, quan điểm chiến tranh Nhân dân được thường xuyên quán triệt trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Vai trò của dân quân tự vệ, của thanh niên trở nên hết sức quan trọng. Thanh niên, dân quân được huy động làm nhiệm vụ trực phòng không, trực chiến bắn máy bay và cứu trợ lúc địch đánh phá giao thông, làng mạc. Các chòi canh gác, báo động máy bay được bố trí khắp các làng, các trạm truyền thanh, phát thanh được tổ chức để phục vụ cho tuyên truyền tin tức và báo động máy bay địch. Tất cả thanh niên đều tham gia dân quân tự vệ, được biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội và có trang bị vũ khí ngày càng hiện đại. Nhiều địa phương có đội trực chiến quy củ, túc trực suốt 24/24 giờ, sẵn sàng độc lập tác chiến bắn máy bay địch bảo vệ trọng điểm và phối hợp, cơ động với lực lượng phòng không của chủ lực lập thành các cụm trận địa phòng không đánh địch. Cơ quan quân sự của huyện được tăng cường cả về quân số, trang bị vũ khí. Tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện được xây dựng, sau các khóa huấn luyện đã lên đường bổ sung cho chủ lực và thay thế là số thanh niên mới nhập ngũ. Mỗi năm đều có vài ba đợt tuyển quân với hàng ngàn thanh niên lên đường nhập ngũ. Hàng trăm nam, nữ thanh niên đã lên đường đi Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ trên các tuyến giao thông vận tải.
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, Hương Khê nổi bật trong công tác bảo đảm giao thông vận tải. Đảng bộ, chính quyền huyện đã xác định trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bảo đảm giao thông thông suốt. Huyện ủy thường xuyên cử một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp phụ trách Phòng Giao thông Vận tải nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác được coi là trọng tâm và đột xuất này. Đảng bộ cũng đã phát động phong trào quần chúng tham gia công tác giao thông. Ban giao thông các xã được thành lập để bảo đảm giao thông vận tải trong xã và sẵn sàng chi viện cho huyện, cho Thanh niên xung phong khi cần thiết. Nhiều đảng viên, đoàn viên, dân quân đã tham gia các đội xung kích, phụ trách từng đoạn đường, bến bãi. Các trọng điểm giao thông như phà Địa Lợi, bến sông chợ Trúc, cầu Lộc Yên,... đều thường xuyên có lực lượng của Trung ương, của tỉnh, của địa phương cùng phối hợp làm nhiệm vụ vận chuyển.
Huyện có đơn vị công binh thường xuyên có mặt nơi cần thiết để tổ chức phá bom nổ chậm, bom từ trường. Qua các lần tập huấn lý thuyết và thực địa, các tổ công binh dân quân các xã đã tiến tới tự phá được bom từ trường, bom nổ chậm, nhất là thời gian địch ném bom hạn chế (năm 1968). Dân quân các xã Hương Tân, Hương Phố, Hương Thanh, Hương Hà, Hương Luyện, Hương Thu, Hương Châu, Hương Long, Hương Đô, Hương Thuỷ, Tự vệ Nông trường Chúc A, Nông trường 20-4, vùng Thượng huyện... đều tự mình phá được bom từ trường với những dụng cụ thô sơ, tự tạo. Bom bi, rốc két chưa nổ của địch được dân quân, công binh thu gom phá hủy để bảo đảm an toàn cho sinh hoạt, sản xuất.
Công tác hậu phương quân đội trong điều kiện mới càng trở nên quan trọng. Phần lớn các gia đình Nhân dân trong huyện đều có một người thân đi bộ đội, Thanh niên xung phong, dân công hoặc đi thoát ly làm cán bộ, công nhân viên của Nhà nước. Hợp tác xã đã vươn lên làm cả chức năng của một tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó có nhiệm vụ hậu phương quân đội. Các đợt tuyển quân đều được các xã, cơ quan, xí nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh, vượt chỉ tiêu. Trường cấp III Hương Khê là một điển hình của công tác động viên học sinh lên đường nhập ngũ.
Gia đình chính sách được hỗ trợ nhân lực, vật liệu để làm hầm phòng tránh. Các đội cứu thương, cứu sập, tủ thuốc công cộng, túi thuốc gia đình, bông băng cá nhân,... được thực hiện tự giác. Hoạt động giao thông vận tải và sản xuất ở vùng trọng điểm đánh phá của địch được chuyển vào ban đêm là chính. Quan hệ giữa người với người, tình làng, nghĩa xóm, quan hệ giữa Đảng với dân, chính quyền với Nhân dân, tình quân dân, nghĩa thầy trò... đều trong sáng, chân thành, tốt đẹp.
