NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
HÀ NỘI - 2022
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN (GIAI ĐOẠN 1930 - 2000)
Đồng chí NGUYỄN KIM KIỆM - Nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy
Đồng chí PHAN THỊ TẬP - Nguyên Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
Đồng chí PHAN VĂN TÍCH - Nguyên Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
BIÊN SOẠN (GIAI ĐOẠN 1930 - 2000)
PGS, TS. NGÔ ĐĂNG TRI - Nguyên Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử
Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội
Sưu tập tư liệu, ảnh và phối hợp biên soạn
Đồng chí NGUYỄN DUY TỪ - Nguyên Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy
BAN CHỈ ĐẠO CHỈNH LÝ, BỔ SUNG (GIAI ĐOẠN 1930 - 2020)
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY HƯƠNG KHÊ KHÓA XXX
NHIỆM KỲ 2020 - 2025
TRƯỞNG BAN
Đồng chí LÊ NGỌC HUẤN - Tỉnh ủy viên, Nguyên Bí thư Huyện ủy,
Nguyên Chủ tịch HĐND huyện
Đồng chí NGUYỄN THANH ĐIỆN - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy
PHÓ TRƯỞNG BAN
Đồng chí TỪ THỊ HÒA - Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy,
Chủ tịch HĐND huyện
Đồng chí NGÔ XUÂN NINH - PBT, Chủ tịch UBND huyện
THƯỜNG TRỰC BAN CHỈ ĐẠO
Đồng chí HOÀNG QUỐC NHÃ - UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy
Giám đốc Trung tâm Chính trị huyện
BAN CHỈNH LÝ, BỔ SUNG (GIAI ĐOẠN 2000 - 2020)
PGS, TS. NGÔ ĐĂNG TRI - Chủ biên
TS. NGUYỄN VĂN TUẤN
TS. TRỊNH THỊ DUNG
Th.S NGUYỄN THANH XUÂN
Th.S VƯƠNG THỊ SÂM
Th.S NGUYỄN THỊ MINH GIANG
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ
LỜI GIỚI THIỆU
Hương Khê là huyện miền núi biên giới của tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với huyện Nakai (tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Huyện có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh. Thiên nhiên, xã hội và con người Hương Khê có nhiều nét đặc sắc, tiêu biểu với nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng. Hương Khê cũng là nơi được cả nước biết đến bởi những đặc sản như: bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, gió trầm…
Lịch sử hình thành và phát triển của huyện Hương Khê gắn với nhiều sự kiện lịch sử lớn của dân tộc: là địa đầu biên ải phía Tây Nam của nước Đại Việt, nơi được vua Trần Giản Định và Trần Quý Khoáng lập căn cứ chống giặc Minh …; Năm 1867 huyện Hương Khê được thành lập, 17 năm sau đó, vua Hàm Nghi lập Sơn Phòng (tại xã Phú Gia) và tại địa điểm này xuống chiếu Cần Vương; Hương Khê cũng là nơi nghĩa quân Phan Đình Phùng, Cao Thắng chọn làm căn cứ tổ chức cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương chống Pháp - khởi nghĩa Hương Khê.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hương Khê là một trong những huyện đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh thành lập được tổ chức Đảng (tháng 4/1930), lãnh đạo Nhân dân đấu tranh mạnh mẽ trong Cao trào cách mạng 1930 - 1931, tiêu biểu là cuộc đấu tranh ở Rôộc Cồn ngày 20/4/1931. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng bộ Hương Khê lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng tháng Tám. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Hương Khê là huyện căn cứ địa hậu phương trọng yếu của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, là ATK quan trọng của Ủy ban kháng chiến hành chính Trung Bộ và Liên khu IV. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Hương Khê là tiền tuyến của hậu phương miền Bắc, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ vừa là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, chiến trường Lào, là địa bàn đóng quân của nhiều đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, nơi đặt Chỉ huy sở Tiền phương của Tổng Cục Hậu cần, của Bộ Tư lệnh 559 - Trường Sơn, nơi ra đời bức ảnh như là biểu tượng chiến thắng của dân tộc Việt Nam “O du kích nhỏ giương cao súng; thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”...
Từ năm 1975 đến nay, Hương Khê ra sức phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế về lao động, tài nguyên, giao thông, từng bước vươn lên, vượt qua khó khăn về kinh tế, xã hội, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, cùng cả nước tiến lên thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhằm ghi lại những sự kiện tiêu biểu trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ Hương Khê, năm 2002, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVI (nhiệm kỳ 2000 - 2005) đã chỉ đạo biên soạn cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê” (1930 - 2000). Cuốn sách có ý nghĩa quan trọng trong công tác chính trị, tư tưởng, không chỉ giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ các giá trị truyền thống tốt đẹp, khơi dậy niềm tự hào về Đảng và cách mạng mà còn rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, có tác dụng nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ, phục vụ sự nghiệp xây dựng huyện Hương Khê ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Kế hoạch số 205-KH/TU, ngày 06/11/2019 của Tỉnh ủy Hà Tĩnh về tiếp tục tăng cường nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục Lịch sử Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê khóa XXX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã ban hành Kế hoạch số 83-KH/HU, ngày 23/3/2022 về việc chỉnh lý, bổ sung sách Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000) và biên soạn tiếp giai đoạn 2000 - 2020, để xuất bản thành sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2020). Đây là việc cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000)”, kịp thời bổ sung quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những kết quả đạt được của Đảng bộ huyện Hương Khê giai đoạn 2000 - 2020.
Trong quá trình chỉnh lý, bổ sung, Ban Chỉ đạo đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các cơ quan chuyên môn tỉnh Hà Tĩnh, cùng các đơn vị, cá nhân trong và ngoài huyện. Ban Biên soạn đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các đồng chí lãnh đạo huyện qua các thời kỳ và kết quả các cuộc Hội thảo. Xin trân trọng cảm ơn các tập thể và cá nhân đã tích cực đóng góp ý kiến và giúp đỡ về nhiều mặt để cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê” (1930 - 2020) được hoàn thành.
Mặc dù Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, chỉnh lý, bổ sung, song do những khó khăn chủ quan và khách quan, cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý bạn đọc để nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách trong lần tái bản tiếp theo.
Nhân dịp kỷ niệm 155 năm thành lập huyện Hương Khê và 93 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2020)” cùng bạn đọc.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI HUYỆN HƯƠNG KHÊ
I. TỰ NHIÊN VÀ HÀNH CHÍNH
Huyện Hương Khê nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh, phía Bắc giáp các huyện Vũ Quang và Can Lộc, phía Nam giáp huyện Tuyên Hóa (tỉnh Quảng Bình), phía Đông giáp các huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên, phía Tây giáp huyện Nakai (tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào).
Hương Khê nằm trong thung lũng giữa núi Giăng Màn thuộc dãy Trường Sơn ở phía Tây và dãy Trà Sơn ở phía Đông; địa hình thấp dần theo hướng Nam Bắc. Do bị chia cắt bởi hệ thống sông suối, đồi núi và thung lũng nên địa hình Hương Khê đa dạng, chênh lệch về độ cao giữa các vùng rất lớn. Có thể phân địa hình huyện thành hai vùng chính: vùng đồi núi (chiếm 90% diện tích tự nhiên) và vùng bãi bồi ven sông (chiếm 10% diện tích tự nhiên) được kiến tạo bởi sự xâm thực[1], chủ yếu tập trung ở các khu dân cư xen kẽ đồng bằng, sông suối...
Thời xa xưa, vùng đất Hương Khê thuộc bộ Việt Thường. Thời thuộc nhà Ngô (đầu Công Nguyên) gọi là Nam Lăng. Đời Lý gọi là Đỗ Gia. Thời thuộc Minh gọi là Thổ Hoàng[2] (gồm cả Hương Sơn) rồi tổng Thổ Hoàng, thuộc huyện Hương Sơn. Thời Tây Sơn là phủ Ngọc Ma. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), phủ Ngọc Ma đổi thành phủ Trấn Định, sau đó lại đổi thành châu Quy Hợp rồi trấn Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn. Năm 1831, vùng Hương Khê là phủ Thổ Hoàng của huyện Hương Sơn.
Năm Tự Đức thứ 21 (1867), đã cắt 5 tổng của huyện Hương Sơn để thành lập huyện Hương Khê, bao gồm: Quy Hợp, Chu Lễ, Phương Điền, Phúc Lộc, Hương Khê. Tên huyện Hương Khê có từ đó. Đơn vị hành chính này tồn tại đến tháng 8 năm 2000 thì tách 5 xã (Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Vũ Quang) để thành lập huyện Vũ Quang[3].
Trước năm 2000, Hương Khê có tổng diện tích đất tự nhiên là 185.050 ha; trong đó, đất nông nghiệp 9.850 ha, đất lâm nghiệp 84.494 ha, đất chuyên dùng 5.041 ha, đất thổ cư 3.047 ha, còn lại là đất chưa sử dụng. Năm 2020, diện tích tự nhiên của Hương Khê là 126.294 ha, trong đó đất nông nghiệp 9.528,65 ha, đất lâm nghiệp 79.923 ha, đất chuyên dùng 549,24 ha, đất thổ cư 647,2 ha, đất chưa sử dụng 34.321,9 ha[4].
Đất đai Hương Khê thích hợp với nhiều loại cây ăn quả như: bưởi, cam, mít, nhãn, đặc biệt là bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây ngon nổi tiếng và cây gió trầm cho giá trị kinh tế cao. Rừng núi Hương Khê xưa có nhiều gỗ quý, có giá trị cao như lim, sến, táu, kền kền, dổi, vàng tâm, pơ mu... và nhiều loại động vật quý hiếm như sao la, hổ, voi, gấu, hươu, chim công, chim trĩ,... Đồi trọc ở Hương Khê có thể trồng các loại cây lưu niên, cây ăn quả, cây phục vụ công nghiệp và phát triển chăn nuôi.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm của Hương Khê dao động từ 230C - 25,20C. Hàng năm, gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau mang theo mưa phùn và giá rét. Gió phơn Tây Nam (thường gọi là gió Lào) thổi vào khoảng từ tháng 4 đến tháng 8 (có khi sớm hoặc muộn hơn) gây khô và nóng.
Hương Khê có lượng mưa khá lớn, bình quân từ 1.600 - 2.000 mm/năm. Hàng năm, các cơn bão từ biển Đông vào, đến Hương Khê gặp dãy Trường Sơn chắn ngang, sức gió giảm nhưng lượng mưa trong bão và hoàn lưu bão rất lớn. Do vậy, Hương Khê thường xuyên bị ảnh hưởng lớn của mưa lũ.
Trên địa bàn huyện có nhiều thác ghềnh, khe suối. Tiêu biểu có thác Vũ Môn trên dãy Giăng Màn. Núi Giăng Màn cao 1.400m và thác Vũ Môn cao gần 1.200m so với mực nước biển. Tương truyền, hàng năm đến ngày mồng Tám tháng Tư (âm lịch), cá Gáy (cá Chép) nhảy lên cao thi vượt thác Vũ Môn để hóa rồng: “Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt thác Vũ Môn”. Sách Đại Nam nhất thống chí và Đồng Khánh ngự lãm dư địa chí đã viết: Từ ngoài trăm dặm trông như một dải khói trắng.
Tại xã Phú Gia có Đầm Trăm Năm (Đầm Bách Niên), xưa là rừng nguyên sinh, tương đối bằng phẳng, có một vài đồi thấp, cây cối rậm rạp. Trong rừng có một giếng nước tự nhiên, nước trong suốt, sâu thăm thẳm, màu sắc thay đổi theo mùa. Có ý kiến cho rằng do bị ngập nước, nên khu rừng này còn được gọi là rừng Trầm Lâm. Gần giếng có đền thờ thần tục gọi là đền Trầm Lâm, người dân Hương Khê thường gọi là Miếu Trăm Năm. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Bốn mặt là núi đất, trong đó có cái ao chừng nửa mẫu, sắc nước như chàm, sâu không lường được, mưa lũ không đầy hơn, hạn hán không vơi cạn, trên đầm có đền thờ thần Bách Niên”[5]. Ngày nay, rừng Trầm Lâm cơ bản không còn nữa, nhưng hồ nước trong xanh cùng những huyền thoại xung quanh hồ vẫn được dân địa phương truyền tụng. Miếu Trăm Năm là nơi linh thiêng ở Hương Khê.
Con sông dài nhất ở Hương Khê là sông Ngàn Sâu. Sông bắt nguồn từ phía Nam dãy Giăng Màn, chảy qua các huyện: Hương Khê, Vũ Quang, Đức Thọ, nhập với sông Ngàn Phố từ Hương Sơn về tại ngã ba Tam Soa (Linh Cảm) thành sông La. Sông Ngàn Sâu đoạn qua Hương Khê dài hơn 100km, có các phụ lưu: sông Tiêm, Rào Nổ, Ngàn Trươi, Rào Rồng, Hói Lo, Hói Địa... Sông Tiêm (Rào Tiêm) bắt nguồn từ Ngàn Trụ (khe Vũ Môn, phía Tây xã Phú Gia và một phần Hương Vĩnh) chảy qua các xã vùng Thượng huyện, đến xã Lộc Yên thì hợp lưu với sông Ngàn Sâu. Sông Nổ (Rào Nổ) bắt nguồn từ phía Bắc xã Hòa Hải qua nhiều xã vùng Hạ huyện xuống xã Hà Linh hợp lưu với sông Ngàn Sâu [6].
Các sông, khe, suối ở Hương Khê có độ dốc khá cao. Sông Ngàn Sâu đoạn qua xã Phương Mỹ (nay là Điền Mỹ) quanh co qua chín khúc núi, gọi là chín khúc Hội Nai (có tài liệu ghi là Hồi Lai). Do sông bị kẹp giữa hai dãy núi, lại quanh co uốn lượn chín khúc nên khi có mưa, nước dâng lên nhanh làm ngập làng mạc, ruộng đồng, đồng thời cũng để lại một lượng phù sa lớn bồi đắp cho đồng ruộng và hình thành nhiều bãi phù sa ven sông rất tốt cho sản xuất nông nghiệp.
Lòng đất Hương Khê có nhiều khoáng sản quý như: mỏ than ở Động Đỏ (Hà Linh), mỏ cao lanh ở Hương Châu (Phúc Đồng), mỏ phốt phát ở Phú Lễ (Hương Trạch) và mỏ đá vôi kéo dài từ trung huyện đến thượng huyện, nhất là vùng La Khê, Hương Trạch có trữ lượng lớn.
Giao thông Hương Khê tương đối thuận tiện với cả đường sắt, đường bộ và đường sông, trong đó có các tuyến chính như:
Tuyến đường sắt, dài 41 km, các ga tính từ phía Bắc vào là: Thanh Luyện, Chu Lễ, Hương Phố và Phúc Trạch.
Đường Hồ Chí Minh, theo hướng Bắc - Nam qua các xã: Điền Mỹ, Phúc Đồng, Hương Bình, Hương Long, Thị trấn Hương Khê, Phú Phong, Hương Xuân, Hương Trà, Hương Đô, Phúc Trạch, Hương Trạch rồi vào huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Quốc lộ 15 từ ngã ba Đồng Lộc lên Khe Giao gặp Tỉnh lộ 3 lên cầu Địa Lợi đến Chu Lễ (thị trấn cũ) qua cầu Chợ Vạn đến Ninh Cường, đến Ngầm Lộc Yên lên Hương Đô, La Khê.
Tỉnh lộ 553 từ Thạch Lâm (huyện Thạch Hà) qua xã Lộc Yên gặp đường Hồ Chí Minh tại ngã tư xã Hương Trà và đi vào đồn biên phòng Bản Giàng, xã Hương Vĩnh.
Tuyến đường thủy với các sông: Ngàn Sâu, sông Tiêm, Ngàn Trươi, Rào Nổ thuận lợi cho phát triển kinh tế và đời sống của Nhân dân.
Với hệ thống giao thông đồng bộ, Hương Khê có điều kiện kết nối liên huyện, khu vực và quốc tế. Từ Hương Khê có thể thuận tiện đi đến các địa điểm như: huyện Vũ Quang với Vườn Quốc gia Vũ Quang, huyện Hương Sơn lên cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, huyện Can Lộc đến Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc, thành phố Hà Tĩnh, khu công nghiệp Vũng Áng, khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình), cửa khẩu quốc tế Cha Lo (tỉnh Quảng Bình) và thuận tiện sang Lào, Thái Lan.
Về hành chính, thời Pháp thuộc, Hương Khê có huyện lỵ Chu Lễ và nhiều tổng, mỗi tổng có nhiều làng xã. Đầu thế kỷ XX, Hương Khê có 5 tổng là: Phúc Lộc, Chu Lễ, Quy Hợp, Phương Điền, Hương Khê. Thời kỳ 1930 - 1945, Hương Khê có 3 tổng là Xuân Khánh (vùng thượng huyện), Hà Nam (vùng trung huyện), Trại La (vùng hạ huyện)[7], gồm 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng, một phó tổng. Mỗi xã có một lý trưởng, phó lý và ngũ hương. Đó là bộ máy chính quyền phong kiến ở hương thôn, đều do địa chủ hoặc những tay chân của đế quốc phong kiến có quyền thế nắm giữ.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền bỏ cấp tổng, nhập các làng xã nhỏ thành các xã lớn. Toàn huyện từ hơn 40 làng, lập thành 15 xã và một thị trấn (Chu Lễ). Dân số có 43.703 người, 20.385 cử tri. Các xã lúc bầu Quốc hội khoá I (6/01/1946) là: Song Hương (Hương Khê, Hương Thụ), Văn Thượng (Khê Thượng, Vân Cù, Đan Trai), Phương Mỹ (Mỹ Khê, Phương Điền, Phương Trạch), Vĩnh Hương (Trúc Lâm, Đông Ấp, Hà Linh, Vĩnh Hoà), Phúc Đồng (Văn Đồng, Phúc Hội), Tân Hương (Nam Trạch, Trung Hà, Tri Bản), Hàm Nghi (Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Gia), Hương Thuỷ (Hà Đông, Trung Định, Thượng Thạch), Gia Phố (Vạn Gia, Nhơn Phố, Ninh Cường), Tây Hồ (Lộc Yên, Khả Gia, Yên Lập), Phúc Trạch (Phúc Trạch, Đô Khê, Tân Thành, La Khê), Nam Hương (Chúc A, Vĩnh Cư), Phú Xuân (Phú Phong, Xuân Lũng), Cao Thắng (Hưng Thịnh, Cao Thắng, Loan Dạ), Thịnh Lạc và huyện lỵ Chu Lễ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Hương Khê sắp xếp lại phạm vi hành chính các làng xã. Năm 1948, Hương Khê có 11 xã là: Hương Lĩnh, Tây Hồ, Phú Xuân, Hiệp Phố, Hương Thuỷ, Hương Châu, Phúc Đồng, Tân Hương, Hương Giang, Cao Thắng, Hàm Nghi.
Thời kỳ 1954 - 1972, Hương Khê có 37 xã, chữ đầu tên các xã đặt theo chữ đầu tên huyện. Lấy thị trấn Chu Lễ (thuộc xã Hương Thủy) làm điểm trung tâm thì phía bắc có Hương Quang, Hương Điền, Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ, Hương Nam, Hương Mỹ, Hương Trung, Hương Thái, Hương Luyện, Hương Thu, Hương Thanh, Hương Hà, Hương Châu, Hương Hoà, Hương Đồng, Hương Hải, Hương Bình, Hương Tân; phía nam có Hương Thủy, Hương Long, Hương Phú, Hương Vĩnh, Hương Thịnh, Hương Giang, Hương Phố, Hương Xuân, Hương Phong, Hương Đô, Hương Lạc, Hương Lĩnh, Hương Phúc, Hương Trạch, Hương Lộc, Hương Mai, Hương Liên, Hương Lâm.
Thời kỳ 1972 - 1976, để tạo điều kiện cho sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhiều xã nhỏ được sáp nhập thành xã lớn, như: Hương Hà, Hương Thanh, Hương Thu thành Hà Linh; Hương Trung, Hương Mỹ, Hương Nam thành Phương Mỹ; Hương Lĩnh, Hương Lạc thành Phúc Trạch; Hương Lộc, Hương Mai thành Lộc Yên; Hương Thịnh, Hương Phố thành Gia Phố,... Huyện lỵ Hương Khê được chuyển từ Chu Lễ vào vùng giáp ranh giữa Hương Phong và Gia Phố.
Ngày 4/8/2000, theo quyết định của Chính phủ, 5 xã phía Bắc huyện là Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền và Vũ Quang (nay là Hương Quang) được tách ra để nhập với 6 xã của huyện Đức Thọ và 01 xã của huyện Hương Sơn lập thành huyện Vũ Quang. Huyện Hương Khê còn lại 20 xã và 02 thị trấn.
Ngày 02/01/2004, giải thể thị trấn Nông Trường 20-4, thành lập xã Hương Trà.
Ngày 19/01/2009, thị trấn Hương Khê được mở rộng trên cơ sở sáp nhập 127,80 ha diện tích tự nhiên và 513 nhân khẩu của xã Hương Long; 89,08 ha diện tích tự nhiên và 792 nhân khẩu của xã Gia Phố; 41,14 ha diện tích tự nhiên và 431 nhân khẩu của xã Phú Phong; 3,25 ha diện tích tự nhiên và 77 nhân khẩu của xã Phú Gia.
Ngày 01/01/2020, xã Phương Mỹ và xã Phương Điền được sáp nhập thành xã Điền Mỹ.
Hiện nay, huyện Hương Khê có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn và 20 xã.
II. DÂN CƯ VÀ XÃ HỘI
Do đặc điểm của vùng rừng núi nên trước kia dân cư ở Hương Khê rất thưa thớt, sau này tăng nhanh bởi dân các địa phương khác di cư đến, như: Đức Thọ, Hương Sơn, Thạch Hà, Can Lộc và cả từ Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình. Vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX, dân số huyện Hương Khê khoảng 30.000 người[8]; đến tháng 4/1999, theo số liệu tổng điều tra dân số tỉnh Hà Tĩnh dân số Hương Khê có 116.414 người[9], chiếm 9,2% dân số toàn tỉnh, mật độ dân số là 63 người/km2. Đến 31/12/2020, tổng số dân huyện Hương Khê là 98.366 người/30.629 hộ[10], mật độ dân số 78 người/km2.
Trước kia, làng mạc, trại ấp thường ở trong các thung lũng, rừng xanh, có nơi cách xa nhau hàng chục cây số, hoặc ở lẻ tẻ ven sông, suối. Xã Trừng Thanh (Hương Vĩnh) thuộc trấn Quy Hợp, dưới thời phong kiến là nơi rừng thiêng nước độc, là nơi chính quyền phong kiến giam giữ, tù đày những người chống lại triều đình.
