Triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong những năm gần đây các nhà trường phổ thông đã tổ chức nhiều hoạt động đổi mới. Trong đó, trọng tâm là đổi mới về dạy học và các hoạt động giáo dục. Đổi mới căn bản từ dạy học trang bị kiến thức sang dạy học phát triển năng lực để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập. Song song với việc dạy là quá trình kiểm tra đánh giá cũng thay đổi từ lối kiểm tra nặng về nhớ, thuộc sang lối kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của dạy học và giáo dục. Vì thế, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là hết sức cần thiết, trong đó có bộ môn Ngữ văn THCS.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong những năm gần đây các nhà trường phổ thông đã tổ chức nhiều hoạt động đổi mới. Trong đó, trọng tâm là đổi mới về dạy học và các hoạt động giáo dục. Đổi mới căn bản từ dạy học trang bị kiến thức sang dạy học phát triển năng lực để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập. Song song với việc dạy là quá trình kiểm tra đánh giá cũng thay đổi từ lối kiểm tra nặng về nhớ, thuộc sang lối kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của dạy học và giáo dục. Vì thế, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là hết sức cần thiết, trong đó có bộ môn Ngữ văn THCS.
Những năm gần đây, chúng ta đã thực hiện thành công bước đầu việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như các đồng nghiệp trên địa bàn, tôi nhận thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động tiếp cận và phát triển các năng lực của học sinh còn nhiều chuyện tiếp tục phải suy nghĩ, trăn trở…Vì thế để có giờ dạy Ngữ văn tốt theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, người GV phải vất vả hơn nhiều trong việc thiết kế và tổ chức giờ dạy. Mỗi GV chúng ta không ai muốn mình chỉ có một giờ dạy tốt, mà ai cũng muốn rằng tất cả các giờ lên lớp của mình đều thành công và đó là một sự cố gắng rất lớn. Chính GV phải thực sự chủ động, sáng tạo thì mới có thể khơi dậy được sự hoạt động tích cực, sáng tạo của mọi HS trong lớp. Bởi vì mỗi bài học được lựa chọn đưa vào chương trình học đều thể hiện mục tiêu chung của bộ môn, thể hiện được ý đồ người biên soạn. Mỗi cá nhân HS lại là một chủ thể tiếp nhận cá biệt, nên sự áp đặt cách hiểu, cách cảm nhận của GV với HS là chưa đúng với bản chất dạy và học theo tinh thần phát triển năng lực và phẩm chất người học mà phải hướng đến sự phát triển toàn diện của HS. Hoạt động dạy-học Ngữ văn không chỉ là hoạt động lĩnh hội kiến thức mà còn rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế sinh động; phát triển 3 năng lực chung và 2 năng lực đặc thù của bộ môn. Những năng lực này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới theo 5 bước: Khởi động, Hình thành kiến thức, Luyện tập, Vận dụng, Tìm tòi mở rộng. Trong đó hoạt động khởi động đóng vai trò quan trọng trong giờ học. Nó là hoạt động khởi đầu nên có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học. Nếu tổ chức tốt hoạt động này sẽ tạo ra một tâm lý hưng phấn, tự nhiên để lôi kéo học sinh vào giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những bất ngờ thú vị cho học sinh. Vì thế người học sẽ không còn cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, nặng nề, lo lắng như khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Các em sẽ được thoải mái tham gia vào hoạt động học tập mà không hề hay biết. Nó như phần nhạc dạo của một ca khúc góp phần định hướng thái độ hát như: nhiệt tình sôi nổi hay sâu lắng thiết tha vì thế giờ học cũng bớt sự căng thẳng khô khan. …Nhưng thực tế dạy học lại cho thấy rất nhiều giáo viên khó kiếm tìm được một cách khởi động để cho tiết học sinh động, hấp dẫn hoặc có tổ chức nhưng hiệu quả không cao do hình thức tổ chức nhàm chán, rời rạc, năng về kiến thức... Bởi thế tôi đã rất trăn trở để tìm ra những hình thức tổ chức hoạt động này có hiệu quả nhất, thiết thực, gần gũi nhất với nội dung bài học và mạnh dạn nêu lên: “Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động cho giờ dạy môn Ngữ văn lớp 6”
II. YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Trong thời gian và phạm vi giới hạn, tôi mong muốn đề tài thể hiện rõ một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong giờ dạy Ngữ văn lớp 6 có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 6 trong nhà trường THCS. Cũng qua đề tài này, tôi muốn cụ thể hoá một số hình thức tổ chức khởi động cho từng bài học cụ thể
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết có kết quả yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp lý luận như: thống kê, phân loại, phân tích, so sánh và tổng hợp...; cùng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: quan sát, điều tra... kết hợp với việc trải nghiệm thực tế giảng dạy.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong môn Ngữ văn
- Địa bàn nghiên cứu: Tại một Trường THCS thuộc huyện miền núi.