Trong công tác xây dựng Đảng, mặc dù chiến tranh ác liệt, cán bộ, đảng viên phải hy sinh, gương mẫu đi đầu trong chiến đấu, sản xuất, công tác song hầu như mọi quần chúng ưu tú, nhất là đoàn viên Thanh niên lao động, đều có nguyện vọng gia nhập Đảng. Đến tháng 4/1966, Đảng bộ Hương Khê đã có 37 đảng bộ xã, 26 đảng bộ cơ quan, nông lâm trường, xí nghiệp, với 3.546 đảng viên.
Xem bảng thống kê dưới đây sẽ cho thấy rõ số đảng viên phân bố ở các đảng bộ[72]:
TT |
Đảng bộ |
Đảng viên |
TT |
Đảng bộ |
Đảng viên |
1 |
Hương Trạch |
45 |
34 |
Hương Điền |
35 |
2 |
Hương Phúc |
37 |
35 |
Hương Đại |
72 |
3 |
Hương Lĩnh |
86 |
36 |
Hương Giang |
110 |
4 |
Hương Lạc |
111 |
37 |
Hương Thu |
93 |
5 |
Hương Đô |
142 |
Cộng 37 xã |
3.017 |
|
6 |
Hương Lâm |
67 |
1 |
C.QHU |
26 |
7 |
Hương Liên |
59 |
2 |
C.QUB |
64 |
8 |
Hương Lộc |
57 |
3 |
Lương thực |
44 |
9 |
Hương Mai |
67 |
4 |
Lâm nghiệp |
97 |
10 |
Hương Châu |
82 |
5 |
Lâm trường |
79 |
11 |
Hương Đồng |
119 |
6 |
Vật liệu |
7 |
12 |
Hương Hoà |
113 |
7 |
Tư liệu |
7 |
13 |
Hương Mỹ |
30 |
8 |
Dược phẩm |
3 |
14 |
Hương Trung |
20 |
9 |
Thực phẩm |
21 |
15 |
Hương Luyện |
33 |
10 |
Công an |
10 |
16 |
Hương Minh |
161 |
11 |
Thống nhất |
6 |
17 |
Hương Thọ |
115 |
12 |
Mặt trận |
11 |
18 |
Hương Phong |
78 |
13 |
Hạt 8 |
20 |
19 |
Hương Xuân |
100 |
14 |
Tân Thủy |
4 |
20 |
Hương Phố |
71 |
15 |
Công trình |
25 |
21 |
Hương Thịnh |
42 |
16 |
Nông sản |
13 |
22 |
Hương Thủy |
103 |
17 |
Bưu điện |
9 |
23 |
Hương Tân |
106 |
18 |
Huyện đội |
13 |
24 |
Hương Long |
136 |
19 |
Bán lẻ |
17 |
25 |
Hương Bình |
180 |
20 |
Ngân hàng |
15 |
26 |
Hương Phú |
95 |
21 |
Hợp tác xã |
7 |
27 |
Hương Vĩnh |
91 |
22 |
Ngoại thương |
3 |
28 |
Hương Hải |
127 |
23 |
Mỏ than |
7 |
29 |
Hương Thái |
32 |
24 |
Cấp III |
3 |
30 |
Hương Nam |
13 |
25 |
Bệnh viện |
15 |
31 |
Hương Thanh |
80 |
26 |
Sông Tiêm |
3 |
32 |
Hương Hà |
86 |
Cộng cơ quan |
529 |
|
33 |
Hương Quang |
14 |
Toàn huyện (63 đơn vị) |
3.546 đảng viên |
Không chỉ tăng nhanh về số lượng mà chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên cũng được bảo đảm. Phân loại đảng bộ, chi bộ 6 tháng đầu năm 1966 đạt loại 4 tốt: 13, khá: 32, trung bình: 32, kém: 9. Riêng các đảng bộ khối nông thôn loại 4 tốt có 4 xã, khá 16 xã, trung bình 14 xã, kém 3 xã (Hương Lâm, Hương Đại, Hương Thọ). Chi bộ khối cơ quan có 5 đơn vị tốt (Huyện ủy, Huyện đội, Công an, Thống nhất, Giao thông), 11 khá, 8 trung bình, 1 kém (Lương thực).