Nguồn gốc dân Hương Khê khá phong phú, bao gồm: dân bản địa; nông dân các địa phương khác vì bị áp bức, bóc lột, đói khổ chạy nạn lên kiếm kế sinh nhai; một bộ phận vương thân, quan lại phong kiến chạy loạn, lánh nạn lên khai cơ lập nghiệp... Do đó, con người Hương Khê có những phẩm chất quý giá: thông minh, cần cù, trọng nghĩa, tính cách mạnh mẽ, thích ứng nhanh với cuộc sống.
Hương Khê là huyện có nhiều dân tộc cùng sinh sống, bao gồm: dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Chứt, người Lào và người Hoa (trước đây còn có cả người Xiêm - Thái Lan). Trong đó, dân tộc Kinh là đông nhất, chiếm 99% dân số. Dân tộc Chứt (còn gọi là Mã Liềng) trước đây sinh sống gần bản Giàng (xã Hương Vĩnh), những năm 1966 - 1967 huyện tổ chức di dời một số hộ về định cư ở bản Rào Tre, xã Hương Liên. Theo thống kê, năm 1975 dân tộc Chứt ở huyện có 20 hộ với 80 nhân khẩu, đến nay có 61 hộ với 209 nhân khẩu (ở cả hai xã Hương Liên và Hương Vĩnh); dân tộc Mường (còn gọi là người Nguồn) sống ở bản Lòi Sim xã Hương Trạch; người Lào ở bản Phú Lâm, xã Phú Gia và người Hoa sống rải rác ở thị trấn, Hương Đô, Phúc Trạch, Lộc Yên, Hương Xuân...
Ở Hương Khê, tư tưởng Phật giáo, Nho giáo thịnh hành từ rất sớm. Trước năm 1945, trên địa bàn huyện có khá nhiều ngôi chùa. Tuy vậy, qua thời gian và bom đạn chiến tranh, nhiều nơi đã trở thành phế tích. Ngày nay, số phật tử ở Hương Khê sinh hoạt tín ngưỡng tại các ngôi chùa: chùa Phúc Linh (xã Gia Phố), chùa Hạ Phúc (xã Lộc Yên), chùa Lung (xã Hương Thủy), chùa Báo Lâm (xã Hương Vĩnh), chùa Yên Bình (xã Hòa Hải), chùa Đại Giác (xã Gia Phố), chùa Phúc Hưng (xã Hương Đô)...
Thiên chúa giáo du nhập vào Hương Khê từ thế kỷ XVII, tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc mới được truyền bá mạnh mẽ. Năm 1930, rải rác khắp nơi trong huyện đã có tới 11 xứ và 1 sở đạo Thiên chúa với 62 họ, chiếm 10% số dân[11]. Tính đến 2020, Hương Khê có 15 giáo xứ, 63 giáo họ với 28.754 giáo dân, chiếm tỷ lệ 28,94% dân số. Trên địa bàn có nhiều nhà thờ lớn như: Ninh Cường, Làng Truông, Tràng Lưu, Thổ Hoàng... Những xã có giáo dân đông là Gia Phố, Điền Mỹ, Hương Long.
Hương Khê là huyện đất rộng, người thưa, bình quân ruộng đất canh tác tính theo đầu người trước năm 1930 khoảng 7 sào Trung Bộ. Mặc dù có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng dưới chế độ phong kiến, đời sống của người dân hết sức cực khổ. Giai cấp thống trị đã duy trì nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, độc canh, các mặt thuỷ lợi, phân bón không được chú ý, nên năng suất cây trồng rất thấp. Hàng năm, huyện Hương Khê thường gặp hạn hán, lũ lụt gây ra mất mùa nên nhiều vụ sản xuất không có thu hoạch. Đã vậy, tầng lớp quan lại ra sức bóc lột, làm cho đời sống của Nhân dân càng thêm đói khổ.
Về kinh tế, trước đây Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm thổ sản, tuy nhiên kỹ thuật sản xuất lạc hậu, lại hay bị thiên tai nên đời sống rất khổ cực. Giai cấp địa chủ ngày càng lớn mạnh, hào lý và địa chủ Nhà chung cũng phát triển thế lực. Trong tổng số 9.210 ha đất canh tác toàn huyện, giai cấp địa chủ chiếm tới 4.745 ha, hào lý và địa chủ Nhà chung chiếm hơn 2.000 ha. Lớn nhất là đồn điền Bùi Huy Tín, tiếp đến là đồn điền Hoàng Bích, Nguyễn Hộ. Ngoài ra, số địa chủ có từ 50 đến 100 ha ruộng đất có Nguyễn Hữu Định (xứ Trại Nại), Võ Thị Trinh, Hiệp Viện, Trần Đình Chuyên, Võ Hoài (xã Gia Phố), Lê Ngọc Giơi (xã Đông Ấp), Võ Tá Tiếp (xã Thượng Bình),... Có nhiều xã, 70% ruộng đất thuộc về địa chủ, như: Gia Phố, Phú Phong, Hương Long, Hương Giang,...
Nhiều địa chủ, tư sản các nơi khác, có cả người Pháp cũng đến Hương Khê bao chiếm đất đai lập đồn điền, trang trại hoặc phát canh thu tô. Loại lớn trên 200 ha có Bùi Huy Tín, địa chủ kiêm tư sản, chủ Nhà máy in Đắc Lập ở Huế, có đồn điền ở Lộc Yên. Loại vừa trên dưới 100 ha có Ngô Soa, Cu Đúc (Coudoux). Loại nhỏ, khoảng 50 ha, có nhiều hơn, như Paoli (Paoli), Bôrêphờrây (Baurefreiy), Phờrốtxa (Frossard), Tôn Thất Quảng,...
Không chỉ bao đất mà tư sản, địa chủ còn bao chiếm cả các cánh rừng, khúc sông suối lân cận làm của riêng, bắt dân nộp lễ vật mỗi khi đi lấy củi, đốt than, thả trâu bò. Nhân dân làng Tế Lễ (Hương Tân) muốn cho trâu bò vào rừng ăn cỏ phải nạp cho địa chủ Bang Trọng mỗi năm 6 quan tiền và một lít rượu.
Do ruộng đất bị địa chủ và thực dân Pháp chiếm đoạt nên nông dân Hương Khê phần đông không có ruộng hoặc thiếu ruộng, bình quân mỗi người dân chỉ có 1 sào 2 thước. Toàn huyện có 5.263 hộ không có ruộng cày, vườn ở, phải suốt đời ở đợ, quanh năm nai lưng làm thuê cho địa chủ, “ăn cơm vay, cày ruộng rẽ”, nuôi con “cơm chéo áo, gạo chéo khăn”[12]. Việc lĩnh canh làm rẽ của dân nghèo cũng không dễ. Họ phải chạy thầy nạp lễ, cầu cạnh, nhẫn nhục mới xin được lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày và khi thu hoạch cũng chỉ được 30% hoa lợi, 70% phải nộp cho địa chủ. Số không được nhận ruộng thì phải trực tiếp đi làm thuê như cày thuê, cuốc mướn, hoặc đi ở cho địa chủ, phú nông, làm việc quần quật suốt ngày mà vẫn bị chửi mắng, xua đuổi, ăn đói, mặc rách. Những năm mất mùa đói kém, những lúc ốm đau, người nông dân Hương Khê lại phải đến nhà địa chủ van xin vay lúa, vay tiền, nợ cũ chưa trả hết lại dồn sang nợ mới.
Địa chủ bóc lột nông dân bằng tô tức, thực dân lại tăng cường bóc lột bằng sưu thuế. Thuế thân là thứ thuế dã man nhất, đánh vào đầu người, mỗi người đàn ông từ 18 đến 60 tuổi mỗi năm phải nộp 2,5 đồng. Ngoài số tiền thuế chính, hàng năm tầng lớp thống trị lại tăng thêm theo tỷ lệ phần trăm, có năm tăng đến 30%. Năm 1925, nhân dịp vua Khải Định làm lễ ăn mừng 40 tuổi, thực dân và phong kiến đã cho tăng thuế lên 30% để lấy tiền chi tiêu cho việc tiệc tùng, chè chén.
Thuế ruộng cũng là một gánh nặng cho Nhân dân. Chính quyền phong kiến chia thuế ruộng đất thành 3 hạng. Mỗi mẫu ruộng hạng nhất phải đóng 1,95 đồng, ruộng hạng nhì phải đóng 1,5 đồng, ruộng hạng 3 phải đóng 1 đồng. Đến năm 1929, hào lý, chức sắc địa phương dùng thủ đoạn sửa lại, thu theo lối ruộng đất hạng nhất, hạng nhì, không có hạng ba. Thực chất ruộng hạng ba chủ yếu là của nông dân, phải tăng nhiều nhất, nên nhiều người phải bán vợ đợ con, chạy vạy để nộp thuế, nhiều khi còn bị đánh đập, tra tấn vì thiếu, chậm thuế.
Ngoài thuế thân, thuế ruộng đất, Nhân dân Hương Khê còn phải nộp nhiều thứ thuế khác, như: thuế chợ, thuế đò... Các đợt xổ số, lạc quyên, bán công trái quốc gia cũng là một hình thức vơ vét thêm tài sản của Nhân dân phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Đến đầu thế kỷ XX, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Hương Khê chậm phát triển. Trong huyện không có một cơ sở công nghiệp nào, chỉ có một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ, tự phát (7 lò rèn trị giá tương đương 16 đồng Đông Dương). Chỉ có một số ít người ở khu vực thị trấn Chu Lễ và một số nơi làm nghề buôn bán tạp hoá, làm nghề thủ công như: dệt vải, ép dầu, ép mía, làm mật, song không có vốn lớn. Hàng xuất đi các nơi chủ yếu là gỗ, nứa, mây song, lá tro, củ nâu, một số trâu bò... giá trị thấp. Hàng nhập là mọi thứ cần dùng trong đời sống hàng ngày, theo đường sông Ngàn Sâu và đường bộ, đường bộ xuống thị xã Hà Tĩnh qua vùng Truông Bát hoang vắng. Đời sống của tiểu thương, thợ thủ công bấp bênh do bị chèn ép, bị bóc lột nặng nề bằng các loại thuế.
Về văn hoá - xã hội, để dễ bề cai trị Nhân dân ta, thực dân Pháp và chính quyền tay sai thực hiện chính sách ngu dân, chúng tìm cách kìm hãm dân trí, mở rất ít trường học, nhà thương. Ngoài ra, chúng khuyến khích việc ăn chơi nghiện ngập, bê tha hòng làm giảm sự phản kháng của Nhân dân và buộc người dân hành động theo sự điều khiển của chúng. Do vậy, đời sống văn hóa trong tình trạng tối tăm, lạc hậu.
Do đời sống khó khăn, thiếu thuốc men nên sức khoẻ của Nhân dân luôn bị đe doạ bởi dịch bệnh, phổ biến là các bệnh ghẻ lở, sâu quặng, sốt rét, thương hàn, tả, lỵ... Năm 1909, nạn dịch tả đã gây ra cái chết hàng ngàn người, có gia đình chết cả nhà, vùng Phú Phong, Trừng Thanh có dòng họ chết gần hết.
Đầu thế kỷ XX, cả huyện chỉ có một trạm xá ở Chu Lễ, với 1 y tá, 1 hộ sinh. Đến năm 1944 mới có thêm 3 trạm xá ở Trúc, Phúc Trạch và tổng Trại La. Nhân dân đau ốm không có nơi cứu chữa nên nạn mê tín dị đoan, cầu cúng diễn ra phổ biến, dẫn đến “tiền mất, tật mang”. Giáo dục không được khuyến khích phát triển mà còn bị hạn chế. Toàn huyện chỉ có 9 trường tiểu học (ở Chu Lễ và 8 trường ở các xã khác). Tổng số học sinh tiểu học cả huyện năm 1930 chỉ khoảng 400 em, chủ yếu cũng là con em nhà khá giả, còn đại bộ phận thanh, thiếu niên, Nhân dân lao động đành chịu thất học, bị mù chữ. Trong khi đó, nạn cờ bạc, rượu chè, đồng bóng, bói toán được duy trì và khuyến khích. Chúng vẫn duy trì 3 đại lý bán rượu cồn ở Chu Lễ, Trúc, Lộc Yên, giao rượu về bắt quan chức phải buộc dân tiêu thụ.
Hạn chế sự phát triển về văn hoá, xã hội, song bộ máy cai trị lại được thực dân Pháp và phong kiến Nam triều ra sức tăng cường. Trước năm 1930, thực dân Pháp đặt bộ máy cai trị ở Hương Khê gồm các cấp huyện, tổng và xã. Toàn huyện được chia thành 5 tổng và 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng và một phó tổng, mỗi xã có một lý trưởng, một phó lý và ngũ hương, phụ trách các thôn. Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, thực dân Pháp cho lập thêm nhiều đồn bốt, trong đó quan trọng là đồn Phúc Trạch và đồn Tri Bản, năm 1928 chúng củng cố đồn binh ở Chu Lễ với trên 50 lính khố đỏ, do một sĩ quan Pháp trực tiếp làm đồn trưởng.
Dựa vào thế lực của thực dân, phong kiến, quan lại, cường hào địa phương đã ra sức ức hiếp, nhũng nhiễu Nhân dân. Chúng đặt ra nhiều thứ bậc, luật lệ để ràng buộc người dân. Việc mua bán ngôi thứ, tranh nhau chiếm đoạt ruộng đất công, tham nhũng công quỹ diễn ra thường xuyên khắp các thôn, xã. Ngoài việc tăng cường bộ máy đàn áp, bóc lột, tầng lớp thống trị còn dùng mọi âm mưu chia rẽ lương giáo, phân biệt đối xử giữa dân ngụ cư và dân chính quán, xúi giục kiện cáo để chia rẽ Nhân dân, làm suy yếu sức đấu tranh để chúng tiện bề vơ vét.
Chuyển biến lớn, sâu sắc của vùng Hương Khê là cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, khi thực dân, tư bản Pháp tiến hành làm tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận của huyện.
Trên tuyến đường sắt Bắc - Nam, đoạn đường sắt Vinh - Đông Hà là đoạn được thực hiện khá chậm. Đoạn này dài 299 km, năm 1922 được khởi công xây dựng từ hai đầu. Khu vực phía bắc, đoạn từ Vinh, tháng 1/1927 sau khi đặt được 89 km đến Tân Ấp đã dừng lại, không tiến về nam mà rẽ nhánh đi về phía Xóm Cục để sang Lào. Từ phía nam, đến tháng 10/1927 đã đặt được 112 km từ Đồng Hới ra Tân Ấp. Tân Ấp, đoạn km 410 trở thành nơi ráp nối của đường sắt miền Bắc và đường sắt miền Trung, thông suốt tàu từ Hà Nội vào Đà Nẵng.
Trong dự kiến mở đường ngang Tân Ấp - Thàkhẹt (Lào) dài 187 km, thì đoạn Tân Ấp - Xóm Cục dài 20km được đặt ray xong vào năm 1933, bắt đầu sử dụng từ ngày 13/9/1933. Cùng năm đó, đoạn Xóm Cục - Banafào (dài 39 km) đã đặt được đường cáp, thường gọi là “không trung thiết lộ”, để vận chuyển hàng hoá, xúc tiến cho việc kéo dài sang nội địa Lào. Đoạn này được đưa vào sử dụng từ ngày 18/12/1933. Kế hoạch nối Banafào - Thàkhẹt bị phá sản. Chi phí cho việc xây dựng đường Tân Ấp - Xóm Cục - Banafào khoảng 20 triệu phrăng, trung bình mỗi km hết 400.000 phrăng[13].
Sự hình thành đoạn đường sắt Bắc - Nam dọc qua huyện và đường ngang từ Tân Ấp sang Banafào đã tác động lớn đến đời sống của Nhân dân Hương Khê. Một bộ phận Nhân dân mất ruộng vườn, phải di chuyển nhà cửa, mồ mả, đi phu, đi lao dịch... Tuy vậy, về khách quan, nó cũng đã làm cho kinh tế, xã hội Hương Khê có những chuyển biến nhất định theo hướng tích cực, làm thay đổi diện mạo của huyện. Đó là việc hình thành và nâng cấp các đường ô tô, khai thông các đường sông, suối, hình thành các nhà ga, các điểm dừng tàu, kéo theo đó là sự ra đời của một số chợ, nhất là việc hình thành đội ngũ công nhân, công chức làm việc trên các tuyến đường, các nhà ga.
Là huyện có đường sắt Bắc - Nam chạy qua nên mối giao lưu mọi mặt giữa Hương Khê với cả nước được mở rộng, kịp thời, nhộn nhịp hơn, đồng thời chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân, tư bản cũng được thực thi mạnh hơn. Sự hoang vắng, lạc hậu và cục bộ được đẩy lùi dần, Nhân dân Hương Khê bắt đầu cảm nhận được những thay đổi của thời cuộc. Phong tục tập quán, lề lối làm ăn bắt đầu có sự thay đổi, sự phân hoá giai cấp, xã hội ngày càng sâu sắc và phong trào yêu nước, dân chủ có điều kiện tiếp thu những tư tưởng mới.
Về cơ bản, đến đầu thế kỷ XX, cùng với sự chuyển biến về kinh tế, nhất là việc hình thành tuyến đường sắt Bắc - Nam qua huyện, Hương Khê cũng có những chuyển biến mạnh mẽ về chính trị, xã hội.
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1. Phong trào yêu nước thời phong kiến
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, qua các chặng đường lịch sử Nhân dân Hương Khê đã có những đóng góp tích cực.
Thời Hậu Trần (1408 - 1414), vua Giản Định và vua Trần Quý Khoáng lập căn cứ tại vùng Ngàn Sâu (vùng Thổ Hoàng - Phương Mỹ ngày nay) để đánh giặc Minh. Nhân dân Hương Khê đã tích cực hưởng ứng giúp vua xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng chống giặc. Các tên gọi như Đồng Dinh, Bãi Phố, Bến Thần, đồng Mục Voi, Lỗ Tiền, Chõ Vua, Cồn Đèn, Đồng Đội… được hình thành thời kỳ này. Đền Tam Công là một dấu tích còn sót lại của thời kỳ này[14].
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của nghĩa quân Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh (1416 - 1427), Nhân dân Hương Khê đã đóng góp sức người, sức của với cả vũ khí, voi chiến. Núi Vũ Kỳ, sau gọi là núi Phù Lê, nay là Phú Lễ (xã Hương Trạch) là nơi đã xây dựng một kho lương thực lớn do Nhân dân Hương Khê đóng góp nuôi nghĩa quân Lê Lợi. Xóm Lò (Gia Phố) là nơi sản xuất các loại vũ khí: hỏa hổ, hỏa pháo, thần cơ thương, gươm giáo … cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Đến thời Lê Sơ, Xóm Lò đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất sắt của cả nước và duy nhất của huyện Hương Sơn[15]. Trên các ngọn đồi ở xã này hiện vẫn còn lại dấu tích những hào sâu đào quặng sắt từ thời xưa. Không hiểu vì lý do gì và vào thời điểm nào, nghề luyện sắt vang bóng một thời ở vùng này không còn được lưu truyền nữa.
Thời kỳ khởi nghĩa Tây Sơn, khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh (1789), Nhân dân Hương Khê đã tích cực giúp nghĩa quân đánh giặc. Hương Khê cũng là bàn đạp cho đội quân của Quang Trung khi tiến sang đất Lào đánh quân Xiêm. Bến sông chợ Trúc, chợ Sòng là những nơi đón tiếp chiến thuyền quân Quang Trung từ Đức Thọ lên. Đồn Quy Hợp (Hương Vĩnh) là nơi thực hiện sự bang giao giữa quốc gia Đại Việt với Ai Lao và Xiêm thời kỳ này. Làng Vạn Gia (Gia Phố) là trạm đón tiếp đội quân của Quang Trung. Đền thờ Quang Trung được xây dựng trên nền đất là nơi đóng quân của nghĩa quân trước đây, đền có tượng các tướng lĩnh và voi ngựa tạc bằng gỗ mít, thường gọi là đền Voi Ngựa. Trong đền còn lưu giữ đôi câu đối nói lên cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, sông núi và con người nơi đây, tương truyền là của vua Quang Trung. Ngoài ra, Hương Khê còn đóng góp cho nghĩa quân nhiều vị tướng giỏi, như: tướng quân Nguyễn Hữu Hộ (xã Hương Thủy), Hồ Văn Hoa (xã Điền Mỹ).
2. Phong trào đấu tranh cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hương Khê là nơi được vua Hàm Nghi chọn làm căn cứ của phong trào Cần Vương chống Pháp. Lũy Voi Dựa ở Đá Đen (La Khê) và thành Sơn Phòng (Phú Gia) là những chứng tích lịch sử ghi nhận nơi vua Hàm Nghi dựng cờ chống Pháp (1884 - 1896). Vua Hàm Nghi đã ban tặng nhiều báu vật như: 2 con voi bằng vàng, một con voi bằng đồng, một con nghê bằng đồng đen, 2 chiếc lược gỗ... và ra chiếu phong thần cho đất Phú Gia để tạ ơn vùng đất đã phò vua (cần vương) cứu nước: “Công phù đại địa trung hưng thánh; Danh trấn Nam thiên thượng đẳng thần”.
Tháng 10/1885, được tin Vua Hàm Nghi ra tới Sơn Phòng - Phú Gia, Phan Đình Phùng (người Đông Thái, Đức Thọ) đã lên yết kiến nhà vua và được trực tiếp giao nhiệm vụ trở về đẩy mạnh phong trào chống Pháp ở địa phương mình[16]. Những năm 1885 - 1896, suốt 12 năm liền, vùng Vũ Quang là căn cứ địa của nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp. Vùng Hói Trùng (Hương Thọ), Hói Trí (Hương Minh) là nơi đã có lúc đặt đại bản doanh của Phan Đình Phùng, Cao Thắng. Vùng Lều Cỏ, Lục Ngừ sang Bọng Nhỏng gần bãi Ngàn Trươi (giữa Hương Điền và Hương Quang) là nơi đặt các cơ sở thợ rèn, thợ mộc, đúc đồng của nghĩa quân. Nhân dân Hương Khê đã đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm nuôi nghĩa quân, đóng góp mâm thau, nồi đồng cho nghĩa quân đúc vũ khí. Các địa phương còn tổ chức cho nông dân vào rừng làm nương rẫy, đẩy mạnh sản xuất lương thực cung cấp cho nghĩa quân. Nhiều người vùng Tri Bản, Phúc Đồng, Thanh Luyện, Trúc Lâm, Phương Điền,... đã đi xây dựng thành luỹ, doanh trại ở căn cứ Vũ Quang hoặc tham gia lực lượng vũ trang của nghĩa quân, một số người được làm cai, đội, thư ký cho cụ Phan Đình Phùng.