V. GIẢ THIẾT KHOA HỌC
Hoạt động Khởi động trong giờ dạy có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động trên lớp giúp HS định hướng nội dung bài học, bước đầu giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học nhưng nếu dạy theo phương pháp truyền thống thì HS sẽ tiếp cận kiến thức một cách máy móc, khô khan, thụ động. Vì thế nếu tổ chức tốt hoạt động Khởi động một cách đa dạng, linh hoạt thì sẽ tạo hứng thú học tập, giúp các em chủ động khám phá cái đẹp của ngôn từ, cảm xúc và giá trị tư tưởng của mỗi bài học, phát triển tốt các năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn.
VI. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Tổ chức tốt hoạt động Khởi động theo 5 hoạt động chính của mỗi bài học sẽ giúp GV-HS giải quyết được một số vấn đề.
- GV: + Tránh được lối mòn trong tư duy truyền giảng một chiều; giúp HS định hướng tốt hơn trong việc tiếp cận bài học.
+ Luôn có ý thức tự làm mới mình, làm chủ nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học giúp HS chủ động, tích cực, sáng tạo trong tiếp cận nội dung bài học
- HS: Chủ động, hào hứng tiếp nhận, tạo hứng thú học tập từ đó có ý thức giải quyết vấn đề bằng nhiều hình thức khác nhau.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lí luận
Trong Báo cáo chính trị Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định : “Đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, ý thức trách nhiệm xã hội” Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8( Khóa XI) cũng đã nêu yêu cầu “ Đổi mới căn bản , toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong đó việc đổi mới giáo dục phổ thông được xem là khâu đột phá. Nội dung trọng tâm của việc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục phổ thông là sự phát triển năng lực người học, từ đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước”. Thứ trưởng Bộ giáo dục đào tạo Nguyễn Vinh Hiển từng khẳng định “Dạy học phát triển năng lực là đổi mới căn bản cốt lõi nhất của đổi mới giáo dục hiện nay”. Hay Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Dung (Học viện quản lý giáo dục) cho rằng: “Đổi mới giáo dục là chúng ta không quá chú trọng vào mục tiêu kiến thức, phải đặc biệt chú trong mục tiêu hình thành năng lực cho người học”; PGS, TS Hà Thế Truyền cũng khẳng định việc xác định năng lực người học là khâu tiên quyết là chìa khóa đổi mới giáo dục hiện nay.
Vì thế mục tiêu, yêu cầu của phương pháp giáo dục phổ thông là phải phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đây là định hướng cơ bản, thiết thực đối với mỗi giáo viên, cũng là yếu tố quyết định hiệu quả của một giờ dạy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học cơ sở.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ tình cảm, động cơ cá nhân…nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Đây được xem là cơ sở pháp lí để thực hiện đổi mới trong giáo dục nói chung và việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng.
2. Cơ sở thực tiễn
Khởi động là hoạt động đầu tiên, hoạt động này nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới. Hoạt động khởi động sẽ kích thích tính tò mò, sự hứng thú, tâm thế của học sinh ngay từ đầu tiết học. Hoạt động khởi động thường được tổ chức thông qua hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm sẽ kích thích sự sáng tạo, giúp học sinh hình thành năng lực hợp tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thưc hiện nhiệm vụ. Chuẩn bị phần khởi động như thế nào cho hiệu quả phải dựa vào nội dung bài, đối tượng học sinh và cả điều kiện của giáo viên.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy học văn đã rất chú ý đến khâu tạo tâm thế học văn cho học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mỹ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Nhưng việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt là kiến thức văn chương, lại không thể mang tính ép buộc. Nó chỉ thực sự hiệu quả khi bắt nguồn từ sự tự nguyện hay có cảm giác thích thú. Thiết nghĩ, trong cuộc sống hay trong dạy – học, bước khởi đầu luôn là bước tạo nền tảng, tâm thế. Nền tảng vững, tâm thế tốt thì các hoạt động phía sau mới hiệu quả. Và ngược lại, nếu khởi đầu không tốt thì các hoạt động khác cũng vô cùng khó khăn.