Ngày 27/6/1966, Đảng bộ Hà Tĩnh cử một đoàn cán bộ đi tham quan, học tập sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình, do đồng chí Nguyễn Xuân Linh, Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu. Ngày 6/7/1966, khi đoàn về Hà Nội, đã được Bác Hồ tiếp và nói chuyện thân mật. Trong bài nói chuyện tại Phủ Chủ tịch, Bác đã khen ngợi tỉnh Hà Tĩnh có nhiều thành tích trong bắn máy bay, phòng không Nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải, làm thuỷ lợi... Đồng thời, Người cũng đã phê bình, nhắc nhở Hà Tĩnh phải chú trọng công tác xây dựng Đảng, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, quan tâm đối với phụ nữ, thanh niên, trẻ em, đồng bào công giáo, khắc phục tệ nấu rượu, vi phạm Luật hôn nhân gia đình, phải chú ý áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh chăn nuôi, trồng cây gây rừng, giải quyết tốt vấn đề lương thực... Ngày 20/9/1966, Thường vụ Huyện ủy họp nghe các đồng chí Đặng Tỵ (Bí thư Huyện ủy), Phan Nhâm (Hương Bình), Nguyễn Giao (Hương Thanh) đại biểu Hương Khê tham gia Đoàn báo cáo về chuyến đi Thái Bình. Đảng bộ đã tổ chức học tập bài nói chuyện của Bác, nghiêm túc kiểm điểm những thiếu sót mà Bác đã nêu ra, phát động phong trào học tập để cùng với toàn tỉnh thực hiện lời dạy của Bác: “Hà Tĩnh phải làm cho tình hình nổi bật lên”[73].
Một nhiệm vụ nổi bật của Đảng bộ huyện Hương Khê trong những năm 1965 - 1966 là đã lãnh đạo tiếp nhận các hộ dân của Đức Thọ lên khai hoang, định cư lâu dài ở huyện thành công. Theo chủ trương của tỉnh, hơn 500 hộ dân của Đức Thọ thuộc các xã Đức Nhân, Đức Xá, Đức Tùng, Đức Thuận, Đức La,... đã được chuyển lên khai hoang ở một số xã của Hương Khê, như: Hương Quang, Hương Điền, Hương Giang và xen cư ở Hương Bình, Phúc Đồng, Hoà Hải,... Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, Nhân dân các địa phương đón tiếp chu đáo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho số đồng bào lên sinh cơ lập nghiệp ổn định, lâu dài tại huyện. Người dân Đức Thọ với phẩm chất thông minh, cần cù, trọng nghĩa, tính cách mạnh mẽ, thích ứng nhanh với cuộc sống mới đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội cho Hương Khê trong những giai đoạn tiếp theo.
Đồng thời với việc tiếp nhận dân cư ở Đức Thọ lên xây dựng vùng kinh tế mới, Huyện ủy cũng chỉ đạo chuyển hơn 100 hộ dân của các xã Hương Thanh, Hương Thái, Hương Tân, Hương Thuỷ... bị địch đánh phá ác liệt, khó khăn đến lập nghiệp ở các xã Hương Bình, Hoà Hải, Hương Giang… để đảm bảo an toàn và có điều kiện thuận lợi hơn trong sản xuất. Đây là sáng tạo của Hương Khê, vừa có ý nghĩa về kinh tế, quy hoạch lại dân cư, củng cố quan hệ sản xuất tập thể, vừa có tác dụng quan trọng trong xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể Nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng trên các địa bàn.
Chiến tranh càng ác liệt, sản xuất, đời sống của Nhân dân Hương Khê càng khó khăn. Để bảo đảm ổn định tình hình hậu phương, kết hợp huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân, tránh các tiêu cực trong ăn chia phân phối của các hợp tác xã, ngày 28/4/1967, Huyện ủy họp bàn về chế độ phân phối trong các hợp tác xã. Tiêu chuẩn được huyện ấn định là: loại lao động giỏi mức lương thực hàng ngày là 1,2 kg, loại trong độ tuổi lao động là 1,0 kg, loại 10 đến 15 tuổi là 0,8 kg, loại 5 đến 9 tuổi là 0,6 kg, loại dưới 4 tuổi là 0,4 kg. Quỹ dân quân của 11 xã biên giới là 3 tấn. Chủ trương của huyện đã đáp ứng yêu cầu thực tế của hoàn cảnh thời chiến, động viên quân, dân Hương Khê kiên trì đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu, công tác, học tập và làm nhiệm vụ hậu phương.