Nghĩa quân có 15 quân thứ (cánh quân), trong đó Khê Thứ (cánh quân Hương Khê) do Nguyễn Hữu Châu (ở Thanh Luyện - Điền Mỹ), Nguyễn Thoại chỉ huy là một trong những thứ quân mạnh của cụ Phan. Tháng 8/1892, khi địch mở trận càn lớn lên căn cứ Hói Trùng và Ngàn Sâu, quân dân Hương Khê dưới sự chỉ huy của Cao Thắng đã đánh nhiều trận oanh liệt, như trận quyết tử ở Bãi Ma (Hương Thanh - Hà Linh), trận đồn Tri Bản, chợ Nổ (Hương Hoà - Hòa Hải)[17]. Nổi bật là trận Hói Trùng ngày 13/8/1892 quân ta đã chặn đánh cánh quân do tên Rôbe (Rober) chỉ huy, diệt 16 tên, bắn trọng thương 15 tên. Một số lính giặc dẫm phải chông bị thương, Rôbe phải bỏ chạy. Các cánh quân khác của địch thấy tình hình bất lợi, lại bị nghĩa quân bám sát đánh mạnh, nên cuối cùng, đến ngày 30/8, tất cả phải rút về[18].
Sau khi Cao Thắng hy sinh, cụ Phan Đình Phùng mất, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã bị đàn áp. Song, ở Hương Khê, nhiều tướng lĩnh cùng nghĩa quân vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp, duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian nữa. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng - Cao Thắng lãnh đạo là đỉnh cao của phong trào Cần Vương. Đến cuối năm 1896, cuộc khởi nghĩa bị thất bại.
Từ năm 1897, khi đã cơ bản bình định được Việt Nam, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất). Tại Hương Khê, sau khi triển khai xây dựng xong tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua huyện, kinh tế, xã hội Hương Khê có sự chuyển biến mới, dân cư được bổ sung thêm về số lượng và thay đổi mạnh về cơ cấu. Nhiều người từ các nơi đến Hương Khê để làm ăn, sinh sống, rồi “đất lành chim đậu” định cư lâu dài. Số dân bản địa cũng bị phân hoá, đại đa số vẫn bám ruộng vườn làm nông nghiệp thuần tuý, một số thiếu ruộng cày cấy phải dựa vào nghề rừng để tồn tại. Tuy vậy, cũng có một số dựa vào tư bản, thực dân để làm ăn, phất lên thành địa chủ, chủ đồn điền, một số làm công chức, giáo viên...
Dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, người nông dân Hương Khê phải chịu trăm bề khổ cực. Đối với những người bị phá sản từ các nơi khác lưu tán đến làm ăn hay những người vì chống đối giai cấp thống trị bị chúng trục xuất khỏi quê hương, đưa đi giam giữ ở Hương Khê (như vùng Trừng Thanh - Hương Vĩnh), cuộc sống càng cùng cực hơn. Chính sự áp bức, bóc lột và cuộc sống khổ cực đó đã làm cho tinh thần chống đế quốc, phong kiến của Nhân dân Hương Khê càng thêm quyết liệt.
Vốn không cam chịu sự áp bức bóc lột của phong kiến, đế quốc, Nhân dân từ nhiều nơi mới bỏ xứ tụ họp về Hương Khê sinh cơ lập nghiệp. Do đó, đã hình thành trong mỗi người dân truyền thống đấu tranh bất khuất chống áp bức cường quyền và quả cảm trong khắc phục thiên tai, tự lực, tự cường trong xây dựng cuộc sống. Trước chính sách thống trị, khai thác thuộc địa mới của tư bản, thực dân, phong kiến, địa chủ, cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê càng quyết liệt hơn. Sự du nhập những tư tưởng cứu nước mới, sự mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa với các nơi đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà cách mạng, các chiến sĩ cộng sản ở Hương Khê.
Cuối thế kỷ XIX, tuy phong trào Cần Vương với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hương Khê bị dập tắt, song Nhân dân Hương Khê vẫn nuôi ý chí yêu nước, kiên cường, bất khuất chống thực dân, phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến có sự chuyển biến mới, bắt đầu từ vùng Hà Linh.
Năm 1905, cụ Nguyễn Duy Phương, còn gọi là Tú Phương[19], người Hà Linh, một nhà Nho yêu nước đã hội kiến với cụ Phan Bội Châu bàn chuyện phát triển phong trào Đông Du, đưa người sang Nhật Bản học tập, cầu viện để chống Pháp, mở đầu cho phong trào dân tộc, dân chủ theo khuynh hướng mới - khuynh hướng dân chủ tư sản.
Hà Linh là nơi các văn thân yêu nước như Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân thường lui tới cùng cụ Tú Phương bàn bạc việc hoạt động cách mạng. Phong trào đấu tranh của Nhân dân Hà Linh và các xã lân cận như Trúc Lâm, Đông Ấp đầu thế kỷ XX đã có sắc thái mới và ngày càng lên cao, khiến thực dân Pháp phải chùn tay, ít khi về bắt phu, bắt lính ở đây. Hào lý địa phương cũng không dám hống hách, nhũng nhiễu dân chúng như ở các xã khác.
Một khu trại cày sản xuất lương thực (trại Anh Quỳnh) và một quán nước ở Truông Bát đã được cụ Tú Phương cho xây dựng làm nơi liên lạc, trạm tiếp tế cho các nhà yêu nước trên đường qua Hương Khê để sang Lào, Thái Lan (Xiêm) tránh sự truy bắt của đế quốc, phong kiến Nam triều và tìm đường cứu nước. Các nhà cách mạng tiền bối quê vùng Nghệ - Tĩnh phần nhiều đã theo con đường bộ này để sang Thái Lan rồi từ Thái Lan mua vé tàu thuỷ sang Nhật trong phong trào Đông Du, hoặc sau này sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức.
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Duy Tân do cụ Phan Chu Trinh lãnh đạo, cùng với các nơi ở Trung Kỳ và Hà Tĩnh, Nhân dân Hương Khê đã có nhiều cuộc đấu tranh chống sưu thuế. Cụ Nguyễn Duy Phương đã dẫn đầu một đoàn người gồm hàng trăm nông dân kéo về tỉnh lỵ Hà Tĩnh đấu tranh đòi giảm sưu, thuế. Cụ bị thực dân Pháp bắt, kết án 7 năm tù và bị đưa đi đày ở Côn Đảo với nhiều người khác của Hà Tĩnh như: Lê Văn Huân, Phạm Văn Ngôn (Đức Thọ). Những người Hương Khê khác như: Nguyễn Trang (con của Nguyễn Chanh), Nguyễn Hét (con của Nguyễn Trạch) kế tục sự nghiệp vẻ vang của cha, đã lấy núi Mỹ Khê (xã Điền Mỹ) làm căn cứ địa để hoạt động tài chính và làm nơi liên lạc đưa thanh niên yêu nước sang Xiêm huấn luyện về hoạt động chống Pháp.
Sau khi cụ Tú Phương ra tù, phong trào ở Hà Linh, Trúc Lâm lại tiếp tục được đẩy lên cao, trở thành trung tâm của phong trào toàn huyện. Năm 1919, thầy giáo Lê Viết Lượng, người huyện Can Lộc, làm giáo viên Trường Tiểu học Hương Khê đã cùng với thầy giáo Nguyễn Hậu[20], giáo viên Trường Tiểu học Gia Phố đã đến gặp cụ Tú Phương bàn cách tìm đường cứu nước. Năm 1920, họ quyết định lập ra tổ chức “Hội Bài Pháp”, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp xây dựng một nhà nước dân chủ.
Sau khi ra đời, Hội Bài Pháp thu hút được nhiều công chức, giáo viên, nhà Nho tiến bộ, xây dựng được tổ chức rộng rãi ở nhiều thôn, xã trong huyện. Hội đã vận động nhân dân đấu tranh chống hào lý hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế, không nộp tiền phạt trong vụ án “đốt rừng” do toà án Vinh xét xử, đòi bồi thường thiệt hại cho dân vùng ven đường sắt do mất đất đai, hư hại ruộng vườn, nhà cửa. Hội cũng vận động công nhân công trường làm đá La Khê, phu lục lộ đường sắt đấu tranh đòi cai kíp, chủ thầu bảo đảm các quyền lợi như đã cam kết. Các xã Hà Linh, Đô Khê là những nơi có phong trào phát triển mạnh. Nhân dân đấu tranh chống chính sách bóc lột của quan chức địa phương, hình thành phe dân đấu tranh với phe hào quyết liệt. Nhiều phen hào lý phải chùn bước, phải hỏi ý kiến của dân trong các công việc địa phương.
Tuy hoạt động của Hội Bài Pháp được Nhân dân hưởng ứng, có đưa lại một số quyền lợi, song về cơ bản vẫn bế tắc về đường lối và phương hướng hoạt động. Để có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, Hội Bài Pháp chủ trương tổ chức cho một số hội viên xuất dương ra nước ngoài, chủ yếu là sang Xiêm (Thái Lan) để tìm gặp những người đang hoạt động cách mạng ở bên đó. Trong khi Nguyễn Hậu, Nguyễn Trương dẫn đầu số xuất dương lo việc sang Xiêm thì số ở địa phương do Nguyễn Duy Phương, Lê Viết Lượng lãnh đạo đã ra sức phát triển cơ sở, kết nạp hội viên và làm tài chính để gây quỹ cung cấp cho số xuất dương hoạt động[21].
Giữa năm 1920, nhóm xuất dương có 3 người, do thầy giáo Nguyễn Hậu phụ trách lên đường sang Xiêm, song vì chuẩn bị chưa kỹ nên sau một thời gian ở Xiêm mà không gặp được tổ chức cách mạng, đành phải trở về. Do không liên lạc được với tổ chức cách mạng, ở bên ngoài lại có một số giáo viên bị thuyên chuyển công tác nên hoạt động của nhóm hội này gặp lúng túng và đến cuối năm 1921 thì tự giải tán.
Trước tình hình đó, năm 1922, thầy giáo Nguyễn Hậu tìm gặp một số người có tinh thần yêu nước, đã tham gia các phong trào Đông Du, Duy Tân tổ chức ra nhóm cách mạng mới lấy tên là “Việt Nam độc lập Hội”, còn gọi là nhóm Xuân Thu (bí danh của đồng chí Nguyễn Hậu). Việt Nam độc lập Hội có một số hội viên trong công nhân đường sắt và trong giáo viên. Hoạt động chưa lâu thì thầy giáo Nguyễn Hậu bị đổi đi dạy học ở Nghi Xuân, nên Việt Nam độc lập Hội cũng ngừng hoạt động. Có thể khẳng định Hội Bài Pháp và tiếp đó là Việt Nam độc lập Hội đã có nhiều cố gắng trong việc truyền bá các tư tưởng mới, gây được một số hoạt động yêu nước ở Hương Khê những năm 1919 - 1925.
Thời gian này, trước những chuyển biến mới của tình hình cách mạng trong tỉnh cũng như trên cả nước và do yêu cầu của số đông quần chúng, các sĩ phu yêu nước như: Lê Văn Huân (người Đức Thọ), Nguyễn Đình Kiên (Tú Kiên, người Hương Sơn) hết hạn tù ở Côn Đảo trở về đã cùng với một số thanh niên như Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn... quyết định thành lập một tổ chức cách mạng lấy tên là Hội Phục Việt. Ngày 14/7/1925, cuộc họp chính thức thành lập Hội đã được tổ chức tại núi Con Mèo, trên đoạn đường Vinh đi Bến Thuỷ.
Sau cuộc họp thành lập Hội, các hội viên chia tay nhau về địa phương tuyên truyền phát triển tổ chức. Nhiều nhà Nho có chí khí, các nhà giáo trẻ và một số ít người trong các tầng lớp tiểu tư sản khác đã được những người sáng lập Hội Phục Việt gặp gỡ giải thích mục đích và vận động tham gia Hội. Mùa thu năm 1925, Nguyễn Sỹ Sách, giáo viên Trường Tiểu học Pháp - Việt (thị xã Hà Tĩnh) đã nhận trách nhiệm gây cơ sở ở đây. Tư tưởng yêu nước, cách mạng được truyền bá trong giáo viên, học sinh và nhóm hội viên đầu tiên được xây dựng gồm Nguyễn Thế Tự, Trần Tích Thiện, Nguyễn Công Hoạch, Lê Bá Cảnh, Nguyễn Huy Lung, Nguyễn Đình Chuyên. Tổ chức Hội Phục Việt tuy chưa phát triển rộng rãi, nhưng đã ít nhiều tác động đến tư tưởng của tầng lớp sĩ phu yêu nước và những thanh niên tiểu tư sản khác ở Hà Tĩnh. Trong những năm 1925 - 1926, các hoạt động yêu nước trong giáo viên, học sinh, công chức hưởng ứng phong trào đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh phát triển khá sôi nổi. Mặc dầu chưa có đường lối chính trị rõ ràng, Hội Phục Việt đã cổ vũ tinh thần và hé ra một tia sáng đối với những người lâu nay đang mong muốn có cơ hội đem sức mình ra cứu nước.
Trong sự chuyển biến chung đó, bộ phận Hội Bài Pháp do cụ Tú Phương đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động với trung tâm là vùng Hà Linh. Khi Hội Phục Việt được thành lập, bộ phận Hội Bài Pháp này được chuyển thành chi hội Phục Việt Hương Khê. Năm 1926, chi hội Phục Việt Hương Khê được Tỉnh hội Phục Việt Hà Tĩnh công nhận là một chi hội chính thức. Sau đó ít lâu, Hội Phục Việt đổi thành Hội Hưng Nam và năm 1928 thành Tân Việt cách mạng Đảng, chi hội Phục Việt (Hưng Nam) Hương Khê cũng được đổi thành Đại tổ Tân Việt Hương Khê, với bí danh là Đại tổ Ngọ. Đại tổ Ngọ có một số tổ chức cơ sở trong công nhân, phu lục lộ đường sắt, trong các công trường đá dọc đường sắt, trong đồn điền Bùi Huy Tín, Tôn Thất Quảng, Hoàng Bích..., có các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, học sinh, giáo chức.
Phong trào yêu nước, cách mạng Hương Khê do Hội Phục Việt, tiếp đó là Tân Việt cách mạng Đảng lãnh đạo, ngoài trung tâm chung là Hà Linh, ở vùng thượng huyện cũng hình thành một đầu mối quan trọng là Trường Tiểu học Hương Khê. Tháng 4/1927, tại đây, các thầy giáo Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức đã thành lập một tiểu tổ của Hội Phục Việt. Buổi lễ thành lập tiểu tổ Phục Việt Trường Tiểu học Hương Khê diễn ra tại chùa Trung Định (Hương Thủy) cũng là lễ kết nạp đồng chí Phạm Quang Thu vào Hội. Tiểu tổ đã ra sức tuyên truyền tư tưởng yêu nước, cách mạng trong học sinh, giáo chức và tổ chức nhiều nhóm đọc sách báo, truyền tin về thời cuộc trong nước và thế giới ở các làng xã lân cận. Thông qua các môn học lịch sử, địa dư, lúc công khai, lúc bí mật, các đồng chí đã truyền đạt đến học sinh những vấn đề về chính trị, tư tưởng cách mạng, hướng họ đi vào đấu tranh chống chế độ thực dân phong kiến.
Công tác xây dựng tổ chức của tiểu tổ được duy trì khá đều đặn, mỗi tháng họp một lần. Nội dung sinh hoạt thường là phổ biến tình hình, chủ trương của Tân Việt cách mạng Đảng, nhấn mạnh nhiệm vụ đảng viên là phấn đấu hy sinh cho lý tưởng lật đổ chính quyền thực dân Pháp và Nam triều, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Đảng viên phải tuyệt đối giữ bí mật, phải ra sức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng Tân Việt cho quần chúng, theo dõi giới thiệu người để kết nạp vào Đảng Tân Việt...
Ngoài các hoạt động nói trên, tiểu tổ Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê còn tổ chức một cuộc bãi khoá tẩy chay viên mật thám Bát Tạo, do địch cài vào làm giáo viên trong trường. Cuộc tẩy chay đã thu được kết quả, buộc Ty Giáo dục Hà Tĩnh phải điều Bát Tạo đi nơi khác. Tuy nhiên kẻ địch đã điều tra, lùng sục, bắt bớ một số người tham gia đấu tranh. Hai thầy giáo bị nghi là đứng đầu lãnh đạo cuộc bãi khóa phải lui vào hoạt động bí mật, hai người khác bị bắt giam một thời gian.
Bên cạnh các hoạt động tại địa phương và sinh hoạt nội bộ, tổ chức Tân Việt ở Trường Tiểu học Hương Khê và ở Hà Linh cũng thường xuyên liên lạc, trao đổi, nhận định tình hình với nhau và với các nhà Nho trong huyện. Đồng chí Nguyễn Quốc Nhiếp (con cụ Tú Chế, Hà Linh) đã phối hợp với các giáo viên ở Trường Tiểu học Hương Khê chuyển tài liệu của Tân Việt Hà Tĩnh lên Lộc Yên, đi Hạ Vàng, Đô Khê, Phúc Trạch với kế hoạch cải trang và phương án thoát thân khá tỉ mỉ.
Đến đầu năm 1929, tiểu tổ Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê đã có 8 đảng viên, chia làm 3 tổ để sinh hoạt. Phụ trách chung lúc đầu là đồng chí Lê Viết Lượng, sau vụ bãi khoá, các đồng chí Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức tạm ngừng hoạt động để che mắt địch, đồng chí Phạm Quang Thu được cử phụ trách chung. Đồng chí Lê Viết Lượng đã đưa đồng chí Phạm Quang Thu về tỉnh gặp các đồng chí Lê Bá Cảnh, Nguyễn Văn Lung để liên hệ công tác.
Mùa hè 1929, khi các đồng chí Lê Viết Lượng, Đỗ Đức Chức bị đổi đi dạy ở nơi khác, đồng chí Phạm Quang Thu chuyển đi học lớp nhất ở Đức Thọ, tỉnh đưa đồng chí Nguyễn Xuân Linh lên thay đồng chí Phạm Quang Thu. Đồng chí Nguyễn Xuân Linh được bố trí dạy tư tại nhà cố Zuy, cuối mùa hè 1929, thì bị địch bắt tại Vinh. Trước tình hình đó, đồng chí Phạm Quang Thu đưa đồng chí Mai Minh xuống tỉnh gặp đồng chí Lê Bá Cảnh và đồng chí Nguyễn Văn Lung đề nghị chấp nhận đồng chí Mai Minh đảm nhận công tác thay đồng chí Nguyễn Xuân Linh.
Các cuộc đấu tranh do các hội viên Hội Phục Việt, sau đó là do các đảng viên Đảng Tân Việt tổ chức vận động ở các trường học đã có ảnh hưởng tích cực đến vùng nông thôn và các đồn điền, công trường giao thông. Trong những năm 1927 - 1928, các tiểu tổ Tân Việt ở các thôn xã đã vận động nông dân đứng lên chống hào lý, chức sắc hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế. Công nhân các đồn điền, các công trường làm đường, làm đá cũng đoàn kết đấu tranh đòi giải quyết một số quyền lợi về kinh tế như tăng tiền lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt.
Mặc dù là một Đại tổ (tổ chức cấp huyện) của Tân Việt cách mạng Đảng, song trước ảnh hưởng ngày càng mạnh của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, Đại tổ Tân Việt ở Hương Khê ngả dần về con đường cách mạng vô sản.
Tình hình kinh tế, xã hội và phong trào yêu nước ở Hương Khê với những chuyển biến như vậy là cơ sở cho sự tiếp nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng bộ Hương Khê sau này.
CHƯƠNG I ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG CHỐNG ĐẾ QUỐC, PHONG KIẾN (1930 - 1931)
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ VÀ ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG BỘ
Hương Khê là nơi có di tích lịch sử Thành Sơn Phòng Hàm Nghi và căn cứ Vũ Quang của nghĩa quân Phan Đình Phùng - minh cứng cho tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại sâm của Nhân dân nên bị thực dân Pháp đặc biệt chú ý và tiến hành đàn áp các phong trào yêu nước hết sức dã man. Chúng cho dựng lên nhiều đồn bốt để kìm kẹp Nhân dân ta, lớn nhất là đồn Phúc Trạch và đồn Tri Bản. Dù bị đàn áp, kìm kẹp gắt gao, Nhân dân Hương Khê vẫn kiên cường tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Hậu trong khi đang dạy học ở Nghi Xuân đã được đồng chí Lê Duy Điếm[22] cung cấp cho các tài liệu của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và chủ trương cứu nước, cứu dân theo con đường cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Có tài liệu và phương hướng hoạt động mới, đúng đắn, đồng chí Nguyễn Hậu xin về dạy học ở huyện nhà và vận động thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Hương Khê[23]. Tháng 9/1926, nhóm Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Hương Khê được thành lập, gồm 15 hội viên. Sau khi ra đời, Hội đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân. Sau khi phát hiện dấu hiệu hoạt động mới của tổ chức này, đế quốc, phong kiến đã nhanh chóng tìm cách phá hoại. Do đó, hoạt động chưa được bao lâu thì đồng chí Nguyễn Hậu và một số hội viên của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên bị bắt, tổ chức này bị mất liên lạc, phải tạm ngừng hoạt động.
Việc ở Hương Khê đã có người tiếp thu được chủ trương cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu mốc mở đầu cho sự hình thành Đảng bộ Hương Khê sau này. Từ đây, tư tưởng cách mạng được hình thành và lớn lên không chỉ trong các chí sĩ, nhà Nho yêu nước, trong đội ngũ công nhân giao thông đường sắt, đường bộ mà quan trọng hơn là thâm nhập mạnh vào tầng lớp học sinh, giáo chức, dấy lên phong trào yêu nước trong học sinh các trường tiểu học theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Do tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chưa có cơ sở vững chắc nên trên thực tế, phong trào yêu nước ở Hương Khê thời kỳ này chủ yếu vẫn do Hội Phục Việt, rồi Hội Hưng Nam và Tân Việt cách mạng Đảng lãnh đạo.
Các cuộc đấu tranh đó mặc dầu đã có hình thức, nội dung cao hơn trước, song cơ bản vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng tiểu tư sản, tư sản, chưa có một đường lối chính trị rõ rệt và đúng đắn. Hoạt động của Đại tổ Tân Việt Hương Khê so với các tổ chức yêu nước trước đó tuy có tiến bộ hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng.
Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Hà Nội, đã nhanh chóng cho đảng viên vào các tỉnh Trung Kỳ tuyên truyền cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Được sự giúp đỡ của chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Trường Quốc học Vinh, cuối năm 1929, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Trường Tiểu học Pháp - Việt Thị xã Hà Tĩnh được thành lập, do đồng chí Lê Bá Cảnh làm Bí thư. Đây là chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở Hà Tĩnh[24].
Sự tuyên truyền, vận động của Đông Dương Cộng sản Đảng đã ảnh hưởng, thu hút sự chú ý của các hội viên Tân Việt, thanh niên và các trí thức yêu nước khác, nhanh chóng chuyển hoá các tổ chức yêu nước tiến bộ ở đây thành các chi bộ cộng sản. Những đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt quyết định cải tổ tổ chức Tân Việt thành Đảng cộng sản và cuối năm 1929, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập tại huyện Đức Thọ. Sau sự kiện này, Đảng Tân Việt bị phân liệt, Đại tổ Tân Việt Hương Khê chấm dứt hoạt động. Các đảng viên Tân Việt ở Hương Khê nóng lòng mong chờ gia nhập tổ chức cách mạng mới là Đảng Cộng sản.
Tháng 01/1930, đồng chí Trần Hữu Thiều[25], cán bộ của Xứ ủy Đông Dương Cộng sản Đảng Trung Kỳ lên Hương Khê gây dựng tổ chức, thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở Hà Linh, gồm 5 đảng viên người Hà Linh (Hương Hà) và Trúc Lâm (Hương Thanh). Sự ra đời của chi bộ Hà Linh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là mốc mở đầu, đánh dấu sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở Hương Khê.
Trong khi chi bộ Hà Linh đang ra sức tuyên truyền, kết nạp đảng viên mới, tổ chức thêm các chi bộ ở các xã khác thì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Đông Dương được tiến hành ở Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng tổ chức và phát triển lực lượng cộng sản ở Hà Tĩnh. Cuối tháng 3/1930, được sự ủy nhiệm của Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí Trần Hữu Thiều đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng bộ lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh. Hội nghị được tiến hành tại bến đò Thượng Trụ (xã Thiên Lộc, Can Lộc), bao gồm đại biểu của các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn trong tỉnh. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ do đồng chí Trần Hữu Thiều (tức đồng chí Lai, đồng chí Nguyễn Trung Thiên) làm Bí thư[26]. Theo chủ trương chung của Đảng, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Hà Linh được chuyển thành chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Hương Khê.
Bằng sự nỗ lực của mình và đáp ứng yêu cầu của những người cùng chí hướng, chi bộ Hà Linh đã nhanh chóng kết nạp đảng viên mới và thành lập các chi bộ ở các xã có đủ điều kiện. Đến tháng 4/1930, Hương Khê đã có thêm các chi bộ Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Phúc Ấm (Hương Long), Đô Khê (Hương Đô), Phú Phong (Hương Phong), Xuân Lũng (Hương Xuân), Gia Phố (Hương Phố), Thượng Thạch (Hương Thủy). Với sự xuất hiện nhiều chi bộ ở các vùng trong huyện, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hương Khê hình thành trên thực tế với đầu mối liên lạc, chỉ đạo chung là các chi bộ Hà Linh và Trúc Lâm, trực thuộc Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh[27].
Nhóm Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê trong xu hướng chuyển hoá sang Đảng Cộng sản, các hội viên đã có những hoạt động mới theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng theo tuyến chỉ đạo từ Đức Thọ lên, thông qua đồng chí Phạm Quang Thu. Khi được chi bộ Đảng ở Trường Tiểu học Đức Thọ giao nhiệm vụ về Hương Khê tổ chức rải truyền đơn nhân kỷ niệm ngày sinh của V.I.Lênin, đồng chí Phạm Quang Thu, với tư cách là người phụ trách cũ, đã nhóm họp các hội viên Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê (phần lớn là người Hương Thuỷ) bàn bạc việc rải truyền đơn. Đúng 3 giờ sáng ngày 22/4/1930, các hội viên đã rải truyền đơn với danh nghĩa của Đảng Cộng sản tuyên truyền kỷ niệm ngày sinh V.I.Lênin, ủng hộ Liên Xô. Truyền đơn đã xuất hiện ở khu vực Thuỷ Lâm, chợ Sòng, ga Chu Lễ, huyện lỵ. Qua sự kiện này, tổ chức Tân Việt Trường Tiểu học Hương Khê đã chính thức chuyển hóa thành tổ chức cộng sản ở Hương Khê.
Về cơ bản đến giữa năm 1930, tuy chưa lập được huyện ủy, nhưng Đảng bộ Hương Khê đã được hình thành với trên 10 chi bộ và gần 100 đảng viên. Hoạt động của Đảng bộ thời kỳ đầu lấy các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm làm đầu mối liên lạc và do đồng chí Mai Kính, Tỉnh ủy viên phụ trách Hương Khê trực tiếp chỉ đạo. Các tổ chức quần chúng do Đảng bộ lãnh đạo cũng lần lượt được xây dựng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội.
Đảng bộ Hương Khê ra đời là bước ngoặt trọng đại trong lịch sử huyện Hương Khê và lịch sử Đảng bộ Hương Khê, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của phong trào cách mạng trong huyện, thời kỳ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giữa lúc phong trào cách mạng của Hương Khê bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới thì phong trào chống đế quốc, phong kiến trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển mạnh.
Từ đầu năm 1930, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng công - nông đã nổ ra ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, báo hiệu sự bùng nổ của phong trào cách mạng trên cả nước. Tin tức các cuộc đấu tranh của công - nông Hà Nội, Nam Định, Phú Riềng, Dĩ An, nhất là của công nông Vinh - Bến Thuỷ trong và sau ngày 1/5/1930 dồn dập được truyền về Hương Khê, gây xôn xao tinh thần quần chúng lao động trong huyện. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và được phong trào của cả nước, của vùng Nghệ - Tĩnh cổ vũ, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng hoà vào trào lưu cách mạng chung. Các cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến ở Hương Khê được nhen nhóm từ đầu năm 1930 và càng về sau càng phát triển mạnh. Nhân dân các xã Trúc Lâm, Hà Linh, Phúc Đồng, Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Phong, Gia Phố,... liên tục có các cuộc mít tinh, hội họp nghe cán bộ, đảng viên diễn thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, về Liên Xô, về phong trào các nơi trong nước, trong tỉnh. Nhiều cuộc mít tinh đã trở thành các cuộc thị uy, lên án sự áp bức, bóc lột của địa chủ cường hào, tố cáo quan lại, chức sắc hạch sách Nhân dân, đề cao thanh thế giai cấp công - nông và Đảng Cộng sản.
Cuối năm 1930, phong trào cách mạng ở Hương Khê đã bắt kịp với cao trào chung, đạt tới đỉnh cao về quy mô, số lượng, hình thức và tính chất đấu tranh. Qua đấu tranh, tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng được tăng cường. Các tổ chức quần chúng được củng cố và tăng thêm hội viên. Ở 13 xã có phong trào mạnh, Nông hội đỏ có 2.210 hội viên, Hội Phụ nữ có 1.655 hội viên, Đoàn Thanh niên Cộng sản có 731 đoàn viên, Tự vệ có 862 đội viên, Hội Cứu tế, tán trợ có 760 hội viên.
Ở những nơi chưa có chi bộ Đảng, chi bộ các xã, thôn lân cận đã hỗ trợ cán bộ giúp tổ chức ra các đoàn thể quần chúng, gây dựng cơ sở, kể cả những nơi đông đồng bào theo đạo Thiên chúa như Ninh Cường (Gia Phố), Chúc A (Hương Lâm), Vĩnh Cư (Hương Liên), Vạn Tân. Nhờ đó, tuy có muộn hơn, song dần dần ở những nơi như: Ninh Cường, Chúc A, Vĩnh Cư,... các cơ sở quần chúng đã được xây dựng và nhiệt tình giúp đỡ cán bộ khi qua lại hoạt động.
Trên cơ sở các chi bộ đã được thành lập ở nhiều nơi, số đảng viên tăng lên không ngừng, để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phong trào, ngày 20/11/1930, tại xã Trúc Lâm (Hương Thanh), Đảng bộ Hương Khê đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ nhất với sự có mặt của đại biểu các chi bộ trong toàn Đảng bộ và đại diện của Tỉnh ủy Hà Tĩnh[28].
Đại hội đã kiểm điểm tình hình và sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với phong trào cách mạng Hương Khê từ khi thành lập đến tháng 11/1930. Đại hội cho rằng, phong trào ở Hương Khê tuy mở đầu có chậm so với một số nơi, song đến mùa thu năm 1930 đã phát triển sôi nổi, và từ ngày 7/11/1930 đã đạt tới cao trào, hoà nhịp với cao trào chung của vùng Nghệ - Tĩnh và các nơi khác.
Các cuộc đấu tranh do Đảng bộ lãnh đạo với sự hưởng ứng của đại đa số Nhân dân trong huyện, nhất là các tầng lớp công - nông, đã chứng tỏ đường lối, chủ trương của Đảng bộ là phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân trong huyện, thể hiện vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng trong quần chúng. Kết quả của các cuộc đấu tranh đã đưa lại những lợi ích thiết thực cho Nhân dân lao động, hạn chế phần nào sự áp bức, bóc lột của địa chủ, quan lại, động viên tinh thần cách mạng của quần chúng, đưa phong trào Hương Khê thành một bộ phận của phong trào chung, góp phần làm nên cao trào cách mạng của toàn tỉnh và cả nước...
Đại hội đã quán triệt đường lối cách mạng của Đảng, trực tiếp là chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ và của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, bàn định chủ trương, biện pháp thực hiện ở địa phương, qua đó để phát triển lực lượng cách mạng và xây dựng Đảng bộ thêm lớn mạnh. Đại hội nêu lên nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ là tập trung lãnh đạo cao trào cách mạng của quần chúng đang lên cao, đưa lại lợi ích cho Nhân dân lao động. Đại hội quyết định:
- Tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng chống đế quốc, phong kiến lên cao hơn nữa để hưởng ứng và phối hợp, hỗ trợ phong trào ở các địa phương khác theo chủ trương chung của Tỉnh ủy, Xứ ủy.
- Thông qua phong trào đấu tranh của Nhân dân mà lựa chọn những quần chúng ưu tú đưa vào Đảng, phát triển lực lượng của Đảng. Củng cố các chi bộ đã có và thành lập chi bộ mới để lãnh đạo phong trào, phát triển tổ chức đảng.
- Tích cực phát triển hội viên các hội quần chúng, củng cố các tổ chức Nông hội, Tự vệ, Thanh niên, Phụ nữ, Hội Cứu tế đỏ, Hội Tán trợ, nhằm làm cho cơ sở Đảng được mở rộng, vững chắc.
- Vận động các gia đình khá giả cho các gia đình nghèo vay mượn tiền, lúa lúc giáp hạt tháng ba và lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi giảm bớt lễ lạt trong dịp Tết, đòi hoãn nợ, giảm nợ lãi, bỏ bớt tế tự, đình đám nhằm cải thiện dân sinh và chuẩn bị tinh thần cho quần chúng đấu tranh, đòi chia ruộng đất công, giảm ách bóc lột của địa chủ, cường hào, chức sắc làng xã.
Ban Chấp hành Đảng bộ khoá đầu tiên được Đại hội bầu ra gồm các đồng chí: Mai Phì (Hương Long), Phạm Quang Nậm (Hương Thuỷ), Trần Suất (Hương Thanh), Mai Minh (Hương Long), Nguyễn Quốc Nhiếp (Hương Hà), Thái Đình Hàn (Hương Thọ), do đồng chí Mai Phì làm Bí thư.
Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ Hương Khê được tổ chức thành công tại xã Trúc Lâm (ngày 20/11/1930) có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đại hội có sự tham dự và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, bàn định, đề ra chủ trương, nhiệm vụ chung đúng đắn, bầu Ban Chấp hành và Bí thư Đảng bộ, đã đánh dấu sự hoàn thành trọn vẹn cuộc vận động thành lập Đảng bộ ở Hương Khê. Từ đây, phong trào cách mạng Hương Khê đã có một cơ quan lãnh đạo thống nhất để vạch ra đường lối, chủ trương và tổ chức cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến của Nhân dân toàn huyện, quy tụ các phong trào, các lực lượng về một mối dưới ngọn cờ của Đảng.
Chủ trương do Đại hội đề ra phù hợp với thực tế địa phương, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, nên nhanh chóng đi vào thực tế, được cán bộ, đảng viên và quần chúng quán triệt, ra sức thực hiện. Các đồng chí trong Huyện ủy đều là những cán bộ, đảng viên trung kiên, hăng hái hoạt động chỉ đạo phong trào. Thêm nhiều quần chúng ưu tú tình nguyện nhận nhiệm vụ do các chi bộ giao và qua thử thách được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Hệ thống tổ chức của Đảng bộ được củng cố, lớn mạnh, trở thành trung tâm chỉ huy các cuộc mít tinh, biểu tình đang sục sôi khắp nơi trong huyện.
II. LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930 - 1931)
Ngay sau ngày thành lập, các chi bộ đảng đầu tiên của Đảng bộ Hương Khê đã vừa củng cố tổ chức, phát triển đảng viên, vừa bắt tay vào lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng theo chủ trương của Tỉnh ủy, Xứ ủy, nhằm đưa phong trào Hương Khê tiến lên hoà nhịp với phong trào chung.
Các ngày kỷ niệm quan trọng như ngày sinh của V.I.Lênin (22/4/1930), Quốc tế Lao động 1/5/1930 đều được các chi bộ tổ chức kỷ niệm với hình thức rải truyền đơn, mít tinh kỷ niệm quy mô nhỏ ở một số nơi. Các cuộc đấu tranh đòi địa chủ giảm tô, hoãn nợ, giảm lễ tết do các chi bộ lãnh đạo đã thu được một số kết quả, nên bước đầu gây được lòng tin đối với Đảng và tinh thần phấn khởi trong nông dân Hương Khê.
Sau một số cuộc mít tinh nhỏ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1/5/1930), kỷ niệm ngày chống chiến tranh đế quốc (1/8/1930) và đấu tranh chống địa chủ, cường hào đòi một số quyền lợi cụ thể cho Nhân dân có tính tập dượt, Đảng bộ Hương Khê quyết định tổ chức rầm rộ ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1930) để làm đà đưa phong trào lên cao.
Theo chủ trương của Đảng bộ, vào đúng ngày lễ, các chi bộ vận động quần chúng tiến hành mít tinh ở 3 điểm trong huyện là Bãi Nậy (Hương Long) cho vùng thượng huyện; bãi Bố Xà (Hương Thanh) cho vùng trung huyện và ga Hoà Duyệt cho vùng hạ huyện. Tổng số quần chúng tham dự mít tinh trong toàn huyện lên tới hơn 4.000 người.
Ở Bãi Nậy, nông dân các xã Phúc Ấm, Thượng Bình (Hương Long), Phúc Trạch, Đô Khê (Hương Đô), Gia Phố, Xuân Lũng (Hương Xuân), Phú Phong, Trừng Thanh (Hương Vĩnh), Phú Gia, Trung Hà (Hương Bình), Thượng Thạch (Hương Thuỷ) đã kéo về dự mít tinh kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười Nga. Sau khi dự mít tinh, nghe diễn thuyết về Cách mạng tháng Mười, về tình hình thế giới và trong nước, quần chúng đã chia nhau kéo đi thị uy các nơi, đốt các điếm canh do địch dựng nên ở dọc đường, trừng trị một số tên cường hào gian ác. Tên đồn trưởng Chu Lễ và quân lính không dám đàn áp các cuộc biểu tình thị uy, phải làm ngơ trước hành động của quần chúng.
Ở xứ Bố Xà (Hương Thanh - Hà Linh nay), quần chúng các xã Hương Thanh, Trúc Lâm, Đông Ấp, Nam Trạch, Tri Bản (Hương Hoà), Phúc Hội (Hương Đồng), Văn Đồng (Hương Châu), làng Tế Lễ, Trung Định (Hương Tân), Phương Mỹ, Phương Điền,... theo hướng dẫn của các đảng viên cũng kéo đến dự mít tinh, nghe diễn thuyết về Liên Xô, về Quốc tế Cộng sản, tin tức đấu tranh của công nông các nơi trong và ngoài nước, sau đó kéo đi biểu tình thị uy, trừng trị cường hào gian ác ở các địa phương.
Tại ga xe lửa Hoà Duyệt (Hương Thọ), nông dân các xã Khê Thượng, Đan Trai (Hương Đại), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Hương Khê (Hương Thọ) đã cùng Nhân dân Lâm Thao, Hoà Duyệt[29] kéo đến bao vây nhà ga, bắt viên trưởng ga phải ra hiệu dừng tàu chuyến Hà Nội - Sài Gòn để cán bộ cộng sản rải truyền đơn, nói chuyện với hành khách về Cách mạng tháng Mười.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cuộc mít tinh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (ngày 7/11/1930) trên thực tế đã trở thành đỉnh cao cho phong trào cách mạng năm 1930 của Nhân dân toàn huyện. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào ở Hương Khê lúc đầu được tiếp thêm sức mạnh từ phong trào các nơi trong tỉnh Hà Tĩnh, như Can Lộc, Thạch Hà, Nghi Xuân, Hương Sơn... và cả ở Nghệ An truyền tới, đến lúc này lại trở thành nơi duy trì và phát triển cao cho phong trào chung. Liên tiếp các cuộc mít tinh, biểu tình khác được tiếp tục diễn ra ở các nơi chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bộ máy thống trị các tổng, xã, thôn, vào cường hào gian ác. Tổ chức Đảng được thành lập thêm ở nhiều nơi, kết nạp thêm hàng trăm đảng viên mới. Các đoàn thể quần chúng ra đời ở hầu hết các xã, mạnh nhất là Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên. Các Nông hội Đỏ đã thành lập được các ban chấp hành cấp xã, thôn, gọi là Xã bộ nông, Thôn bộ nông. Bí thư Nông hội là người đại diện cho quần chúng nông dân, đứng ra giải quyết nhiều công việc ở địa phương mà trước đó là công việc của hào lý.
Quần chúng còn tổ chức tập luyện tự vệ, sắm sửa vũ khí bảo vệ trật tự trị an thôn xóm, bảo vệ cán bộ. Các đội tự vệ là lực lượng nòng cốt trong các cuộc mít tinh, tuần hành. Các Nông hội đã vận động và thu nhận lương thực, thực phẩm của Nhân dân tự nguyện đóng góp cung cấp cho tự vệ luyện tập. Có nhà khá giả đã liên hệ xin Nông hội được nuôi đội tự vệ ăn tập dăm bảy ngày đến nửa tháng.
Từ các hoạt động trấn áp cường hào gian ác, phong trào quần chúng tiến lên đòi các quyền lợi kinh tế như giảm sưu, miễn thuế, xoá bỏ nợ nần, lễ tết. Có nơi Thôn bộ nông đã tuyên bố buộc nhà giàu xoá bỏ nợ nần lâu đời cho dân (Hà Linh), hoặc giảm nợ cho người nghèo (Trúc Lâm, Đông Ấp, Văn Đồng, Phúc Hội...). Cao hơn nữa là thực hiện quyền dân chủ làng xã, như trong các hội lễ, toàn dân được bình đẳng, nam cũng như nữ, dân thường cũng như hào lý. Các chức sắc, hào lý không được ăn trên, ngồi trốc như trước, lễ tết đối với chúng bị bãi bỏ. Hủ tục ma chay, cưới xin, cúng tế được giảm mạnh. Việc học chữ quốc ngữ, tuyên truyền tư tưởng tiến bộ, hoạt động thể thao, thể dục, sinh hoạt hội họp được xúc tiến mạnh ở nhiều nơi, hình thành một bầu không khí tự do, dân chủ, bình đẳng trong quan hệ làng xóm.
Chế độ thực dân phong kiến của địch bị một phen đả kích nặng nề, quan lại, cường hào kinh hoàng, lo sợ, không dám hạch sách Nhân dân, thậm chí có nơi chúng bỏ việc, đưa sổ sách, con dấu giao cho Nông hội, công khai nhận lỗi trước Nhân dân, xin gia nhập phong trào quần chúng. Nhiều nơi bộ máy quan lại cơ sở xã, thôn bị tan rã, tê liệt, không hoạt động hoặc hoạt động không còn hiệu lực như trước. Trong hoàn cảnh đó, ở một số thôn, xã, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông, dưới sự lãnh đạo của các đảng viên, các chi bộ Đảng cơ sở, đã tự đứng ra giải quyết mọi công việc của dân, mặc nhiên đảm nhiệm chức năng của chính quyền cách mạng.
Do chưa có chủ trương sẵn trước của Đảng mà xuất hiện từ trong thực tế phong trào cách mạng của quần chúng địa phương, lại ở thời kỳ Đảng mới ra đời, kinh nghiệm lãnh đạo còn quá ít ỏi, nên các chính quyền cách mạng thôn, xã ở Hương Khê và các nơi khác ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã hoạt động mô phỏng theo tinh thần, cách thức của chính quyền Xô viết ở Liên Xô cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chính vì vậy, kiểu chính quyền này được gọi là chính quyền Xô viết và vì xuất hiện ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, nên sau đó, trong các tài liệu của Đảng ta và của quốc tế gọi đó là Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Từ sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất (11/1930), phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê đã thực sự hoà nhập với cao trào chung và có đà phát triển mạnh. Đảng bộ Hương Khê đã có bước trưởng thành mới về số lượng và chất lượng. Toàn Đảng bộ có 28 chi bộ nông thôn và 2 chi bộ công nhân, số đảng viên lên tới hơn 320 người. Ngoài 2 chi bộ công nhân trực thuộc Huyện ủy là chi bộ Đồn điền Bùi Huy Tín ở Lộc Yên và chi bộ Đường sắt ở Hương Khê, các chi bộ nông thôn được chỉ đạo hoạt động theo phạm vi tổng, do các Tổng ủy trực tiếp lãnh đạo.
Tổng Xuân Khánh có các chi bộ Tân Đức (nay thuộc Quảng Bình), Đô Khê (Hương Đô), Gia Phố, Thượng Thạch, Thịnh Lạc (Gia Phố), Phú Phong, Xuân Lũng (Hương Xuân), Trừng Thanh (Hương Vĩnh), Phú Gia, Phúc Ấm, Thượng Bình (Hương Long) Trung Hà (Hương Bình).