Hoạt động khởi động dù chỉ là một khâu nhỏ, không nằm trong trọng tâm kiến thức cần đạt nhưng nó có tác dụng tạo tâm thế thoải mái, nhẹ nhàng, hưng phấn cho học sinh vào đầu giờ học. Điều đó có nghĩa là nó sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ bài dạy. Vậy nên nếu vì nó chỉ là khâu nhỏ mà bỏ qua thì là một sai lầm lớn. Hơn nữa xét từ góc độ tâm lý lứa tuổi và khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh ở giai đoạn lứa tuổi này có thể thấy rằng nhu cầu tìm hiểu, phát triển tư duy kiến thức, kỹ năng, cảm xúc thẩm mỹ là rất lớn. Nhưng các em có tư tưởng muốn tự khám phá, thích độc lập trong suy nghĩ, có chủ kiến của riêng chứ không thích bị áp đặt. Các em không thích một giờ học gò bó, căng thẳng. Cho nên cách tổ chức hoạt động theo phương châm: học mà chơi, chơi và học là một cách hay để lôi kéo, tạo tâm thế thoải mái cho học sinh
II. THỰC TẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG
1. Về phía giáo viên:
Rất nhiều giáo viên trong quá trình dạy học thường không tổ chức hoạt động khởi động vì nhiều lí do: lo lắng vì thời gian không đủ cho kiến thức bài dạy; không biết tổ chức như thế nào; sợ hoạt động gây ồn ảnh hưởng lớp học khác...Vì vậy, trong quá trình dạy, dù rất cố gắng, nhiều giáo viên cũng không thể lôi kéo sự tập trung của học sinh, hiệu quả giờ học bị giảm sút.
2. Về phía học sinh
Trong một lớp học khả năng tiếp thu của mỗi em học sinh là khác nhau cho nên hứng thú của mỗi em trong mỗi giờ học cũng sẽ khác. Có học sinh hào hứng đón nhận giờ Ngữ văn. Các em tìm thấy ở đây những cảm xúc thẩm mỹ, những bài học cuộc sống giúp các em trưởng thành, hoặc các em cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái hơn so với những tiết học tự nhiên khác. Bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều học sinh có thói quen thụ động trong học tập. Các em không thích học, không đọc tác phẩm, không quan tâm nhiều đến hành trình tự khám phá mà cơ bản là ghi chép và dựa vào các tài liệu có sẵn để làm bài kiểm tra. Nhiều học sinh còn có biểu hiện uể oải, mệt mỏi trong giờ học. Thói quen lười vận động, lười tư duy, học tập hời hợt, không hứng thú đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập.
Nguyên nhân của vấn đề này không chỉ bởi chủ quan các em mà phần lớn do GV chưa chú tâm trong việc tổ chức hoạt động khởi động tạo tâm thế, đặt ra những tình huống có vấn đề để đưa HS vào thế chủ động tiếp nhận bài học, hứng thú tham gia các hoạt động, có ý thức tìm tòi giải quyết các vấn đề đặt ra trong giờ học.
Khi tiến hành khảo sát sự say mê, hứng thú của HS trong giờ Ngữ văn ở các lớp 6 đã cho ra kết quả sau:
Lớp |
Số học sinh |
Say mê, hứng thú học tập trong giờ Ngữ văn |
Chưa say mê, hứng thú học tập trong giờ Ngữ văn |
||
|
|
||||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
||
6A8 |
42 |
15 |
35,7 |
27 |
64,3 |
6A9 |
42 |
17 |
40,5 |
25 |
59,5 |
6A10 |
42 |
24 |
57,1 |
18 |
42,9 |
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG 1. Xác định mục tiêu khởi động
Việc thay đổi hình thức khởi động từ việc chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài thay bằng việc tổ chức khởi động thành một hoạt động để học sinh được tham gia trực tiếp gải quyết vấn đề khởi động; Hoạt động khởi động phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi động cần kiểm kê lại kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS vào phần hình thành kiến thức mới.