Tháng 3/1967, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ XIII tại xã Hương Bình với sự tham dự của 171 đại biểu. Đại hội chủ trương tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện cuộc chiến tranh Nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ra sức duy trì sản xuất, công tác, học tập trong mọi tình huống. Kiên quyết bảo đảm giao thông vận tải. Động viên sức người, sức của chi viện tiền tuyến. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể Nhân dân. Bảo đảm cuộc sống về mọi mặt cho Nhân dân. Giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ vững chắc địa bàn...
Ban Chấp hành Đảng bộ mới do Đại hội bầu ra có 25 ủy viên, do đồng chí Đặng Tỵ, Tỉnh ủy viên, giữ chức Bí thư Huyện ủy; đồng chí Trần Khoa, Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng; đồng chí Lê Hữu Kính làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện; đồng chí Phan Văn Đệ, Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban. Thường vụ còn có các đồng chí Võ Lan, Nguyễn Văn Miên, Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện.
Mặc dù diện tích có bị thu hẹp do một số ruộng đất vùng trọng điểm sản xuất khó khăn, nhiều ruộng đồng bị bom Mỹ đánh phá, các công trình thủy lợi bị hư hại, song nhìn chung phong trào sản xuất nông nghiệp của Hương Khê vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đảng bộ đã chỉ đạo nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất trong nông dân tập thể. Các hợp tác xã đều có phong trào cải tạo đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa. Những cánh đồng có nhiều đồi gò, cây cối được san sửa, quy hoạch lại với đường đi, lối lại thẳng tắp. Cấy lúa thẳng hàng “chăng dây” được xã viên thực hiện phổ biến. Các giống lúa mới như: Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8, Chân châu lùn,... được đưa vào đại trà cho năng suất, sản lượng cao hơn giống lúa cũ. Thanh niên đi đầu trong việc làm ruộng cao sản, ruộng dân quân, giống mới. Các đội chuyên hình thành. Thế độc canh được phá bỏ để thực hiện nhiều loại cây trồng vật nuôi, chú trọng cả lúa và hoa màu. Việc làm bèo hoa dâu, phân xanh, phân bùn, cải tạo đất được đẩy mạnh. Một số nơi còn đưa máy cày vào cày bừa mở rộng diện tích, bảo đảm mùa vụ.
Thực hiện chủ trương cải tiến quản lý hợp tác xã, Đảng bộ đã có các lớp tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã và đội sản xuất. Những lúc cần thiết, học sinh cấp III được huy động phục vụ sản xuất lúc mùa vụ và sau khi tốt nghiệp đã về sản xuất tại hợp tác xã.
Nghề làm vôi được chú trọng, có Xí nghiệp vôi đá Chủ Lực. Thời kỳ 1965-1967, toàn huyện có 40 lò vôi, mỗi năm sản xuất được trên 1.000 tấn phục vụ nông nghiệp và xây dựng.
Đến 01/9/1968, ở 37 xã có 79 hợp tác xã với 13.732 hộ xã viên, trong đó công giáo có 2.543 hộ. Nhân khẩu toàn huyện có 63.986 người, trong đó loại mất sức lao động là 1.069[74] người.
Toàn huyện vẫn còn 567 hộ chưa vào hợp tác xã[75] (Hương Trạch: 11, Hương Lĩnh: 3, Hương Đô: 29, Hương Liên: 7, Hương Mai: 9, Phú Phong: 11, Hương Thịnh: 37, Hương Giang: 9, Hương Phúc: 2, Hương Lạc: 12, Hương Lâm: 43, Hương Lộc: 11, Hương Xuân: 32, Hương Phố: 19, Hương Thuỷ: 9, Hương Tân; 8, Hương Long: 28, Hương Vĩnh: 19, Hương Hoà: 7, Hương Đồng: 8, Hương Thanh: 30, Hương Mỹ: 31, Hương Trung: 7, Hương Quang: 3, Hương Điền: 0, Hương Phú: 23, Hương Bình: 40, Hương Hải: 27, Hương Châu: 0, Hương Thu: 33, Hương Nam: 1, Hương Minh: 2, Hương Đại: 1). Riêng Phúc Đồng, số đảng viên bị khai trừ do không vào hợp tác xã là 31 người.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do địch đánh phá ác liệt nên diện tích gieo trồng của Hương Khê thời kỳ 1965 - 1968 không tăng mà có phần giảm sút.