Tổng Hà Nam có chi bộ Hà Linh (Hương Hà), Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Phương Điền (Hương Mỹ), Tri Bản (Hương Hòa), Phúc Hội (Hương Đồng), Văn Đồng (Hương Châu), Tế Lễ, Trung Định (Hương Tân).
Tổng Trại La có các chi bộ Khê Thượng, Đan Trai (Hương Đại), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Hương Khê (Hương Thọ), Lâm Thao, Hòa Duyệt (nay thuộc Đức Liên, Đức Thọ).
Với lực lượng và kinh nghiệm đã có, từ đầu năm 1931, Đảng bộ Hương Khê chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh tiến lên một bước mới cao hơn. Đi đôi với việc lãnh đạo nông dân đòi giảm tô, hoãn nợ, giảm bớt nợ lãi, xóa lễ lạt, nhiều chi bộ đã vận động nông dân đấu tranh giành ruộng đất công, tịch thu một số tiền, thóc gạo của những cường hào gian ác chia cho dân nghèo.
Các cuộc đấu tranh đầu năm 1931 đều thu được kết quả, đưa lại một số lợi ích kinh tế cụ thể, làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào cách mạng. Chi bộ Hà Linh chủ trương xóa nợ vĩnh viễn và bỏ việc cầm cố đồ đạc cho các chủ nợ và đã lãnh đạo quần chúng biểu tình kéo đến nhà Cựu Uyên - một địa chủ lớn trong xã, để trấn áp, bắt đốt hết các loại giấy tờ mà Nhân dân trong xã viết để vay nợ hoặc cầm cố tài sản, ruộng đất và tịch thu một số lúa đem chia cho nông dân.
Phong trào đấu tranh của quần chúng dâng lên mạnh mẽ, làm cho hào lý, chức sắc ở nhiều thôn, xã trong huyện hoang mang, dao động, nhiều tên nằm im không dám hoạt động, một số ngả theo cách mạng. Những tên ngoan cố, phản động bỏ trốn lên các đồn binh, lên huyện để ẩn náu.
Hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào cách mạng, chức sắc địa phương đã cầu cứu cấp trên đưa lực lượng về đàn áp, khủng bố, bắt bớ cán bộ, Nhân dân. Chúng cho binh lính bắn giết thẳng tay Nhân dân đi biểu tình, đồng thời ráo riết bắt dân bỏ công sức, vật liệu làm các đồn binh, vơ vét lương thực, thực phẩm để cung cấp cho đội quân giết người đang kéo về Hương Khê ngày một đông. Kẻ thù đẩy mạnh việc sử dụng vũ lực để đàn áp phong trào, gây nên nhiều tổn thất cho Nhân dân. Hành động của địch như lửa đổ thêm dầu, làm cho cuộc đấu tranh của Nhân dân ta càng sục sôi, quyết liệt.
Trước tình hình đó, Huyện ủy chủ trương chống địch khủng bố, đàn áp bằng cách sử dụng vũ lực của quần chúng trừng trị đúng mức những tên phản động chống phá cách mạng và thuyết phục, lôi kéo số hào lý, chức sắc ít nhiều có tư tưởng tiến bộ.
Trong tháng 02/1931, nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình thị uy của Nhân dân chống địch bắt bớ, khủng bố đã nổ ra liên tiếp ở các xã. Tại xã Xuân Lũng (Hương Xuân) đã nổ ra 10 cuộc biểu tình, quần chúng đã trừng trị một tên cường hào gian ác làm tay sai cho địch. Nhân dân các xã Văn Đồng (Hương Châu) Phúc Hội (Hương Đồng), Nam Trạch (Hương Bình) và làng Tế Lễ (Hương Tân) đã tập hợp thành đoàn hơn 500 người kéo đến bao vây uy hiếp một tên Việt gian phản động ở xã Nam Trạch (Hương Bình), buộc hắn phải mang áo dài ra nhận tội. Hơn 500 quần chúng xã Văn Đồng có sự phối hợp của Nhân dân Hà Linh, Đông Ấp, Trúc Lâm, Phúc Hội, Tri Bản, Tế Lễ, Trung Định đã biểu tình thị uy và trừng trị tên lý trưởng làm tay sai đắc lực cho Pháp.
Rút kinh nghiệm các cuộc đấu tranh này và cùng với khí thế chung trong tỉnh, từ tháng 3 năm 1931, Huyện ủy chủ trương mở rộng phạm vi, quy mô các cuộc đấu tranh mang tính liên thôn, liên xã hoặc quy mô toàn tổng.
Chủ trương của Huyện ủy được Tổng ủy Trại La thực hiện sớm nhất. Tổng ủy đã huy động 800 quần chúng đi bao vây đồn Paoli (Paoli) chống khủng bố trắng. Tên đồn trưởng kiêm chủ đất này phải bỏ chạy về Linh Cảm (Đức Thọ) để ẩn náu và cầu cứu quan trên. Mấy ngày sau, Paoli đã dẫn 50 lính về càn quét các xã trong vùng Trại La, đốt nhà, cướp của, khủng bố Nhân dân, lùng bắt cán bộ cách mạng. Nắm được thông tin này, Tổng ủy đã lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị các phương án đề phòng hành động khủng bố của địch, các trạm gác của tự vệ đã kịp thời báo động cho dân lánh vào rừng để tránh địch.
Nhằm khống chế lâu dài Nhân dân ta, thực dân Pháp đã cho xây dựng tại Rạng Quang một đồn binh khá lớn. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, quần chúng đã biểu tình phản đối việc đóng đồn và tìm cách chống đối việc đóng góp vật liệu cho địch xây dựng đồn trại. Tuy vậy, địch vẫn ra sức khủng bố nên chi bộ Đảng đã vận động nhân dân 5 xã trong tổng Trại La với hàng ngàn người tiến hành một cuộc biểu tình phá kế hoạch lập đồn binh của địch. Địch phải huy động thêm lực lượng, bắn chết hơn 30 con trâu bò, đốt cháy 32 nóc nhà, phá hoại hàng chục mẫu hoa màu mới lập được đồn Rạng Quang. Không chịu khuất phục, các chi bộ Đảng đã lãnh đạo quần chúng liên tục quấy rối địch, dùng mọi hình thức o ép và cuối cùng đã đốt phá kho thóc, nhà cửa, khiến cho binh lính địch phải bỏ trốn khỏi đồn.
Vùng tổng Xuân Khánh thời gian này đã có 4 cuộc biểu tình quy mô toàn tổng, với 800 người tham gia. Nhân dân các xã Phúc Ấm, Phú Gia, Xuân Lũng, Phú Phong, Trừng Thanh, Gia Phố đã mít tinh ở miếu Cây Thau (Thị trấn nay) rồi kéo đi trừng trị một số tên phản động trong vùng. Có số lên Lộc Yên phá sở rượu của tên xếp Quảng, trấn áp cường hào cai Ba rồi kéo về Gia Phố trấn áp mật thám Đoàn Trị. Tại chợ Gia, hàng ngàn Nhân dân quanh vùng và Nhân dân đang họp chợ đã biểu tình đấu tranh chống thuế. Nhân dân Phúc Ấm, Thượng Bình, Trung Hà, Phú Gia, Phú Phong đã kéo đến nhà địa chủ Cựu Hoạt, Võ Tá Tiếp (Thượng Bình) tịch thu một số lúa chia cho người nghèo. Nhân dân Xuân Lũng, Trừng Thanh biểu tình kéo đến đồn điền Hoàng Bích tịch thu tiền, lúa chia cho người nghèo.
Các cuộc biểu tình lớn, quy mô toàn tổng được tổ chức ngày càng nhiều, phát triển đều khắp trong huyện. Quần chúng đã giành được nhiều quyền lợi về kinh tế. Nhiều gia đình nông dân nghèo được giúp đỡ tiền, lúa từ kết quả đấu tranh trực tiếp với địa chủ. Một số ruộng đất công bị địa chủ cường hào chiếm đoạt được các ban chấp hành Nông hội xã (Xã bộ nông) đấu tranh giành lại, đem chia cho người thiếu ruộng.
Phong trào quần chúng càng ngày càng thiên về bạo động, lấn át thế lực của địch ở nông thôn, khiến cho bộ máy cai trị của chúng ở các làng xã vốn đã rệu rã từ cuối năm 1930, nay càng rệu rã hơn và gần như bị tê liệt, bị vô hiệu hoá hàng loạt. Nhiều lý trưởng mang triện, sổ sách nộp cho cán bộ cách mạng, cho Xã bộ nông. Có nơi Xã bộ nông cho tự vệ đến nhà chánh tổng, hương lý tịch thu triện, sổ sách, tài liệu đưa về cho Bí thư Nông hội quản lý. Các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đứng ra đảm đương nhiệm vụ của một cơ quan chính quyền cách mạng, chăm lo giải quyết mọi công việc về kinh tế, chính trị, văn hoá cho Nhân dân. Nhân dân được hưởng các quyền lợi càng hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh, các sinh hoạt do Xã bộ nông, Thôn bộ nông chủ trương, điều hành.
Tình hình đó đã làm cho trật tự cách mạng, chính quyền Nhân dân hình thành trên thực tế tương đối phổ biến ở nhiều thôn, xã trong huyện, với trình độ, quy mô, tác dụng khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Những nơi hình thành rõ rệt và duy trì được khá lâu hình thức chính quyền Xô viết là Hà Linh (Hương Hà), Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông Ấp (Hương Thu), Thượng Thạch (Hương Thủy), Phúc Hội, Văn Đồng (Hương Đồng), Xuân Lũng (Hương Xuân), Phú Phong (Hương Phong), Phúc Ấm (Hương Long), Phú Gia (Hương Phú), Đô Khê (Hương Đô), Tế Lễ (Hương Tân), Hương Khê (Hương Thọ), Vân Cù, Hương Thụ (Hương Minh), Đan Trai, Khê Thượng (Hương Đại)...
Trên phạm vi toàn tỉnh Hà Tĩnh và các vùng Nghệ - Tĩnh, đến đầu năm 1931, phong trào cách mạng của quần chúng công nông do Đảng lãnh đạo cũng phát triển rầm rộ, xuất hiện nhiều làng xã Xô viết. Trong bối cảnh đó, cuối tháng 3/1931, Đảng bộ Hà Tĩnh tiến hành Đại hội tại làng Thượng Nga (Nga Lộc, Can Lộc) với sự có mặt của đại biểu từ 5 Đảng bộ huyện, trong đó có đại biểu của Đảng bộ Hương Khê. Đại hội nhận định khí thế cách mạng trong tỉnh đang lên cao, song đời sống Nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, kẻ địch đang có kế hoạch đàn áp dập tắt phong trào, do đó cần tiếp tục đẩy mạnh, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, mua sắm vũ khí đối phó với sự đàn áp của địch... Đại hội đã nhất trí bầu Tỉnh ủy mới do đồng chí Mai Kính làm Bí thư.
Theo chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh và để củng cố, tăng cường cuộc đấu tranh chung, tháng 4/1931, Huyện ủy Hương Khê đã mở Hội nghị mở rộng kiểm điểm tình hình, nhận định âm mưu địch và đề ra chủ trương đối phó.
Về kinh tế, Huyện ủy chủ trương trong vụ chiêm năm 1931 phải lãnh đạo nông dân đấu tranh giành cho được một phần lúa của địa chủ, thu hoa lợi trên các đám ruộng đất công chia cho nông dân, hoãn hoặc giảm nợ khi ngày mùa tới. Ruộng đất công còn lại được giao cho từng thôn, từng giáp quản lý cày bừa chung, hoặc chia cho nông dân nghèo. Thủ đoạn của địch là thường thu thuế trước vụ gặt, nên Huyện ủy chủ trương vận động quần chúng đấu tranh chống thu thuế trước kỳ hạn.
Về chính trị, Huyện ủy chỉ đạo củng cố các tổ chức quần chúng vững mạnh, phát động quần chúng tham gia đấu tranh với tinh thần tự nguyện. Củng cố Thôn bộ nông, Xã bộ nông để đủ khả năng đảm đương mọi việc trong thôn xã. Tiếp tục vận động hương lý bỏ nhiệm vụ, tranh thủ số hương lý có tư tưởng tiến bộ, đồng thời trừng trị những tên gian ác, nhằm làm tê liệt bộ máy chính quyền địch ở các địa phương.
Về xây dựng Đảng, Huyện ủy chủ trương thành lập các phân bộ để hoạt động cho thuận lợi và xây dựng các chi bộ bí mật gồm những đảng viên chưa bị lộ, phòng khi địch khủng bố vẫn còn cán bộ cốt cán lãnh đạo phong trào.
Những chủ trương của Hội nghị Đảng bộ tháng 4/1931 được phổ biến xuống cho các chi bộ, các cơ sở cách mạng, được Nhân dân hưởng ứng và được các Thôn bộ nông, Xã bộ nông tích cực thực hiện. Các chi bộ đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành một số quyền lợi kinh tế trong vụ chiêm năm 1931 như hoãn nợ, giảm nợ, chống thu thuế trước vụ gặt, chia nốt số ruộng đất công còn lại cho nông dân nghèo hoặc giao cho thôn, giáp quản lý. Ở những nơi có chính quyền Xô viết, Nhân dân phấn khởi thực hiện chủ trương của Đảng, xóm làng được quét dọn vệ sinh sạch sẽ, nhiều Xã bộ nông tổ chức đào mương, đắp đập, làm thuỷ lợi, khai hoang, phục hoá.
Các lớp học quốc ngữ được mở ở nhiều thôn, xóm, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong Nhân dân được nâng lên, nhất là khi có người bị hy sinh, bị thương do đấu tranh với địch, hoặc khi có ốm đau, sinh đẻ, qua đời...
Cán bộ các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đã tận tuỵ làm việc vì dân, ngày đêm sốt sắng với công việc do Nhân dân giao phó mặc dù không có kinh nghiệm và không có chế độ ưu đãi gì. Ngoài việc hành chính, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông còn lo giải quyết các công việc về kinh tế, văn hoá, quân sự, chia ruộng đất, phân phối hoa lợi, lập kế hoạch chống địch khủng bố... Nhân dân Hà Linh đã ngày đêm gặt, đập, trục lúa tập thể và lập 2 kho chứa 150 tạ lúa thu hoạch được trên ruộng đất công để chia cho nông dân nghèo trong xã. Không chỉ có hoa lợi trên ruộng đất công mà số ruộng đất do các địa chủ ở nơi khác đến phát canh trên 22 mẫu cũng bị Xã bộ nông tịch thu chia cho nông dân. Ở nơi ruộng đất công ít như Vân Cù (Hương Thụ), Xã bộ nông cho gặt lúa ở một số ruộng của địa chủ, cường hào gian ác để chia cho những gia đình nghèo túng.
Sau khi chia xong hoa lợi, các Thôn bộ nông, Xã bộ nông đã tổ chức chia số ruộng đất công vừa giành được cho Nhân dân trong xã. Các cuộc đấu tranh đòi chia ruộng đất công và hoa lợi trong vụ chiêm năm 1931 đã mở rộng thành các cuộc đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, giảm nợ lãi, bỏ lễ lạt giữa năm. Những cuộc đấu tranh này đều giành được thắng lợi làm cho Nhân dân phấn khởi và cổ vũ thêm tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Trước sức mạnh của phong trào cách mạng, một số lý trưởng, hương lý làm việc “hai mang”. Số hương lý này tuy bề ngoài là người của chính quyền địch nhưng khi làm việc gì đều hỏi ý kiến Xã bộ nông. Âm mưu của thực dân thu thuế năm 1931 trước kỳ hạn cũng bị thất bại. Nhân dân các xã thuộc tổng Trại La đã đấu tranh chống thu thuế rất quyết liệt. Các Xã bộ nông đứng ra thu thuế để làm quỹ công, không nạp lên cho chính quyền địch.
Ở xã Đông Ấp, các bộ thuế đều được sửa lại cho công bằng, hợp lý và chỉ thu thuế đối với những người có khả năng, còn người nghèo đều được miễn giảm. Ở các xã Đô Khê, Trung Hà, Nam Trạch, địch phải cho bang tá đưa lính về khủng bố nhưng vẫn không thu được đủ số thuế đã định. Đặc biệt, ở Hà Linh, nông dân nộp thuế cho Xã bộ nông để gây quỹ, không nộp cho hương lý, chi bộ chủ trương xóa bỏ sưu thuế và buộc hào lý phải nghe theo. Các địa chủ Cựu Châu, Cựu Tùng đã phải bán hơn 30 con trâu bò để lấy tiền nạp thuế cho tri huyện bù vào số tiền thuế không thu được.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê, đế quốc, phong kiến sau một thời gian hoang mang, cố thủ đã tiến hành nhiều biện pháp ngăn chặn, đàn áp cách mạng. Chúng tổ chức mạng lưới mật thám, chỉ điểm từ huyện xuống xã để dò xét hành động của cán bộ, đảng viên và báo cho lính về bắt bớ. Đến đầu năm 1931, địch đã dựng lên ở Hương Khê 14 đồn binh và tổ chức ra một hệ thống bang tá, mỗi tên bang tá có 7 tên lính khố lục để lùng bắt cán bộ, đảng viên và đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng. Ở những địa phương có phong trào cách mạng mạnh, chúng cho đóng đồn dày đặc như ở tổng Trại La và các xã Trúc Lâm, Hà Linh, Phú Gia, Đô Khê,... Riêng ở Hà Linh và Đô Khê, mỗi xã chúng đóng 2 đồn ở hai đầu xã.
Mặc dù địch lập thêm nhiều đồn binh mới, ra sức khủng bố, đàn áp, song tinh thần cách mạng của cán bộ, đảng viên vẫn không nao núng, cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê vẫn tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh. Huyện ủy đã tìm cách liên lạc với với các tổng ủy, các chi bộ để giữ vững phong trào và sự lãnh đạo chung. Các cuộc mít tinh, biểu tình nổ ra ở khắp nơi, trong đó có những cuộc rất quyết liệt, có đổ máu.
Ngày 20/4/1931, ở Phú Phong, chi bộ Đảng tổ chức một cuộc mít tinh để công bố việc chia ruộng đất công và vận động quyên góp ủng hộ đồng bào tổng Trại La bị địch đốt phá nhà cửa, giết hại trâu bò, cướp bóc tài sản. Được một tên phản bội cấp báo, viên đồn trưởng đồn Chu Lễ đã đưa 12 lính về Phú Phong đàn áp, bắt một số cán bộ, đảng viên, trong đó có đồng chí bí thư chi bộ, làm cho quần chúng càng sôi sục căm thù.
Huyện ủy đã chỉ đạo, vận động quần chúng các xã lân cận tập hợp lực lượng kéo đến Phú Phong hỗ trợ, giải vây cho số cán bộ bị bắt. Đồng chí cán bộ của Tỉnh ủy Hà Tĩnh tăng cường cho Đảng bộ Hương Khê có bí danh là Trung Kỳ đang công tác tại địa bàn Gia Phố (ở tại nhà đồng chí Nguyễn Cầu, Bí thư chi bộ xã) nhận được tin cũng đã cùng với giao thông viên kịp thời có mặt tại hiện trường để chỉ đạo cuộc đấu tranh[30].
Theo kế hoạch của Huyện ủy, chỉ 2 giờ sau, hơn 1.500 quần chúng các xã Phú Phong, Thượng Bình, Phúc Ấm, Phú Gia, Trừng Thanh, Xuân Lũng, Gia Phố do các đội tự vệ dẫn đầu, kéo đến bao bây quân lính, giải thoát cho những người bị bắt. Đoàn biểu tình của xã Phúc Ấm do đồng chí Phan Lũ, Bí thư chi bộ dẫn đầu đã xông vào bao vây tên đồn trưởng và lính đồn. Cuộc đấu tranh dẫn tới xung đột giữa tự vệ và lính đồn rất quyết liệt. Hoảng sợ trước khí thế của đoàn biểu tình, quân lính địch đã bắn chết đồng chí Phan Lũ, bắn bị thương đồng chí Mai Tác và một số tự vệ khác hòng chặn đứng cuộc đấu tranh.
Khi thấy nhiều đoàn biểu tình của các xã lân cận lần lượt kéo đến Phú Phong, địch hoảng sợ mở đường tháo chạy. Ra đến ngoài làng Phú Phong, chúng gặp đoàn biểu tình của xã Trừng Thanh (Hương Vĩnh). Cuộc xung đột diễn ra giữa quần chúng với binh lính địch. Địch vừa chạy vừa bắn, đến Rôộc Cồn, chúng lại gặp đoàn biểu tình của các xã Xuân Lũng, Phú Phong, Gia Phố ngăn chặn. Bí đường và sợ bị quần chúng trừng trị, quân địch đã hoảng sợ bắn súng bừa bãi vào các đoàn biểu tình làm 11 người bị chết và 6 người bị thương.
Tuy vậy, kẻ trước ngã, người sau lại xông lên, quần chúng liều mình vật lộn với địch, buộc chúng phải luồn lách nhiều đường mới thoát khỏi vòng vây của quần chúng cách mạng, rút về đồn Chu Lễ. Nhân dân các xã lân cận và nhiều xã khác đã nổi mõ, chiêng, trống hưởng ứng cuộc đấu tranh ở Rôộc Cồn, làm náo động cả vùng thượng huyện. Ngay trong đêm đó, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức lễ truy điệu, an táng cho những người hy sinh và cứu chữa người bị thương, động viên quần chúng tiếp tục xiết chặt đội ngũ chống khủng bố, bắt bớ.
Vụ Rôộc Cồn là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta với địch, tiêu biểu cho tinh thần dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, đảng viên và Nhân dân Hương Khê trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 ở Hương Khê và Hà Tĩnh.
Ngày 01/5/1931, trong khi ở các nơi phong trào lắng dần do địch khủng bố thì phong trào ở Hương Khê vẫn tiếp tục dấy lên mạnh mẽ bằng các cuộc mít tinh, biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Huyện ủy chủ trương tổ chức ngày kỷ niệm trọng thể theo chủ trương chung của Tỉnh ủy. Các khẩu hiệu tuyên truyền và đấu tranh của ngày 01/5 là:
Chống sưu thuế, bỏ tô tức, Tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, Thực hiện ngày làm việc 8 giờ, Bỏ chế độ khoán dây chuyền để bóc lột người công nhân, Ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Vinh - Bến Thủy, Chống khủng bố trắng, Ủng hộ Liên bang Xô viết, Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm,...
Cơ sở ấn loát của Tỉnh ủy đặt tại nhà thờ Đức Hầu Ngô Đăng Minh (còn gọi là nhà thờ họ Ngô), ở Trúc Lâm đã in nhiều truyền đơn với nội dung trên[31].