2. Kỹ thuật cơ bản xây dựng hoạt động khởi động
Với phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu dẫn nhập nên không mất nhiều thời gian. Với phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, khởi động cần tổ chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều hơn. Vì vậy khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động, giáo viên cần lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội dung mang tính chất minh họa mà cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để khởi động, sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp GV biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết (điều này có thể sẽ khác nhau ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với đối tượng học sinh ở các lớp).
Hoạt động khởi động là bước “ thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. Khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ động và tích cực của các em.
Khi áp dụng tổ chức hoạt động Khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp thì người GV nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình huống cố định dùng chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự như nhau.
3. Một số hình thức tổ chức hoạt động Khởi động cụ thể
3.1. Hoạt động Khởi động để tạo tâm thế cho HS trước mỗi giờ học
Trong tiến trình lên lớp của phương pháp dạy học truyền thống: trước khi bắt đầu một bài giảng, GV sẽ làm một việc quen thuộc là hỏi bài cũ để từ đó xâu nối kiến thức bài trước với bài sau hoặc để tạo không khí thân thiện, cởi mở đơn giản là việc hỏi thăm sức khỏe một cách dí dỏm, kể một câu chuyện hài hước ngắn gọn…chung quy là cần làm được một việc: cười!... Làm thế sẽ giảm phần nào những áp lực học tập, kéo HS tập trung vào bài học một cách linh hoạt.
Đến phương pháp dạy học phát triển năng lực, phẩm chất HS, mỗi giờ dạy của GV không còn nặng về trang bị kiến thức, kĩ năng cho HS mà hướng đến mục tiêu dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
Khởi động bằng tổ chức trò chơi:
Tổ chức hoạt động Khởi động bằng trò chơi có những thuận lợi: Phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn, gây hứng thú cho HS, giúp HS dễ tiếp thu kiến thức mới, giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Trò chơi còn là hoạt động được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy nó có khả năng lôi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trò chơi ngoài mục đích đó còn có thể ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. Theo Tiến sĩ Ngô Thị Thu Dung-Giám đốc điều hành Trung tâm nghiên cứu phát triển giáo dục cộng đồng (Trường ĐH GD-ĐHQG Hà Nội): "Trò chơi là một hình thức giao tiếp bạn bè, phát triển tốt các năng lực giao tiếp, trò chơi đồng thời là một phương tiện mà thông qua đó HS có thể giao tiếp với nhau một cách tự nhiên và dễ dàng hơn"”
Mục đích của việc tổ chức trò chơi là nhằm lôi cuốn HS tham gia vào các hoạt động giáo dục một cách tự nhiên và tăng cường tính trách nhiệm; hình thành cho HS tác phong nhanh nhẹn, phát huy tính snags tạo cũng như tăng cường sự thân thiện, hòa đồng giữa các HS, tạo hứng thú xua tan căng thẳng mệt mỏi trong quá trình học tập và giúp cho việc học tập trở nên nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, hàn lâm, nhàm chán…
Một số trò chơi quen thuộc có thể sử dụng trong hoạt động Khởi động
Trò chơi “Đuổi hình bắt tác phẩm”
Đây là trò chơi mang tính chất nhận diện. Nó phù hợp cho những tiết dạy học ôn tập hoặc những tiết dạy chủ đề. Trò chơi này có những ưu thế nhất định như:
Có khả năng lôi kéo số đông học sinh tham gia. Phát huy trí tưởng tượng của học sinh Rèn luyện khả năng phản ứng nhanh. Trong thời gian ngắn có thể giúp học sinh nhớ lại những tác phẩm đã học.Cách tổ chức:
Giáo viên chuẩn bị những bức hình khác nhau treo lên bảng. Mỗi hình có những điểm gợi ý. Học sinh nhìn vào hình để đoán tên tác phẩm. Ai đoán nhanh và đoán đúng sẽ có điểm.
Ví dụ: Để chuẩn bị cho chủ đề: "Truyện ngụ ngôn và những bài học" GV cung cấp những hình ảnh sau (lần lượt trình chiếu từng hình ảnh) và nêu câu hỏi: Đây là những hình ảnh thể hiện các văn bản nào? Các văn bản đó có ý nghĩa gì?
HS tham gia trả lời về thể loại Truyện ngụ ngôn, ý nghĩa truyện ngụ ngôn
Hình ảnh 1
Hình ảnh 2