Việc bảo đảm hàng để dân tiêu dùng được, huyện chỉ đạo ngành thương nghiệp, vật tư cố gắng đến mức cao nhất. Các hợp tác xã mua bán huyện, xã được thành lập và củng cố. Hàng hóa tuy khan hiếm, song những thứ Nhân dân cần vẫn được bảo đảm như: các định lượng về vải, muối, giấy viết, cho đến thuốc lào, nước mắm,... Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp được xây dựng như: các lò rèn, lò gạch, lò vôi, các trạm cơ khí huyện và của ngành hỏa xa. Các mặt hàng của huyện khai thác như: mây, tre nứa, gỗ, lá nón, củ nâu,... được bán cho các địa phương khác.
Hương Khê càng ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với cuộc kháng chiến của dân tộc, trở thành một vùng căn cứ địa, hậu phương đầu cầu của tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn. Bộ Tư lệnh tiền phương Đường 559, đường Trường Sơn đóng chỉ huy sở tại vùng Tây Nam của huyện. Sự hoạt động ngày càng náo nhiệt, liên tục của tuyến đường chiến lược qua Hương Khê đã khiến kẻ địch phải ra sức ngăn chặn, nhất là trong thời gian “ném bom hạn chế”, từ tháng 4 đến tháng 11/1968. Vì vậy, cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải ở Hương Khê cũng diễn ra ngày một gay go, quyết liệt, suốt ngày đêm. Cấp trên đã tăng cường hàng ngàn dân công, Thanh niên xung phong, công nhân cầu đường cho Hương Khê. Đội cầu Trần Quốc Bình đã bám tuyến đường sắt, bắc đi, bắc lại các cầu Cửa Rào, Thanh Luyện, Lộc Yên... Bộ đội công binh sửa chữa các cầu đường bộ, duy trì hoạt động của phà Địa Lợi. Hàng ngàn Thanh niên xung phong các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hoá, Hà Nội, Nam Hà... ngày đêm làm đường, bốc dỡ hàng hoá lên xuống ở các bến sông, bến goòng.
Sông Ngàn Sâu trở thành tuyến vận tải quan trọng đưa bộ đội, hàng hoá từ Đức Thọ lên Hương Khê để chuyển tiếp vào chiến trường. Ngã ba sông chợ Trúc là điểm đón hàng chủ yếu để đưa lên goòng chuyển vào Quảng Bình. Đường Truông Đao, Truông Vắt là tuyến bộ đội hành quân từ Đức Thọ, Can Lộc lên Hương Khê an toàn và ngắn nhất để vào tiền tuyến.
Thời điểm Ngã ba Đồng Lộc bị bom Mỹ ngày đêm đánh phá liên tục hòng cắt đứt con đường tiếp viện vào chiến trường miền Nam bằng đường bộ của ta, Hà Tĩnh thành lập nhiều đại đội xe thồ ở các huyện để vận chuyển hàng hóa từ phía bắc Cầu Bùng (huyện Diễn Châu - Nghệ An) theo các trục đường giao liên vượt qua Đồng Lộc đưa hàng ra tiền tuyến. Huyện Hương Khê đã thành lập một đại đội xe thồ gồm 3 trung đội với 150 người, do một đồng chí ủy viên Ủy ban nhân dân huyện làm trưởng ban, trực tiếp đưa người ra tận Ga Si (tại Ngã ba Cầu Bùng - Diễn Châu) nhận xe và hàng chuyển về huyện giao cho quân đội để chuyển ra chiến trường. Ngoài ra, huyện đã thành lập đại đội chủ lực giao thông trên 400 người, trong đó có một trung đội phụ trách phà Địa Lợi (phối hợp với công binh của Đoàn 559) và một đội cầu, nhiệm vụ chủ yếu là tu sửa và bắc lại các cầu bị đánh hỏng. Nhiệm vụ của đại đội chủ lực giao thông Hương Khê là đảm bảo tuyến đường 15A từ km21 (cầu Khe Thờ nay) vào đến tận cầu Tân Đức (giáp Quảng Bình). Trọng điểm của đại đội là đảm bảo giao thông ở các điểm địch đánh phá ác liệt nhất như: phà Địa Lợi, ngầm Lộc Yên, ngầm Khe Ác, cầu Bãi Cháy, ngầm La Khê. Khi có khối lượng lớn cần phải lấp hố bom mà đại đội chủ lực không làm kịp thì huy động lực lượng dân quân tự vệ cùng làm.