Theo sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, các đồng chí Ngô Lập, Ngô Hạp, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh thuộc chi bộ Trúc Lâm và một số đồng chí người Đô Khê, Trung Định được giao nhiệm vụ in ấn, phân phát tài liệu. Nguyên vật liệu (thạch, giấy, mực...) do một số cơ sở buôn chuyến, có sạp hàng ở chợ Trúc mua từ Vinh theo đò dọc ngược sông Ngàn Sâu chuyển lên[32]. Đồng chí Ngô Điểm và một số đồng chí khác làm nhiệm vụ giao thông chuyển truyền đơn đi các nơi.
Theo chủ trương chung và nội dung các tờ truyền đơn của Tỉnh ủy, các cuộc kỷ niệm được tổ chức trọng thể ở nhiều nơi trong tỉnh. Riêng ở Hương Khê, nhiều cuộc mít tinh kỷ niệm ngày 01/5/1931 đã được các chi bộ Đảng tổ chức, thể hiện tình đoàn kết công nông, đòi các quyền lợi cho công nhân, cho người lao động. Ngoài nông dân, lực lượng tham gia các cuộc mít tinh còn có nhiều công nhân, phu làm công ở các công trường đường sắt, đường bộ, các đồn điền. Khẩu hiệu có đủ các nội dung như: chống sưu thuế, tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, thực hiện ngày làm 8 giờ, bỏ chế độ khoán dây chuyền (khoán công đoạn), ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Vinh - Bến Thuỷ, chống khủng bố trắng....
Ở đồn điền Bùi Huy Tín, cuộc mít tinh đã đưa các yêu sách cho chủ đồn điền, như tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân, đòi cho nông dân được đi qua đồn điền vào rừng đốt than, lấy củi. Trước sự đấu tranh của quần chúng, chủ đồn điền phải nhận yêu sách và hứa sẽ thực hiện.
Từ giữa năm 1931, địch đã tăng thêm lực lượng đàn áp với hơn 100 tên, có vũ khí đầy đủ, thường trực ở các đồn Chu Lễ, Phương Trạch, chợ Trúc, Hà Linh... Lính đồn và phu đoàn, hương lý đã thẳng tay thực hiện cuộc khủng bố trắng đối với phong trào cách mạng của quần chúng, gây nên nhiều tổn thất cho phong trào. Hàng loạt cán bộ, đảng viên bị bắt, hầu hết quần chúng có tham gia đấu tranh đều bị áp bức, nhà của bị đốt phá. Các địa phương có làng Xô viết bị vây ráp, khủng bố nhiều lần với thủ đoạn đốt phá, cướp bóc, bắt bớ, “quy thuận”. Khắp nơi, mật thám, lính đồn, phu đoàn truy bắt cán bộ, tổ chức học tập và phát thẻ quy thuận.
Để khắc phục khó khăn cho phong trào, Huyện ủy chủ trương chống khủng bố trắng của địch, chỉ đạo các chi bộ cử những người chưa bị lộ ra thay thế những đồng chí bị bắt để duy trì phong trào. Nhiều chi bộ có kế hoạch giáo dục, thuyết phục anh em đoàn phu giúp đỡ cán bộ hoạt động, làm theo ý kiến của cán bộ, đảng viên. Các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm đã sử dụng một số anh em đoàn phu được giác ngộ canh gác, bảo vệ các cuộc hội họp của Đảng. Việc đấu tranh không nhận thẻ quy thuận cũng diễn ra ở nhiều thôn xã. Có các cuộc họp nhận thẻ quy thuận do hương lý tổ chức đã biến thành các cuộc đấu tranh, xé bỏ những thẻ do chúng mang về định phát cho Nhân dân.
Dù rất cố gắng, song do sự khủng bố ác liệt của địch, số cán bộ, đảng viên bị bắt đưa về giam giữ ở nhà lao của huyện (Chu Lễ) ngày càng nhiều, làm cho phong trào thiếu các hạt nhân, thiếu lãnh đạo. Huyện ủy chủ trương phải giải thoát một số đồng chí bị bắt bằng cách tổ chức một cuộc biểu tình trong toàn huyện và kéo lên huyện phá nhà lao.
Theo kế hoạch, đêm 12/5/1931, đoàn biểu tình thuộc các xã vùng thượng huyện kéo đi bao vây đồn Chu Lễ để ngăn chặn quân địch, không cho chúng kéo quân xuống huyện lỵ, tạo điều kiện cho đoàn biểu tình các xã hạ huyện kéo lên phá nhà lao.
Do hiệp đồng thời gian không khớp, đường xa, nên đoàn biểu tình của các xã thượng huyện đã xuống chậm, không bao vây được đồn Chu Lễ như dự kiến. Trong khi đó, hàng ngàn quần chúng các xã hạ huyện theo kế hoạch vẫn rầm rập kéo lên huyện lỵ, phá hàng rào, xông vào huyện đường. Quân lính và nha lại hoảng sợ không dám giở thủ đoạn gì, nhưng tên tri huyện đã liên lạc với tên đồn trưởng Chu Lễ cho lính xuống giải vây huyện lỵ. Lính đồn Chu Lễ lập tức kéo xuống huyện lỵ, chiếm lại các công sở, cứu thoát tên tri huyện. Chúng đã bắn vào đám đông quần chúng hạ huyện ở huyện đường, làm chết một số đội viên tự vệ. Cuộc đấu tranh phá nhà lao của Nhân dân hạ huyện bị đàn áp, các đoàn biểu tình phải giải tán.
Sau cuộc đấu tranh của Nhân dân tiến công huyện đường Chu Lễ, địch càng thẳng tay đàn áp, khủng bố dã man hơn. Chúng gạt bỏ hoặc bắt giam số hương lý mà chúng cho là bất lực hoặc bị cộng sản lôi kéo và cho những tên phản động gian ác nhất thay thế. Các điếm canh được dựng lên khắp các ngả đường để kiểm soát việc đi lại của Nhân dân. Cán bộ, đảng viên lần lượt bị địch bắt. Những người bị tình nghi, ban đêm phải tập trung ra các điếm canh ngủ để hương lý theo dõi, quản lý, đề phòng họ đi hội họp, hoạt động cách mạng. Muốn ra khỏi xã, họ phải xin phép hương lý, kể cả đi giỗ chạp, cưới xin, ma chay.
Trước sự khủng bố, bao vây của địch, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã chủ trương lập ra các cơ quan chỉ đạo từng vùng để sát với cơ sở. Vùng Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê do Thường vụ La - Hương - Hương phụ trách[33]. Do cán bộ chủ chốt các cấp thay đổi liên tiếp, thiếu kinh nghiệm đấu tranh, cơ sở bí mật chưa kịp xây dựng, mặt khác hình thức, quy mô, mục tiêu đấu tranh chậm thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới nên lực lượng của Đảng vẫn tiếp tục bị tổn thất nghiêm trọng.
Ở Hương Khê, cơ quan Huyện ủy thường xuyên phải di chuyển, các chi bộ rút vào hoạt động bí mật tuyệt đối, các hình thức hoạt động công khai giảm dần. Đến tháng 7/1931, cơ quan Huyện ủy phải rút vào rừng (chủ yếu là vùng Động Đỏ, Truông Bát), hoạt động rất khó khăn. Các huyện ủy viên Trần Suất, Phạm Quang Nậm bị địch bắn bị thương, một số khác bị địch bắt. Huyện ủy chỉ liên lạc được với một vài chi bộ như Hà Linh, Trúc Lâm. Cuối tháng 8/1931 (20/7 âm lịch), cơ quan ấn loát tài liệu của Tỉnh ủy và Huyện ủy đặt ở Lòi nhà thờ Đức Hầu Ngô Đăng Minh (Trúc Lâm) bị địch phát hiện, đánh phá. Các đảng viên người Trúc Lâm làm nhiệm vụ ấn loát phải thoát ly khỏi địa phương, dụng cụ in ấn bị địch tịch thu. Quân địch cho lính của 3 đồn Phương Trạch, Trúc Lâm, Hà Linh thường xuyên vào rừng lùng sục tìm bắt cán bộ, đảng viên.
Đến tháng 10/1931, Đồng chí Mai Phì, Bí thư Huyện ủy trên đường về Hà Linh công tác bị sa lưới địch; Đồng chí Ngô Quốc Văn, Bí thư Huyện đoàn Thanh niên Cộng sản[34] và đồng chí Dương Phương (người Hương Bình) bị mật thám phục bắt ở Lòi Quyền (Hương Châu). Phần lớn các huyện ủy viên, các bí thư chi bộ và hầu hết đảng viên, cùng nhiều quần chúng có liên quan, hoặc do bị truy lùng đến tận nơi ẩn náu cuối cùng hoặc bị phản bội, chỉ điểm khai báo đều lần lượt sa lưới địch. Chỉ có một số ít thoát được ra nước ngoài hoạt động, tránh địch và một số khác chưa bị lộ còn ở lại địa phương, song bị theo dõi gắt gao, mất liên lạc, không hoạt động được. Các nhà lao huyện, tỉnh chật ních tù nhân. Địch đã phân loại đối tượng tù chính trị, những cán bộ và đảng viên chủ chốt mà chúng cho là nguy hiểm bị đưa đi đày biệt xứ ở các nhà tù xa địa phương, như Lao Bảo, Kon Tum, Buôn Ma Thuột...
Đến cuối năm 1931, hầu hết cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Hương Khê đều bị bắt giữ, bị tù đày. Các chi bộ và cơ quan Huyện ủy đều bị địch phá vỡ, chỉ còn chi bộ Hà Linh còn một số cơ sở cách mạng, là chỗ dựa để Huyện ủy duy trì bộ máy thêm được một thời gian. Cũng như cả nước và vùng Nghệ - Tĩnh, phong trào đấu tranh của Nhân dân Hương Khê dưới sự lãnh đạo của Đảng lắng xuống, các làng Xô viết ở Hương Khê bị xoá bỏ, phong trào cách mạng đi vào thoái trào.
Phong trào Xô viết ở Hương Khê nằm trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh bị thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do tương quan lực lượng kẻ địch còn rất mạnh, do chính sách khủng bố trắng dã man, xảo quyệt của chúng. Mặc dù thất bại, song thành quả của cao trào cách mạng 1930 - 1931 và sự ra đời, hoạt động của các Xô viết ở Hương Khê là hết sức to lớn, có ý nghĩa sâu sắc về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Các Xô viết Hương Khê chỉ tồn tại được một thời gian ngắn, từ cuối năm 1930 đến tháng 7/1931, nhưng đã thể hiện tính chất của một chính quyền cách mạng, đưa lại nhiều quyền lợi thiết thực cho Nhân dân. Về kinh tế, hầu hết ruộng đất công ở các xã vốn bị hào lý, chức sắc chiếm đoạt đã được các Xô viết giành lại và đem chia cho nông dân. Sự nhũng lạm của hào lý trong việc thu thuế bị xóa bỏ. Địa chủ đã bị buộc phải giảm tô, giảm tức, giảm lãi vay nợ cho nông dân, phải bỏ tiền của ra sửa sang đường sá, cầu cống ở nông thôn. Về chính trị, mọi người dân đều được hưởng các quyền tự do dân chủ, tự do hội họp, tự do đọc sách báo, tự do ngôn luận; nam nữ bình đẳng, xóa bỏ mọi quyền ăn trên ngồi trốc của hào lý, chức sắc địa phương. Về văn hoá, xã hội, các phong tục, tập quán ở nông thôn được cải cách, thực hiện đời sống mới. Các hủ tục về cưới xin, ma chay, đình đám được bài trừ, các lớp học chữ quốc ngữ được mở mang ở nhiều thôn xóm...
Trong những ngày sống dưới chính quyền Xô viết, Nhân dân Hương Khê vô cùng phấn khởi vì bao đời bị áp bức bóc lột nay mới được hưởng các quyền làm người. Cán bộ không ngại hy sinh gian khổ, lo giải quyết mọi quyền lợi cho quần chúng. Nhân dân một lòng tin tưởng ở Đảng, hết lòng bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ. Trong một thời gian dài, các tổ chức Đảng, các cán bộ của Huyện ủy và các cấp ủy làng xã được Nhân dân che chở, tránh được sự bắt bớ của địch.
Qua phong trào, vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ được khẳng định trên thực tế, đã hình thành được lực lượng cách mạng to lớn là khối liên minh công - nông. Việc đánh đổ chính quyền địch, xây dựng nên chính quyền Xô viết công - nông đã cho thấy truyền thống đấu tranh yêu nước bất khuất và khả năng sáng tạo của Nhân dân trong huyện. Tuy có nhiều hy sinh, song qua đấu tranh quyết liệt, chịu cảnh tù đày, thực tiễn phong trào đã tôi luyện được một đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường và để lại những kinh nghiệm cho Đảng trong đấu tranh giành và giữ chính quyền,... Chính vì vậy, phong trào Xô viết Hương Khê và cuộc đấu tranh cách mạng thời kỳ này đã góp phần tạo nên cao trào chung của Hà Tĩnh, của Nghệ - Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám sau này...
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Hương Khê chẳng những đã được Nhân dân trong huyện lúc bấy giờ hào hứng tham gia, nhiệt tình xây dựng và quyết tâm bảo vệ mà còn được các thế hệ sau này trân trọng, ghi nhớ. Sự ra đời của Đảng bộ huyện, sự hình thành cao trào cách mạng sục sôi suốt gần hai năm liền do Đảng bộ lãnh đạo, sự xuất hiện các làng xã Xô viết, chính quyền cách mạng của Nhân dân ở nhiều làng xã trong thời kỳ này mãi mãi là niềm tự hào, nguồn động viên tinh thần to lớn cho Đảng bộ và quân dân trong huyện đi lên trong mọi chặng đường cách mạng, xây dựng và bảo vệ quê hương.
CHƯƠNG II ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1932 - 1945)
I. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG (1932 - 1939)
Từ cuối năm 1931, cùng với các địa phương khác, phong trào cách mạng của Nhân dân Hương Khê bị kẻ địch khủng bố hết sức tàn khốc.
Ngày 19/01/1932, Tỉnh ủy Hà Tĩnh bị địch phá vỡ. Một số đồng chí thoát được vòng vây của địch đã rút lên vùng rừng núi của Hương Khê, sau đó tìm đường qua Lào sang Thái Lan. Số này đã bắt liên lạc với một số đảng viên người Việt Nam hoạt động ở đây lập ra Đông Dương viện trợ bộ để phục vụ mục tiêu khôi phục các cơ sở Đảng ở trong nước[35]. Hầu hết cán bộ, đảng viên, quần chúng cốt cán bị địch bắt vào các nhà lao. Hàng trăm ngôi nhà bị đốt phá, cướp bóc, các chi bộ Đảng đều bị phá vỡ, các Xô viết ngừng hoạt động. Đồn bốt, điếm canh của địch mọc lên khắp nơi, bọn mật thám, chỉ điểm ngày đêm lùng sục, bắt bớ, truy lùng các chiến sĩ cộng sản. Chúng cố tạo ra bầu không khí căng thẳng, sợ hãi, bất an trong quần chúng hòng khuất phục cuộc đấu tranh của Nhân dân Hương Khê bằng vũ lực.
Mặt khác, chúng cũng cho giảm một số hình thức đóng góp, hô hào cải cách hương thôn, chấn hưng kinh tế, gieo rắc tư tưởng mê tín dị đoan, khuyến khích khôi phục các hủ tục như: xây dựng, sửa chữa các nhà thờ, đình chùa, đền miếu, lễ lạt. Kết hợp các thủ đoạn đó, kẻ địch mong làm lung lạc tinh thần cách mạng của Nhân dân Hương Khê, hướng họ đi vào con đường an phận, thủ thường, xa rời con đường đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Tuy vậy, các đồng chí bị địch bắt vẫn một lòng một dạ trung kiên cách mạng, tiếp tục tham gia các cuộc đấu tranh trong các nhà tù đế quốc, tìm cách trở về hoạt động. Một số đồng chí bị chúng đưa về quê xử bắn vẫn hiên ngang trước lúc hy sinh. Những đồng chí còn lại tìm cách liên lạc, móc nối cơ sở, khôi phục tổ chức Đảng và phong trào. Chi bộ Hà Linh là nơi duy trì được thời gian hoạt động lâu nhất sau cuộc khủng bố trắng của địch, trở thành nơi liên lạc, giúp đỡ các đảng viên và phong trào chung cho các nơi. Bộ máy chính quyền địch ở Hà Linh tuy được lập lại nhưng do chi bộ đã giáo dục, thuyết phục được các hương lý nên mọi công việc trong thôn xã đều được giải quyết theo ý kiến của cán bộ, đảng viên. Thôn Sa Long của xã này vẫn là nơi che giấu, nuôi nấng, giúp đỡ đối với cán bộ Đảng trong và ngoài huyện trú ngụ, hoạt động. Nhiều chiến sĩ cách mạng từ các nơi tìm đường sang Thái Lan qua con đường Hương Khê đã được Nhân dân, các cơ sở Đảng nơi đây giúp đỡ mọi mặt trong quá trình di chuyển.
Trong các trại giam của đế quốc, như Bắc Nhì (Hà Tĩnh), Lao Bảo, Ly Hy, Buôn Ma Thuột, Đắc Min, Côn Đảo... tuy bị đày ải, lao động khổ sai, bị đánh đập, tật bệnh, nhưng các đồng chí cán bộ, đảng viên Hương Khê vẫn luôn luôn giữ vững khí tiết cách mạng của người cộng sản, vẫn tham gia sinh hoạt Đảng trong các chi bộ nhà lao và đoàn kết đấu tranh chống mọi chế độ hà khắc của nhà tù. Những đồng chí bị giam ở nhà lao Thị xã Hà Tĩnh đã tìm cách liên lạc với chi bộ Hà Linh để trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ kế hoạch hoạt động. Các đảng viên bị tù ở Lao Bảo, Ly Hy... vẫn tìm mọi cách liên lạc với các đồng chí còn lại ở nhà, nhờ mua thuốc gửi vào chữa bệnh cho các đồng chí đau yếu.
Nhiều tấm gương sáng của đảng viên cộng sản người Hương Khê đã nêu cao tinh thần kiên cường, bất khuất như đồng chí Lê Nghi (xã Văn Đồng) tuy bị địch cùm kẹp tra tấn thối cả hai chân vẫn không khai báo một lời nào có hại cho Đảng, cho cách mạng. Các đồng chí Trần Rạng, Hồ Sỹ Cung khi bị địch đưa ra xử bắn vẫn hiên ngang tố cáo tội ác, nhổ vào mặt quân thù...
Tháng 6/1932, các đồng chí huyện ủy viên và cán bộ trước đây thoát sang Lào, Thái Lan, sau khi nhận được chỉ thị của Đông Dương viện trợ bộ (tổ chức của Đảng ta ở Thái Lan), đã tìm cách trở về nước, liên lạc với các đồng chí còn lại ở Hà Linh để phục hồi Đảng bộ. Trước hết, các đồng chí đã củng cố lại chi bộ Hà Linh, từ đó móc nối phục hồi các chi bộ Trúc Lâm, Phúc Hội. Các chi bộ này đã liên lạc với nhau vận động quần chúng tiếp tục giữ vững niềm tin vào Đảng, giúp đỡ nhau chống khủng bố và tỉnh táo trước sự lừa bịp của đế quốc, phong kiến. Phong trào cách mạng ở Hương Khê có sự hồi phục với các hoạt động thích hợp, như quyên góp tiền ủng hộ Đông Dương viện trợ bộ ở Thái Lan.
Đến năm 1934, một số đồng chí bị giam giữ ở các nhà tù hết hạn chịu án, được trả về địa phương lại tìm cách phục hồi cơ sở Đảng, phát triển đảng viên. Các chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm, Phúc Hội đã có tới 20 đảng viên. Do Huyện ủy chưa được khôi phục, các chi bộ này đã liên lạc và thuộc sự chỉ đạo của Bạn Chấp hành Liên tỉnh Nghệ - Tĩnh. Phong trào cách mạng của Nhân dân Hương Khê những năm 1934 -1935 được hồi phục và hoạt động theo Chương trình hành động của Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng, nhất là trong đấu tranh chống sưu thuế, cải thiện đời sống cho Nhân dân. Để khôi phục Đảng bộ, các đồng chí trong chi bộ Hà Linh và Trúc Lâm đã tìm cách liên lạc với đồng chí Nguyễn Chữ (xã Phú Phong) và đồng chí Dương Phương (Nam Trạch) để thành lập các chi bộ ở vùng thượng huyện nhằm tiến tới thành lập Huyện ủy. Công việc đang tiến triển thì địch lại khủng bố, kiểm soát gắt gao việc đi lại nên các đảng viên lại bị bắt, các chi bộ mới phục hồi lại bị phá vỡ, chỉ còn lại chi bộ Hà Linh tồn tại, song hoạt động hết sức khó khăn.
Tháng 3/1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) đánh dấu sự khôi phục của Đảng và phong trào cách mạng cả nước. Thành công của Đại hội đã cổ vũ cán bộ, đảng viên, Nhân dân Đông Dương thêm tin tưởng và tiếp tục cuộc đấu tranh. Tuy nhiên ở Hương Khê, cơ quan Huyện ủy vẫn chưa được khôi phục.
Sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, chủ nghĩa tư bản lại hồi phục, và lúc này xuất hiện chủ nghĩa phát xít, quân phiệt ở Đức, Italia, Nhật, đặt loài người trước nguy cơ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh phát xít.
Thực hiện chủ trương chung của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản và tranh thủ điều kiện thuận lợi do Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp ban hành các chính sách tự do, dân chủ có lợi cho thuộc địa, tháng 7/1936, Hội nghị Trụng ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam cho hợp với tình hình mới. Đó là chủ trương tạm gác hai khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng” để tập trung vào thực hiện mục tiêu vừa phải, thích hợp, có tính chất trước mắt là “tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống chiến tranh phát xít”. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất Nhân dân phản đế Đông Dương (Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Lực lượng tham gia là mọi giai cấp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình bằng biện pháp công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp là chính...
Tháng 10/1936, Tỉnh ủy Hà Tĩnh được lập lại do đồng chí Trần Giáp làm Bí thư. Tiếp đó, các Huyện ủy lâm thời Hương Khê, Can Lộc, Nghi Xuân được khôi phục. Tỉnh ủy và các Huyện ủy đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng sang thời kỳ mới phù hợp với chủ trương chung của Trung ương Đảng. Đến tháng 4/1938, Đảng bộ Hà Tĩnh tổ chức Đại hội tại Đan Chê (Thạch Long, Thạch Hà) có đại biểu của Đảng bộ Hương Khê. Đại hội quyết định 10 nhiệm vụ mới như: chỉnh đốn nội bộ Đảng, tăng cường công tác tuyên truyền, mở rộng thành phần các hội quần chúng, đẩy mạnh truyền bá quốc ngữ, cải thiện đời sống Nhân dân, chống chiến tranh phát xít,...