Bộ đội phòng không của tỉnh, của Quân khu, của Bộ đã cùng dân quân, tự vệ địa phương liên tục đánh máy bay địch để bảo vệ các trọng điểm giao thông qua Hương Khê. Nhiều trận chiến đấu quyết liệt, bắn cháy máy bay địch đã diễn ra cả ban ngày và ban đêm ở vùng bến phà Địa Lợi, doanh trại quân đội ở Hương Thu, Hương Hà, ở cầu Thanh Luyện, cầu Ba mươi thước, Chu Lễ, Lộc Yên, Phúc Trạch, Phú Lễ, Nông trường 20-4... Khẩu hiệu “xẻ núi mở đường”, “xe chưa qua nhà không tiếc”, “địch phá một thì ta làm mười”...thực sự là hành động trực tiếp, thường xuyên của quân dân Hương Khê.
Các tết Quang Trung 1966, 1967, 1968 (tên gọi các chiến dịch làm giao thông vận tải khi địch tạm ngừng ném bom) đều được Nhân dân Hương Khê tích cực tham gia, đóng góp hàng vạn ngày công. Với những cố gắng đó, nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trong thời kỳ đánh phá lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968) luôn luôn được quân dân Hương Khê hoàn thành xuất sắc.
Thiệt hại về người và của do đế quốc Mỹ gây ra cho Hương Khê thời kỳ 1965 - 1968 rất lớn và nặng nề. Riêng về sinh mạng Nhân dân có 477 người bị chết vì bom đạn của Mỹ, trong đó năm 1966 là 142 người, 1967 là 52 người, năm 1968 là 283 người, gồm 257 nam, 220 nữ; số bị thương là 653 người, trong đó năm 1965 - 1966 là 142 người, năm 1967 là 96 người, năm 1968 là 415 người. Tính từ tháng 4 đến tháng 11/1968, địch đã ném bom hạn chế làm 368 người bị thương trong tổng số 415 người bị thương cả năm 1968. Thiệt hại 331 con trâu, 295 con bò; phá hỏng 254,9 ha lúa, bằng 1.581 tấn; 73,6 ha màu, bằng 2.142 tấn; 8,9 ha lạc, bằng 24,4 tấn, 86 ha sắn, bằng 2.609,8 tấn, 146 ha ngô, bằng 734 tấn; phá 30 cái nhà kho, 1.093 cái nhà ở...
Nhìn chung, đến cuối năm 1968, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện giành được những thắng lợi lớn. Thành công trước hết là Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo đưa mọi hoạt động của huyện đi vào thế trận của chiến tranh Nhân dân, vững vàng đối phó với mọi tình huống, hoàn thành mọi nhiệm vụ của một huyện tuyến đầu của tỉnh, tuyến đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc. Đảng bộ đã lãnh đạo chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến, tăng cường tiềm lực quốc phòng, thực hiện vừa sản xuất, vừa chiến đấu và làm nhiệm vụ hậu phương.
Trong lãnh đạo kinh tế, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đưa hợp tác xã nông nghiệp lên bậc cao, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chú ý thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, ra sức khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện cách mạng kỹ thuật, lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính để phát triển nông nghiệp.
Qua 4 năm chiến tranh, hợp tác xã tiếp tục khẳng định vai trò của mình, đứng vững và phát triển, thật sự là hình mẫu cho mô hình kinh tế thời chiến, bảo đảm các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, điều mà kinh tế cá thể không thể thực hiện được. Các hợp tác xã đã thực hiện tốt nhất khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu 1 người”, lớp lớp thanh niên nông thôn đã vào quân đội, Thanh niên xung phong, hàng ngàn lao động xã viên phục vụ nhiệm vụ quốc phòng tại chỗ, trung tuyến, hoả tuyến.
Tỷ lệ hộ nông dân đã vào hợp tác xã đạt 96,1% (năm 1965), lên 97,2% (năm 1968). Toàn huyện có 100% hợp tác xã bậc cao. Số hợp tác xã năm 1965 là 95, năm 1968 là 76, trong đó có 11 hợp tác xã toàn thôn. Về quy mô số hộ dân, năm 1965 bình quân có 130 hộ, năm 1968 tăng lên 171 hộ. Diện tích bình quân mỗi hợp tác xã năm 1965 là 91 ha, năm 1968 là 107 ha. Hệ thống kho tàng, sân bãi, lò ủ từng bước được củng cố, nâng cấp và xây dựng mới. Đã có một số hợp tác xã có sân phơi bằng xi măng như: Bình Minh, Hương Mai, Phú Xuân, có hố xí hai ngăn bằng xi măng như: Hương Lạc, Bình Minh, Hương Mai, Thượng Hải, Hương Phố.
Nét nổi bật thời kỳ này là thâm canh lúa và cây màu đạt kết quả lớn. Đây là thời kỳ đưa giống lúa mới vào sản xuất đại trà ở Hương Khê. Với quy trình kỹ thuật phức tạp, huyện phân công cán bộ về từng hợp tác xã bám sát ngày đêm xây lò thúc mầm theo phương pháp 2 sôi 3 lạnh. Do đó, diện tích gieo trồng giống mới được mở rộng và cho năng suất cao. Công nghệ trồng khoai theo cách làm của Cẩm Xuyên để nâng cao năng suất, sản lượng được thực hiện. Phong trào trồng sắn đồi, sắn bãi, nhà nhà trồng sắn, người người trồng sắn, đâu đâu cũng thấy màu xanh bạt ngàn của sắn. Đây cũng là thời kỳ thực sự sôi nổi của việc làm bèo dâu phủ kín ruộng lúa, đã xuất hiện nhiều kiện tướng trong các phong trào tiến quân vào thâm canh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Lần đầu tiên trên đất Hương Khê các loại rau màu, thực phẩm, rau xanh cao cấp như: bắp cải, su hào đã có chỗ đứng chân cùng các tổ đội trồng rau ở nhiều nơi phục vụ đời sống xã viên và nhiệm vụ quốc phòng cho quân đội. Năng suất lúa cũng có tăng ở nhiều hợp tác xã, nhất là những nơi đưa giống mới vào. Các loại cây công nghiệp mía, lạc, vừng giữ vững kế hoạch và có tăng vừa phải, dâu tằm các năm 1966 - 1967 vẫn duy trì 15 ha dâu bãi ven sông.
Về chăn nuôi, mặc dù bị địch đánh phá ác liệt cũng như thói quen chăn thả, thiếu chăm sóc, song các trại nuôi trâu, bò tập thể vẫn tiếp tục phát triển, phục vụ yêu cầu nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước, cho quốc phòng. Năm 1965, huyện có 13 trại, 610 con; năm 1968 có 18 trại, 763 con. Một số trại quy mô như: Hương Lĩnh, Hương Điền, Hương Luyện phát triển khá. Tổng đàn lợn phát triển đáp ứng yêu cầu làm nghĩa vụ thực phẩm hàng năm. Năm 1965, chăn nuôi lợn ở gia đình có 11.456 con, trong đó nái là 846 con. Năm 1968, có 12.823 con, trong đó nái là 2.108 con. Chăn nuôi lợn tập thể vẫn duy trì và phát triển mạnh. Năm 1965, có 8 trại, 120 con. Năm 1968, có 16 trại, 320 con.
Công tác phát triển ngành nghề gắn với phân công lại lao động trong hợp tác xã được chú trọng. Theo phương hướng Nghị quyết Đại hội năm 1965 - 1967, Đảng bộ đã tổ chức nhiều ngành nghề nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất, nông sản hàng hoá phục vụ công nghiệp, nâng cao đời sống cho Nhân dân. Có 41 hợp tác xã tổ chức thành công việc ươm cây giống, trong mấy năm chiến tranh đã trồng mới 2.159.000 cây lưu niên, nhiều hợp tác xã có thu nhập khá về ươm trồng cây như: Bình Minh, Hương Mai, Hương Lĩnh, Hương Châu. Có 12 hợp tác xã đã tổ chức 12 đội Sơn Tràng thu hút 222 lao động. Khai thác trong 4 năm được 28.980 m3 gỗ, 1.140 tấn than củi, cùng hàng triệu cây nứa, mây, giang, cùng các lâm sản khác phục vụ yêu cầu quốc phòng và xây dựng trên địa bàn tỉnh. Có 15 hợp tác xã tổ chức được 44 lò vôi, sản xuất được 3.329 tấn vôi để cải tạo đất và xây dựng cơ bản. Thành lập 14 tổ rèn, 12 tổ mộc, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa công cụ sản xuất trên cả hai ngành. Các nghề phụ khác như: làm nón, đan lát, thu gom lâm sản đã huy động được hàng ngàn lao động nông nhàn.