Theo chủ trương mới của Đảng, khắp xứ Đông Dương lại xuất hiện một cao trào đấu tranh mới là cuộc vận động dân chủ do Đảng ta lãnh đạo kéo dài suốt từ năm 1936 đến năm 1939. Trong cao trào dân chủ này, các cuộc đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp với mục tiêu dân sinh, dân chủ chống chiến tranh phát xít đã diễn ra sôi nổi. Nhiều báo chí của Đảng được in ấn công khai đẩy mạnh tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương của Đảng trong quần chúng. Phong trào học chữ quốc ngữ, các hội biến tướng được thành lập thu hút đông đảo Nhân dân tham gia các hội ái hữu, các tổ chức dân chủ. Nhiều chính trị phạm được ân xá về lại địa phương...
Ở Hương Khê, trong cuộc vận động dân chủ sôi nổi đó, tuy không thật mạnh mẽ như các vùng thị thành, song các hình thức đấu tranh dân chủ cũng được đẩy mạnh. Các đảng viên mới ra tù đã mang theo tinh thần chủ trương của Đảng về phổ biến cho các đồng chí đang hoạt động ở địa phương. Chi bộ Hà Linh là nơi tập hợp đảng viên, cán bộ mới ra tù và số còn lại ở các địa phương để khôi phục, củng cố Đảng bộ. Được Tỉnh ủy giúp đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn, ngoài chi bộ Hà Linh, các chi bộ Trúc Lâm, Phúc Hội, Nam Trạch lại được khôi phục. Các đảng viên của các chi bộ này đã liên lạc với nhau chuẩn bị lập lại Huyện ủy.
Với chủ trương nắm được từ trong nhà tù và hưởng ứng phong trào chung của các địa phương khác, ở Hương Khê, các hình thức của cao trào dân chủ được phát triển. Tổ chức phường hội được xây dựng rộng khắp trong các vùng nông thôn toàn huyện. Ngoài các phường hội đã có như: hội lợp nhà, phường đưa ma, phường săn, phường cấy, phường gặt, địa phương có thêm các hội mới như: hội đá bóng, hội ái hữu, hội học chữ quốc ngữ, hội đọc sách báo... để giúp nhau trong lao động, sản xuất, cuộc sống, học tập. Các tổ chức biến tướng cũng ra đời dưới hình thức hiệu buôn hàng tạp hoá, hiệu cắt tóc, quán bán nước chè xanh... để làm nơi tụ hội, liên lạc của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Các phường hội cũ và mới, các hội ái hữu, hội biến tướng ở Trúc Lâm, Phúc Hội, Phú Phong, Xuân Lũng, Tế Lễ, Đông Ấp, Nam Trạch, Trung Định, tổng Trại La... đã hướng các hoạt động công khai, hợp pháp vào sản xuất, chăn nuôi, làm nhà, chia lại ruộng đất công, dạy chữ quốc ngữ, xây trường học cho con em, sửa lại cầu cống, đường làng, vận động đưa người tiến bộ vào các chức sắc địa phương, giúp đỡ các gia đình có chính trị phạm đang bị lưu đày.
Hà Linh là nơi có tổ chức hội biến tướng phát triển mạnh, có tới 6 hội biến tướng, thu hút 225 hội viên. Các hội biến tướng có kế hoạch sản xuất chung, lấy tiền làm quỹ và thu được 135 thúng lúa, 85 đồng bạc và nuôi 8 con bò. Ruộng đất công giành được trong phong trào Xô viết, trước chia cho tráng đinh, nay được chia công bằng, hợp lý hơn, chú ý đến những gia đình nghèo đói, những gia đình có người bị tù đày hoặc có tài sản bị cướp, và cho cả chị em phụ nữ có khó khăn. Chi bộ Hà Linh còn vận động nhân dân góp tiền, góp vật liệu làm được một trường học để dạy chữ quốc ngữ cho trẻ em và cả người lớn ở thôn Sa Long. Đường sá, cầu cống được sửa sang lại. Bộ máy hương lý ở thôn xã tuy vẫn là của địch, nhưng chi bộ Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh đưa những người tiến bộ vào, thực thi nhiều chủ trương của chi bộ.
Các chi bộ Đảng ở Trúc Lâm, Phúc Hội, Phú Phong, Xuân Lũng, Tế Lễ, Đông Ấp, Nam Trạch, Trung Định cũng tổ chức được nhiều hội biến tướng và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh hợp pháp, chống sự bóc lột của địa chủ và sự hà hiếp của hương lý. Các đồng chí Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Quốc Xướng đóng vai người bán bánh để đi Can Lộc và xuống Thị xã Hà Tĩnh liên lạc với Tỉnh ủy nhận chỉ thị hoạt động. Hiệu sách Liên Thành thư quán ở Thị xã do Tỉnh ủy tổ chức là nơi các đồng chí đến bắt liên lạc và mua sách báo tiến bộ về phổ biến trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Các chi bộ Trúc Lâm, Hà Linh đã tổ chức được các đội tuyên truyền lưu động để đi các xã lân cận phổ biến, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng.
Tết Nguyên đán năm 1939, đội tuyên truyền chính trị của chi bộ Trúc Lâm đã hoạt động lưu động ở các xã Phúc Đồng, Phúc Hội, Đông Ấp, đến các chợ lớn trong huyện và ga Chu Lễ biểu diễn văn nghệ, võ thuật để tập hợp quần chúng, bán sách báo, nói chuyện thời sự, chuyện cổ tích thu hút đông đảo quần chúng tham dự. Qua các hoạt động đó, đội đã phổ biến tình hình thời cuộc và chủ trương của Đảng, hô hào mọi người phát huy tinh thần yêu nước, tham gia phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống chiến tranh phát xít,..,
Một hình thức đấu tranh khá phổ biến ở Hương Khê thời kỳ 1936 - 1939 là tranh chấp ảnh hưởng đối với Nhân dân giữa phe Hộ (Nhân dân nghèo, đảng viên) và phe Hào (các chức sắc, địa chủ). Hình thức đấu tranh này vốn có từ trước, nay được các chi bộ tích cực sử dụng để chống đế quốc, phong kiến cả về kinh tế và chính trị xã hội. Ở Trúc Lâm, phe Hộ đã vận động lợp nhà, cưới xin, ma chay không ăn cơm, được Nhân dân hưởng ứng, cô lập, tẩy chay được việc ăn uống linh đình, tốn kém của phe Hào. Trong các cuộc bầu chức sắc địa phương, những người do chi bộ đề cử được phe Hộ ủng hộ, giành phiếu cao, giữ các chức vụ hương lý, có lợi cho phong trào chung.
Trên cơ sở phong trào quần chúng phát triển và lợi dụng điều kiện công khai, việc khôi phục đảng bộ, chắp nối liên lạc với Tỉnh ủy được các cán bộ, đảng viên Hương Khê tích cực thực hiện. Tuy nhiên, do lúc này trong nội bộ Đảng có phần tử Đinh Văn Di là Bí thư Xứ ủy phản bội nên Tỉnh ủy mới khôi phục lại bị phá vỡ.
Vì vậy, Huyện ủy Hương Khê không thành lập lại được, các chi bộ luôn bị mất phương hướng và đầu mối hoạt động. Tình hình đó khiến cho phong trào vận động dân chủ ở Hà Linh và Hương Khê phát triển thường chậm hơn so với một số tỉnh, thành khác, hơn thế có lúc còn hoạt động trong điều kiện không có chỉ đạo rõ ràng, thiếu phối hợp chung, không như phong trào thời kỳ 1930 - 1931.
Cuối năm 1939, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị thời chiến, khủng bố Đảng Cộng sản, cấm các hoạt động dân chủ, thì các cơ sở Đảng ở Hương Khê lại bị địch đánh phá, vỡ lở tiếp, phong trào lại lắng xuống. Hầu hết đảng viên, kể cả số chính trị phạm mới được tha về lại bị địch bắt, đưa đi lưu đày, an trí ở những nơi xa xôi, như Buôn Ma Thuật, Đắc Min, Kon Tum. Đảng bộ Hương Khê lại bị vỡ, phong trào tiếp tục thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng tại chỗ. Chỉ có một số nơi như: Vân Cù, Tế Lễ, Hà Linh, còn duy trì được một số cuộc đấu tranh chống hào lý nhũng lạm sưu thuế, giữ lại số ruộng đất công đã được chia từ thời kỳ trước.
Cuộc vận động dân chủ ở Hương Khê đến đây chấm dứt, Đảng bộ Hương Khê vẫn chưa được khôi phục đầy đủ.
II. LÃNH ĐẠO CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỰC HIỆN TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945)
Tháng 9/1939, mặc dù Nhân dân thế giới đã ra sức đấu tranh ngăn chặn, song cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai vẫn bùng nổ, mở đầu bằng việc quân đội phát xít Đức tấn công Ba Lan và Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Nước Pháp tham chiến đã kéo theo cả hệ thống thuộc địa của chúng, trong đó có Việt Nam vào cuộc chiến tranh. Quân phản động Pháp ở Đông Dương ra lệnh đàn áp phong trào dân chủ do Đảng ta lãnh đạo. Các tổ chức nghiệp đoàn ái hữu đều bị giải tán, sách báo tiến bộ bị tịch thu và bị cấm lưu hành, một số quyền lợi quần chúng mới giành được trong cuộc vận động dân chủ bị xóa bỏ. Những đảng viên, cán bộ vừa được ân xá, trở về nhà lại bị bắt và bị đưa đi lưu đày biệt xứ...
Đến tháng 9/1940, nhân lúc nước Pháp bị quân Đức đánh chiếm, phát xít Nhật đã cho quân tràn vào Đông Dương. Hai tên đế quốc, phát xít đã cùng nhau thỏa thuận chia sẻ quyền thống trị Đông Dương, đặt Nhân dân ta dưới hai tầng nô lệ ngoại xâm. Quân đế quốc, phát xít đã ra sức vơ vét sức người, sức của của Nhân dân Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của chúng. Các thứ thuế được tăng thêm, một số thuế mới được đặt ra; ngoài ra chúng còn tổ chức các cuộc lạc quyên, xổ số, bán công trái quốc gia, thu mua vàng, bạc, đồng và lạm phát giấy bạc, vơ vét của cải của Nhân dân ta để chúng có ngân quỹ chi tiêu cho chiến tranh. Việc bắt lính, bắt phu diễn ra thường xuyên để xây dựng sân bay, bến cảng, đường sá và đưa sang châu Âu làm bia đỡ đạn.
Cũng như các nơi khác, Hương Khê cũng lâm vào tình cảnh đen tối đó. Ngoài hệ thống đồn bốt của quân đội địch, các điếm canh của dân vệ lại mọc lên, kiểm soát nghiêm ngặt những người qua lại. Hoạt động của cán bộ, đảng viên, việc đi lại làm ăn của quần chúng thêm khó khăn. Những gia đình có người bị bắt hay bị tình nghi có hoạt động cộng sản đều bị chúng kiềm chế, theo dõi gắt gao.
Sự chuyển biến mới của tình hình trong nước và quốc tế, nhất là nước ta cùng một lúc bị hai tên thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng thống trị, đã làm cho mâu thuẫn giữa Nhân dân ta với quân xâm lược lên cao, yêu cầu giải phóng dân tộc trở nên thúc bách hơn bao giờ hết. Vì vậy các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu (11/1939), thứ bảy (11/1940) và nhất là Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã đề ra chủ trương mới, đưa khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” lên hàng đầu và tập trung mọi nỗ lực thực hiện khẩu hiệu này. Còn khẩu hiệu “Người cày có ruộng” tiếp tục tạm gác, chỉ thực hiện một phần là lấy ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày. Theo đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; ra sức xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, thành lập căn cứ địa để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay Nhân dân, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Đảng, coi độc lập dân tộc là mục tiêu phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện, đã chuyển phong trào đấu tranh của Nhân dân ta sang thời kỳ vận động giải phóng dân tộc, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Chủ trương mới của Đảng được chuyển tới Hương Khê chủ yếu là do các đảng viên người Hương Khê lĩnh hội khi còn ở trong các nhà tù. Năm 1940, một số đồng chí mãn hạn tù hoặc vượt ngục về địa phương đã mang theo chủ trương mới của Đảng về thực hiện ở Hương Khê, truyền đạt lại cho các đồng chí đang hoạt động ở địa phương, làm cho phong trào cách mạng trong huyện bắt đầu có sự chuyển biến theo phương hướng chung, chú trọng vào mục tiêu giải phóng dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Tuy (người Hương Thọ) và đồng chí Nguyễn Đình Vị (người Nghệ An) bị giam giữ ở nhà lao Buôn Ma Thuột được chi bộ nhà lao giao nhiệm vụ vượt ngục về Hương Khê xây dựng cơ sở Đảng. Các đồng chí này đã về xã Phúc Hội và bắt liên lạc với đồng chí Đặng Ý (người xã Phúc Hội cũng đã trốn khỏi nhà lao Buôn Ma Thuột về trước). Căn cứ vào tình thế chung, các đồng chí đã bàn kế hoạch xây dựng cơ sở, lập căn cứ địa tại đồn điền Trần Cảnh Cung, nơi tiếp giáp giữa Phúc Đồng và Trúc Lâm (vùng Hói Me, Khe Cừa). Đồng chí Nguyễn Tuy dưới danh nghĩa người làm thuê, đã ẩn náu và hoạt động tại đồn điền này, biến nơi đây thành chỗ tụ họp các cựu chính trị phạm và chỉ đạo phong trào cách mạng Hương Khê thời kỳ mới. Nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng trong vùng đến làm thuê đã được phổ biến chủ trương mới, được tổ chức tập luyện võ thuật, học chữ quốc ngữ.
Trong thời gian chưa đầy một tháng, với sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Tuy, các đảng viên, quần chúng trong vùng đã tích cực vận động nhân dân tham gia các hoạt động hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc. Các hội biến tướng được xây dựng lại để tập hợp quần chúng, tuyên truyền chủ trương mới của Đảng, chuyển hướng phong trào đấu tranh của Nhân dân trong huyện hoà nhập vào cuộc vận động giải phóng dân tộc của cả nước. Phong trào ở một số xã lại được phát triển, như ở Phúc Hội, Văn Đồng, Trúc Lâm, tổng Trại La. Một số chi bộ được xúc tiến hồi phục để tiến tới lập lại Đảng bộ và cơ quan Huyện ủy. Giao thừa năm 1940 - 1941, tại đồn điền Trần Cảnh Cung, đồng chí Nguyễn Tuy đã có bài thơ nói lên sự phấn khởi, lạc quan sau nhiều năm bị tù đày, trong đó có câu:
“Mười năm đón Tết trong tù
Năm nay đón Tết chiến khu huyện nhà”.
Sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Nam Kỳ (11/1940), binh biến Đô Lương (1/1941), địch rất lo sợ xu hướng đấu tranh vũ trang của Nhân dân ta. Vì vậy, khi có vụ nổi dậy giết chết tên Pherây (Ferrey), một chủ đồn điền người Pháp ở Hương Sơn (5/1941) do một số đảng viên, quần chúng địa phương thực hiện, địch đã lấy cớ đó tiến hành cuộc khủng bố ác liệt phong trào cách mạng ở Hương Sơn. Cuộc khủng bố của địch đã từ Hương Sơn lan sang Hương Khê, nhất là khu vực 7 xã của tổng Trại La và hai xã Phúc Hội, Văn Đồng của tổng Hà Nam. Các cơ sở cách mạng ở đồn điền Trần Cảnh Cung cũng bị đánh phá, khủng bố. Các đảng viên Hương Khê bị tình nghi đều bị chúng bắt, mấy đồng chí vừa vượt ngục về lại phải lánh sang vùng biên giới Việt - Lào để tránh địch, song cuối cùng cũng bị Tri huyện Hương Khê đưa lính đuổi bắt được. Phong trào Hương Khê lại tiếp tục khó khăn, thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng.
Trong khi phong trào Hương Khê bị đàn áp thì phong trào cả nước có bước phát triển mới, nhất là phong trào Mặt trận Việt Minh. Ảnh hưởng của phong trào Việt Minh lan mạnh từ Việt Bắc tới các nơi trong nước, hình thành các đoàn thể Cứu quốc, làm cho phong trào Hương Khê càng nung nấu chờ sự lãnh đạo của Đảng. Đầu năm 1943, do có các đồng chí từ Buôn Ma Thuột vượt ngục hoặc được tha trở về, chi bộ Hà Linh được khôi phục, trở thành nơi chắp mối liên lạc cho các đồng chí đảng viên rải rác trong huyện.
Lúc này, ở Hà Tĩnh có Hội Việt Nam Cứu quốc hoạt động, phát triển ảnh hưởng mạnh lên Hương Khê. Vì vậy, sau khi lập lại, chi bộ Hà Linh đã thành lập Mặt trận Cứu quốc xã, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia. Tại đây, đã có các đoàn thể Cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Phụ lão tham gia Mặt trận Cứu quốc. Ở Trúc Lâm, chi bộ đảng cũng được lập lại, đã phát động quần chúng tham gia phong trào Việt Minh, chống áp bức, bóc lột của chức sắc địa phương, chống sự lùng sục, nhũng nhiễu của lính đồn chợ Trúc. Đến tháng 4/1943, Hội Việt Nam Cứu quốc được đổi thành Mặt trận Cứu quốc nên các đoàn thể quần chúng ở Hà Linh, Trúc Lâm được đổi thành Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ lão Cứu quốc.
Phát hiện phong trào Việt Minh ở Hương Khê phát triển mạnh, địch đã tiếp tục truy lùng, bắt bớ cán bộ, đảng viên. Không bắt được người, chúng quay ra đốt phá nhà cửa của các đảng viên để đe doạ và trả thù[36]. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt, bị lưu đày, hai chi bộ nòng cốt là Hà Linh và Trúc Lâm vừa khôi phục lại bị mất liên lạc. Phong trào cách mạng Hương Khê tiếp tục gặp khó khăn và kéo dài đến cuối năm 1944.
Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đi vào giai đoạn quyết liệt. Ở châu Âu, Hồng quân Liên Xô tấn công vào Béc-lin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng từ năm 1940, nay được giải phóng, tìm cách khôi phục lại các thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Ở châu Á, chiến tranh Thái Bình Dương diễn ra quyết liệt giữa Mỹ và Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương lên cao. Để độc chiếm Đông Dương, giữ vững địa bàn tiến thoái, đêm 9/3/1945, quân Nhật đã tiến hành cuộc đảo chính quân Pháp, lập nên chính quyền tay sai thân Nhật ở Việt Nam. Cuộc đảo chính đã báo hiệu sự khủng hoảng trong nội bộ địch, có lợi cho Nhân dân ta. Trong khi đó, do chính sách bóc lột của Nhật - Pháp, nạn đói nghiêm trọng đã diễn ra ở các tỉnh phía bắc Việt Nam, làm chết hàng triệu người, khiến cho Nhân dân hết sức căm phẫn chế độ vô nhân đạo của ngoại xâm và tay sai.
Nhạy bén với cục diện mới, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm của cách mạng là phát xít Nhật, chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, phá kho thóc của Nhật, cứu đói cho dân, chuẩn bị đón thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền, giải phóng dân tộc.
Ở Hương Khê, đầu năm 1945, nạn đói đã diễn ra trong toàn huyện, nhiều xóm làng xơ xác, người đi ăn xin, đi đào củ mài làm hoang vắng cả ruộng đồng. Một số tha hương cầu thực sang Lào, Thái Lan. Số người chết đói trong toàn huyện lên tới hơn 4.500 người, trong đó giáo dân là 783 người[37]. Quân Nhật cũng thường đi lùng sục vơ vét lâm thổ sản quý hiếm, bắt thanh niên đi lính, đi phu, làm cho Nhân dân thường xuyên lo sợ, phải trốn tránh.
Sáng ngày 10/3/1945, một toán quân Nhật đánh chiếm đồn Chu Lễ và Sở Kiểm lâm Hương Khê. Tên đồn trưởng người Pháp ở Chu Lễ bị Nhật bắt, binh lính người Việt chạy tán loạn lẩn trốn, quan lại tay sai cho Pháp hoang mang lo sợ. Lợi dụng tình hình đó, mặc dù chưa nhận chỉ thị của cấp trên, song các đảng viên một số xã lân cận đã vận động nhân dân đi phá kho thóc ở Chu Lễ, lấy thóc gạo cứu đói cho dân.
Hoạt động khôi phục các chi bộ và Đảng bộ huyện được xúc tiến, song do chưa liên lạc được với Tỉnh ủy nên phong trào sau ngày đảo chính vẫn lúng túng, thiếu thống nhất. Nhiều nơi phong trào lên mạnh, nhất là thanh niên, song lúc đầu lại chịu ảnh hưởng của tổ chức Thanh niên Phan Anh. Một số đảng viên tham gia lực lượng này, đã tìm cách hướng họ vào tập luyện quân sự, truyền bá quốc ngữ và hoạt động cứu đói theo chủ trương của Việt Minh, của Đảng.
Sau ngày Nhật hất cẳng Pháp, lợi dụng việc Nhật rêu rao chiêu bài độc lập, chống Pháp, ta đã vận động quần chúng đấu tranh buộc chúng phải mở cửa nhà tù, thả tù chính trị do Pháp bắt. Riêng ở nhà tù Buôn Ma Thuật có tới 300 chính trị phạm được ra khỏi tù, được đồng bào địa phương giúp đỡ để trở về quê hương.
Tháng 4/1945, đồng chí Nguyễn Tuy và đồng chí Thái Đình Hàn từ Buôn Ma Thuột về đến Hương Khê. Do nắm được Chương trình, Điều lệ Việt Minh, nội dung bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng, các đồng chí này đã phổ biến chủ trương mới của Đảng cho đảng viên và quần chúng, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước ở Hương Khê. Nhờ đó, phong trào cách mạng của Hương Khê nhanh chóng bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính là phát xít Nhật. Các đồng chí trong chi bộ Trúc Lâm ở tù về đã đến các xã xác minh, tìm hiểu số đảng viên ra tù từ trước để liên lạc, trao đổi kế hoạch phục hồi Đảng bộ[38].