Với phương châm lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính, kết hợp đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật, công tác xây dựng cơ sở vật chất trong hợp tác xã được Đảng bộ chú trọng. Trong hoàn cảnh khó khăn đủ cả thiên tai, địch hoạ, suốt 4 năm Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân tích cực xây dựng, sửa chữa, khai thác sử dụng 265 hồ, đập lớn, nhỏ trên địa bàn huyện. Đào đắp 208 con mương dẫn nước dài 89.929m. Đắp 197 đường bờ vùng, nhiều đường bờ ô, bờ thửa, san ủi 1.021 ha. Đồng tiêu chuẩn cấp 2 có 575 ha, đồng tiêu chuẩn cấp 3 có 346 ha. Đã đầu tư lao động sống với 2.950.100 ngày công, đào đắp 2.359.786 m3 đất đá, gấp 2 lần so với trước chiến tranh cộng lại.
Hiệu quả của công tác thuỷ lợi rất to lớn. Đến năm 1968, huyện đã đảm bảo tưới nước cho 3.230 ha lúa vụ chiêm, 3.140 ha lúa vụ mùa. Nhiều hợp tác xã đã chủ động được nước tưới hai vụ như: Hương Vĩnh, Hương Minh, Thống Nhất, Hương Hoà, Hương Luyện, Hương Hải, Hương Bình, Hương Thuỷ, Hương Phố, Hương Mai, Hương Lĩnh, Hương Lạc. Toàn huyện đã được đầu tư 34 máy bơm dầu, 23 máy công tác, 6 máy tuốt lúa, 17 máy xay xát tạo thành nhiều điểm cơ khí trong hợp tác xã gắn với các xưởng rèn, mộc, tạo nên những nét biến đổi lớn trong nông nghiệp và nông thôn. Trong 10 năm (1958 - 1968) về thuỷ lợi, Hương Khê đã đào đắp 4.619.572 m3đất đá, chưa kể các công trình trung thuỷ nông Nhà nước làm bằng cơ giới.
Mặc dù nhiều nơi bị địch đánh đi đánh lại, song với khẩu hiệu “địch đánh ta sửa ta đi”, sau đó là khẩu hiệu “địch đánh ta cứ đi”, phong trào làm giao thông phát triển mạnh. Hương Khê đã làm được 222 km đường liên huyện, liên xã, 276 km đường liên xã - hợp tác xã, 248 km đường vùng, đường khoảnh, về phương tiện vận chuyển, giải phóng sức lao động trong những năm 1965 - 1968 đã phát triển 2.929 xe các loại, nhiều xã và hợp tác xã cơ bản giải phóng đôi vai trong nông nghiệp, thay bằng công cụ cải tiến. Đây là một bước tiến đáng kể trong lộ trình cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, giải phóng sức lao động. Nhờ các yếu tố đó nên huyện có điều kiện rút một số lượng lao động lớn ngành nông nghiệp đi bộ đội, dân công và cho nhiệm vụ xây dựng các công nông trường, xí nghiệp của Nhà nước.
Với hàng triệu ngày công, hàng triệu mét khối đất, đá đào đắp, hàng trăm hồ, đập lớn, nhỏ, hàng trăm kilômét đường mới các loại, hàng chục đội ngành nghề đốt vôi, sơn tràng, trồng cây cùng với hàng ngàn thanh niên lên đường đánh giặc, hàng ngàn dân công trung hoả tuyến đã nói lên sức vóc to lớn của hợp tác xã nông nghiệp trên quê hương ta dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ. Có thể nói, không có hợp tác xã nông nghiệp, người nông dân không thể làm được những gì như đã làm ở thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có bước tiến mới. Huyện đã đào tạo được 991 cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp, từ đội trưởng trở lên, trong đó có 97 cán bộ được đào tạo ở tỉnh trong thời gian 2 - 3 tháng.