Nhờ hoạt động tích cực của các đồng chí ở tù về, đến cuối tháng 4/1945, chi bộ Trúc Lâm được lập lại, gồm một số đảng viên của Trúc Lâm và Hà Linh. Chi bộ đã phân công đảng viên về các xã tuyên truyền chủ trương của Việt Minh, vận động quần chúng tham gia phong trào Việt Minh, vào các đoàn thể Cứu quốc, chống Nhật, cứu nước. Tin tức chiến thắng của Liên Xô và Đồng minh tiêu diệt hoàn toàn quân phát xít ở châu Âu cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 được bàn tán trong Nhân dân, tạo niềm tin tưởng cho mọi người.
Ngày 20/5/1945, được sự giúp đỡ của Xứ ủy, Hội nghị thành lập Ban vận động thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh[39]. Hội nghị chủ trương tập hợp, thống nhất mọi lực lượng yêu nước và cách mạng trong hai tỉnh vào Việt Minh để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị phân công cán bộ về các phủ, huyện trong hai tỉnh bắt liên lạc với các cơ sở cũ và các cán bộ, đảng viên vừa ra tù để vận động thành lập Mặt trận Việt Minh liên tỉnh, quyết định xuất bản báo Kháng địch để ấn hành các tài liệu của Mặt trận Việt Minh truyền bá rộng rãi trong hai tỉnh[40].
Sau khi đi dự Hội nghị thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh về, ngày 27/5/1945, đồng chí Nguyễn Tuy đã triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng mở rộng toàn huyện tại xã Trúc Lâm để bàn việc thống nhất lực lượng khôi phục Đảng bộ và kế hoạch đón thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Cuộc họp có 32 người tham dự, gồm các đảng viên trong chi bộ Trúc Lâm và một số đảng viên ở các chi bộ khác trong huyện, do đồng chí Nguyễn Tuy lựa chọn.
Hội nghị đã phấn khởi được nghe đồng chí Nguyễn Tuy truyền đạt tinh thần chủ trương của Trung ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh. Hội nghị nhận định tuy Nhân dân Hương Khê đang gặp khó khăn do đời sống kiệt quệ và đang bị nạn đói đe dọa, nhưng mọi người đều có lòng căm thù giặc và từ khi được nghe phổ biến Chương trình hành động của Việt Minh, mọi tầng lớp Nhân dân đều hăng hái xin gia nhập Việt Minh và càng thêm tin tưởng ở Việt Minh và cách mạng. Với quyết tâm, niềm tin mới, Hội nghị quyết định:
1. Liên lạc với các đồng chí vừa ở tù về để lập lại Đảng bộ, đồng thời tiếp xúc với những người yêu nước trong huyện để thành lập Mặt trận Việt Minh các xã, xúc tiến chuẩn bị các điều kiện, khẩn trương tập luyện vũ trang, xây dựng các đội tự vệ, sắm sửa vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
2. Mở một đợt tuyên truyền sâu rộng Chương trình hành động của Việt Minh, vạch trần sự xuyên tạc, mị dân của tay sai Nhật, đưa một số cán bộ, đảng viên vào làm thủ lĩnh các tổ chức thanh niên Phan Anh, hạn chế ảnh hưởng của tổ chức này trong thanh niên và giác ngộ thanh niên, lôi cuốn phong trào này đi theo Việt Minh, phát động Nhân dân toàn huyện tham gia các đoàn thể Cứu quốc.
3. Trên cơ sở tuyên truyền Chương trình hành động của Việt Minh mà động viên Nhân dân giúp đỡ nhau giải quyết nạn đói.
Sau Hội nghị cán bộ mở rộng ở Trúc Lâm, phong trào Hương Khê phát triển vượt bậc, thu hút đại bộ phận Nhân dân tham gia Việt Minh. Các đảng viên cựu chính trị phạm được phân công đi móc nối, liên hệ, lựa chọn đảng viên tích cực để chuẩn bị mở hội nghị mở rộng toàn huyện, lập Huyện ủy mới, nắm tình hình địch, nhất là các đồn binh Nhật để chuẩn bị hành động giành chính quyền khi có thời cơ.
Nhờ hoạt động tích cực của các đảng viên, chỉ sau một thời gian ngắn, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc. Các thủ lĩnh thanh niên Phan Anh từ tổng đến xã đều do đảng viên hoặc những người tiến bộ nắm giữ. Các tầng lớp Nhân dân phấn khởi tham gia Việt Minh, các cuộc đấu tranh chống thu thuế bằng thóc, lạc, vừng của chính quyền bù nhìn thân Nhật ở một số thôn xã thu được thắng lợi, làm cho Nhân dân thêm tin tưởng Việt Minh.
Ngày 15/7/1945, Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh ra lời kêu gọi chuẩn bị khởi nghĩa. Lời kêu gọi nhấn mạnh: “Nhận đúng cơ hội, xét rõ điều kiện... hãy mau lên. Cấp tốc lên. Đừng chờ đợi, do dự nữa. Hãy đưa tiền của, xương máu, tài năng hết thảy ra cứu nước. Đánh đuổi giặc Nhật, Tiêu trừ Việt gian. Lập chính quyền Nhân dân cách mạng”[41]. Đồng chí Thái Minh (huyện ủy viên cũ) cùng đồng chí Nguyễn Tạo (người Đức Thọ) đã bắt được liên lạc với các đảng viên ở các xã thuộc tổng Trại La, như Phạm Nghiêm, Lê Trọng Đái, để phổ biến Chương trình hành động của Việt Minh. Tại xã Hương Thụ, các đồng chí đã họp bàn kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở Vũ Quang, tập hợp thanh niên huấn luyện quân sự, chờ đón vũ khí của Đồng minh. Thanh niên các xã thuộc tổng Trại La, các xã Trúc Lâm, Hà Linh đã nô nức kéo về Vũ Quang tập luyện quân sự. Các đảng viên, quần chúng thanh niên xã Đan Trai, Khê Thượng, Vân Cù, Thượng Thụ và nhiều đồng chí khác từ Hương Sơn sang, Đức Thọ lên đã tích cực luyện tập võ thuật, rèn dao, kiếm. Phong trào luyện tập vũ trang xây dựng lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện ở nhiều làng xã trong toàn huyện
Phong trào tiền khởi nghĩa ở Hương Khê với nhiều hình thức đấu tranh ngày càng công khai, quyết liệt đã thôi thúc cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ nhanh chóng có những quyết định mới, táo bạo hơn để đón thời cơ giành chính quyền về tay Nhân dân.
Ngày 20/7/1945, đồng chí Phan Dỵ, phái viên của Việt Minh tỉnh và các đồng chí đảng viên thuộc các nhóm trung kiên đã tổ chức cuộc Hội nghị cán bộ Việt Minh toàn huyện để thành lập Ủy ban Khởi nghĩa Hương Khê, tại nhà đồng chí Đặng Bá Soa, xóm Trại, làng Tế Lễ (nay là xã Hương Thủy). Dự họp có khoảng 40 người: Phan Dỵ, Nguyễn Tuy, Phạm Quang Thu (Hương Thuỷ), Nguyễn Văn Sáng (Hà Linh), Trần Suất, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh (Trúc Lâm), Thái Đình Hàn, Nguyễn Lan (Hương Thọ), Nguyễn Nhiên (Gia Phố), Đinh Duyệt (Phúc Trạch) và một số đồng chí khác ở Nam Trạch, Phú Phong, Phú Gia, Trung Định,... Đó là những cán bộ, đảng viên được lựa chọn từ các xã, các chi bộ cũ, mỗi nơi có 1 đến 3 người[42].
Sau khi phổ biến kế hoạch thoát thân đề phòng lúc cần thiết, Hội nghị đã nghe đồng chí Phan Dỵ báo cáo tình hình thế giới, trong nước và trong tỉnh, phổ biến chủ trương chung của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh là khẩn trương xúc tiến các công việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã sôi nổi thảo luận tình thế cách mạng ở Hương Khê và đi tới quyết định thành lập ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Khê gồm 7 chức danh và 8 ủy viên:
Nguyễn Tuy: Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, phụ trách chung; Phạm Quang Thu: Phó Chủ tịch; Thái Đình Hàn: Ủy viên, phụ trách quân sự; Ngô Quốc Văn: Ủy viên, phụ trách công an; Nguyễn Nhiên: Ủy viên, phụ trách tài chính; Ngô Thanh, Trần Suất: Ủy viên, phụ trách giao thông;
- Đặng Bá Phụng: Ủy viên, phụ trách bưu chính.
Những đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Khê nói trên hầu hết là đảng viên vào Đảng từ những năm 1930 - 1931, đã qua thử thách trong nhà tù của đế quốc, phong kiến. Nhiệm vụ của Ủy ban khởi nghĩa là: một mặt, tuyên truyền, tổ chức các quần chúng vào các hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh như: Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc. Nội dung tuyên truyền tập trung vạch mặt đế quốc, phong kiến, thức tỉnh lòng yêu nước, căm thù đế quốc, phong kiến, khắc phục tâm lý hoài nghi, do dự của một bộ phận quần chúng sợ địch khủng bố như sau thời kỳ 1930 - 1931; mặt khác, theo dõi, bám sát các hoạt động của quan lại và hào lý các tổng, xã, những hành động phá hoại của chúng.
Hội nghị nhận định đặc điểm địa lý, dân cư và phong trào cách mạng của huyện để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo đấu tranh phù hợp khi mùa mưa lụt đến. Căn cứ vào thực tế phong trào vùng thượng huyện đang lên cao và ít bị ngập lụt khi mùa mưa đến, lại đông dân, gần huyện lỵ Chu Lễ, nên Hội nghị chủ trương chuyển cơ quan lãnh đạo chung của huyện lên xã Gia Phố[43].
Nếu như Hội nghị Trúc Lâm ngày 27/5/1945 đã đánh dấu sự khôi phục Đảng bộ và mở ra thời kỳ tiền khởi nghĩa sôi nổi, đẩy mạnh phong trào Việt Minh, thì thành công của Hội nghị Tân Lệ ngày 20/7/1945 với việc thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện là bước chuẩn bị trực tiếp cho thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Khê. Đến đây, Đảng bộ Hương Khê đã thật sự được khôi phục và cao trào kháng Nhật, cứu nước ở Hương Khê đã đạt tới cao điểm, chuẩn bị thêm điều kiện cho sự chín muồi của cuộc khởi nghĩa sắp đến. Đồng chí Nguyễn Tuy là người lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ và phong trào cách mạng Hương Khê thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Tân Lệ, một bộ phận của Ủy ban khởi nghĩa huyện chuyển lên hoạt động ở thượng huyện, do đồng chí Phạm Quang Thu, Phó Chủ tịch, phụ trách, có trụ sở đặt tại nhà đồng chí Nho Nhuỵ, xã Gia Phố. Đồng chí Phạm Quang Thu vừa làm nhiệm vụ thường trực của Ủy ban khởi nghĩa huyện vừa trực tiếp chỉ đạo tổng Chu Lễ, thành lập Ủy ban khởi nghĩa tổng Chu Lễ. Bộ phận chính của Ủy ban do đồng chí Nguyễn Tuy, Chủ tịch, phụ trách vẫn lấy địa bàn Trúc Lâm làm trung tâm chỉ đạo vùng hạ huyện. Các ủy viên Ủy ban khởi nghĩa đều được phân công về chỉ đạo các tổng, các xã, thành lập ủy ban khởi nghĩa các nơi theo hình thức nửa bí mật, nửa công khai.
Đến đầu tháng 8/1945, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Mặt trận Việt Minh ra đời, tập hợp quần chúng tham gia các hoạt động tập luyện quân sự, học chữ quốc ngữ, bàn luận thời cuộc. Cán bộ, đảng viên và tự vệ thanh niên vừa theo dõi tình hình địch, vừa tuyên truyền vận động quần chúng chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Phong trào phá kho thóc của Nhật, cứu đói cho dân được tổ chức ở những nơi có điều kiện, nhất là khu vực Chu Lễ. Các ủy ban khởi nghĩa đã tổ chức các cuộc diễn thuyết công khai ở tất cả các chợ trong huyện như: chợ Gia, chợ Huyện, chợ Sòng, chợ Trúc, chợ Nổ, chợ Hào, chợ đồn điền Trần Cảnh Cung... Quần chúng không có nhu cầu mua bán cũng được Việt Minh vận động đi chợ để dự mít tinh...
Trên thực tế, Hương Khê đã thực hiện thành công chủ trương khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận về tay Nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của cách mạng, lấn át phạm vi ảnh hưởng của chính quyền địch.
Ngày 8/8/1945, Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh họp tại huyện Hưng Nguyền, bầu Ban Chấp hành chính thức của Việt Minh Nghệ - Tĩnh. Hội nghị quyết định: Gấp rút xây dựng và phát triển mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh, các hội Cứu quốc, các đội tự vệ, tiểu tổ du kích, thực hiện quân sự hoá toàn dân, thành lập các chiến khu chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Vận động một phong trào treo cờ, khẩu hiệu, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh diễn thuyết, biểu tình tuần hành thị uy để cổ động quần chúng, gây thanh thế cho phong trào. Chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật và nếu họ tỏ thái độ xâm lược thì sẵn sàng đối phó. Khi điều kiện cho phép sẽ tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở nông thôn trước, thành thị sau.
Về chỉ đạo khởi nghĩa, Hội nghị đã chia hai tỉnh thành 6 phân khu (Nghệ An: 4, Hà Tĩnh: 2) để tiện việc chỉ đạo và cử cán bộ phụ trách. Theo đó, Hương Khê thuộc Phân khu Bắc Hà (Bắc Hà Tĩnh)[44].
Thực hiện chủ trương mới của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh và để gây khí thế cho hoạt động của Việt Minh, thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ hơn nữa, Ủy ban khởi nghĩa và Việt Minh huyện đã chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền công khai về Việt Minh. Khẩu hiệu, truyền đơn, cờ đỏ sao vàng được các cấp bộ Việt Minh trong huyện chuẩn bị đầy đủ. Đêm ngày 10/8/1945, ủy ban khởi nghĩa đã chỉ đạo tiến hành một cuộc đại náo trong toàn huyện bằng hình thức mít tinh, diễn thuyết, treo cờ đỏ sao vàng, chăng biểu ngữ, dán khẩu hiệu ở khắp các thôn xã. Sau cuộc đại náo, Nhân dân càng nô nức gia nhập Việt Minh. Các đoàn thể Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc được tổ chức ở hầu khắp các thôn xã.
Để vận động quân Đồng minh trợ giúp, ở Trúc Lâm, Ủy ban khởi nghĩa đã cho dùng nhiều chăn, chiếu quét đất sét mầu, kết lại thành cờ đỏ sao vàng năm cánh và cờ Hoa Kỳ trải trên núi Bãi Khoai, làm tín hiệu nơi có phong trào Việt Minh để liên lạc với máy bay Mỹ, nhận tiếp tế của Đồng minh. Nhiều lượt máy bay Mỹ đã lượn vòng quan sát, song ta không có biện pháp để liên lạc cụ thể với máy bay, nên phi công chỉ rải truyền đơn kêu gọi phối hợp chống Nhật mà không thả vũ khí như ta mong muốn.
Khí thế cách mạng của quần chúng và sự lớn mạnh của phong trào Việt Minh đã phân hoá sâu sắc hàng ngũ địch, nhiều hào lý đã ngỏ ý xin được gia nhập Việt Minh. Một số khác tỏ ra ngoan cố, chống đối Nhân dân đến cùng, bị cán bộ, tự vệ cách mạng theo dõi sát sao, kiềm chế hoạt động của chúng.
Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, quân Nhật ở Đông Dương tê liệt như rắn mất đầu, bọn Việt gian tay sai Trần Trọng Kim hoang mang rệu rã. Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng diễn ra từ 13 đến 15/8/1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào được tổ chức ngày 16/8/1945 đã quyết định phát động Nhân dân cả nước vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân theo nguyên tắc “Tập trung, thống nhất, kịp thời”, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (tiền thân của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, các tỉnh, thành đã lãnh đạo Nhân dân vùng lên tổng khởi nghĩa, hình thành cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử năm 1945. Tổng khởi nghĩa đã lần lượt giành được thắng lợi ở Hà Nội (19/8/1945), Huế (23/8/1945), Sài Gòn (25/8/1945)... Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà...
Ở Nghệ - Tĩnh, nắm bắt được chủ trương chung và trước sự xuất hiện của thời cơ cách mạng, ngày 15/8/1945, Thường vụ Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh đã triệu tập cuộc họp bất thường, cử Ủy ban khởi nghĩa và phát lệnh cho các phủ huyện thực hiện ngay việc giành chính quyền ở địa phương.
Do đã có chuẩn bị trước và với tinh thần chủ động, khi có lệnh của Việt Minh Nghệ - Tĩnh, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh nhanh chóng bùng nổ và giành thắng lợi. Ngày 16/8/1945, cách mạng làm chủ huyện đường Can Lộc. Ngày 17/8/1945, chính quyền cách mạng được thành lập ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Ngày 18/8/1945, Tổng khởi nghĩa thành công ở Thị xã Hà Tĩnh, chính quyền Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Chủ tịch. Cùng ngày, chính quyền cách mạng các huyện Kỳ Anh, Đức Thọ ra đời. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thành công ở Hương Sơn, Nghi Xuân.
Ở Hương Khê, sau khi quân Nhật đầu hàng Đồng minh, bộ máy chính quyền bù nhìn thân Nhật bị tê liệt, quan chức trong huyện hoang mang dao động cực độ. Một toán quân Nhật đóng ở Hương Khê trước lúc rút lui về Vinh đã vơ vét tài sản các công sở và của Nhân dân ta mang đi. Chúng đã bị lực lượng tự vệ cách mạng hạ huyện chặn đánh ở cầu Cửa Rào.
Trận Cửa Rào[45], ngày 15/8/1945 do các đồng chí Nguyễn Tuy, Thái Đình Hàn, Mai Minh, Mai Củng, Nguyễn Khắc Như, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh,... tổ chức, chỉ huy và trực tiếp thực hiện. Tham gia còn có nhiều chiến sĩ tự vệ được lựa chọn từ các nơi, trang bị vũ khí có một số súng săn, chủ yếu là giáo mác. Lực lượng vũ trang cách mạng đã chọn khu vực Chín khúc Hội Nai, nơi địa hình hiểm trở, rừng núi hoang vắng, đường sắt chạy giữa một bên là sông Ngàn Sâu, một bên là vách núi, độ cong lớn, tầm quan sát của địch trên tàu bị hạn chế để bố trí mai phục, tháo bu long đường ray, đặt chướng ngại vật. Khi đoàn tàu hoả bị trật bánh, đầu máy lật nghiêng vào vách núi, nhân lúc địch hoảng loạn, các chiến sĩ tự vệ cách mạng đã khống chế trận địa, tịch thu một số vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực và rút lui an toàn, gây ách tắc giao thông đường sắt của địch trong nhiều ngày.
Trận Cửa Rào là chiến thắng quan trọng của quân dân Hương Khê trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, tạo thanh thế cho Việt Minh và cổ vũ phong trào khởi nghĩa ở địa phương.
Theo quy định của Hội nghị Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, phong trào Hương Khê thuộc sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà, song do điều kiện giao thông liên lạc không kịp thời nên Hương Khê tiếp nhận sự chỉ đạo của cấp trên có bị chậm hơn các huyện khác[46]. Tuy vậy, ngày 18/8/1945, khi nghe tin cách mạng đã giành chính quyền ở tỉnh, Ủy ban khởi nghĩa huyện đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp tại xã Trúc Lâm quyết định kế hoạch giành chính quyền ở huyện lỵ Chu Lễ.
Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ và các tổng xã, thiết lập chính quyền cách mạng của Nhân dân. Hội nghị đã cử cán bộ về tỉnh nắm tình hình, nhận chỉ thị của tỉnh và phân công nhiệm vụ cho các ủy viên về chỉ đạo giành chính quyền ở các tổng, xã. Các đội tự vệ nhanh chóng loan tin cách mạng thành công ở các nơi, khiến quần chúng hết sức hồ hởi, tin tưởng, rạo rực sắm sửa cờ, trống, vũ khí để tham gia giành chính quyền ở Chu Lễ.
Theo mệnh lệnh của ủy ban khởi nghĩa huyện, sáng sớm ngày 19/8/1945, các đoàn biểu tình hạ huyện được tập trung ở bến đò Địa Lợi, các xã vùng thượng huyện tập trung tại khu vực Thuỷ Lâm để chờ lệnh cùng tiến vào huyện lỵ Chu Lễ giành chính quyền. Đoàn biểu tình có đội tự vệ vũ trang quần chúng hỗ trợ, có băng cờ, khẩu hiệu, chiêng trống tập hợp tại các địa điểm chờ lệnh hành động. Tuy vậy, do giao thông viên xuống tỉnh quay về chậm, khâu hậu cần cơm, nước tiếp tế không bảo đảm, nên Ủy ban khởi nghĩa quyết định tạm thời giải tán để bảo đảm sức khoẻ cho quần chúng, chờ lệnh mới của tỉnh.
Nhận được tin cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Khê gặp khó khăn do thiếu sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà, Ủy ban khởi nghĩa Phân khu Nam Hà đã đưa lực lượng từ Thị xã lên chi viện cho Hương Khê giành chính quyền ở huyện lỵ.
Khoảng 3 giờ chiều ngày 19/8/1945, một chiếc ô tô hòm, do đồng chí Cơ và đồng chí Thể cùng một số chiến sĩ tự vệ của Ủy ban khởi nghĩa Phân khu Nam Hà từ tỉnh lên, đi thẳng vào sân huyện lỵ làm quan lại ngơ ngác, run sợ. Đồng chí Phạm Quang Thu, Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện và quần chúng ở Thượng Thạch, Trung Định đã kịp thời có mặt. Trước sức mạnh áp đảo của cách mạng, binh lính, nha lại đều khép nép, không dám có thái độ chống đối. Huyện trưởng Nguyễn Xuân Lâm với áo dài tề chỉnh đã giao nộp đầy đủ sổ sách, con dấu, súng đạn, tài sản của huyện đường cho đại diện Ủy ban khởi nghĩa. Hơn 10 khẩu súng dài (súng trường) của lính khố lục (bảo vệ) được ủy ban khởi nghĩa giao cho tự vệ, dân quân có mặt.
Ngay sau đó, lực lượng khởi nghĩa kéo đi tước vũ khí của lính đồn Chu Lễ. Các đội viên tự vệ, dân quân và quần chúng được huy động đi theo hỗ trợ. Thấy đoàn khởi nghĩa đến, đội Hạp, đồn trưởng đồn Chu Lễ chạy ra tận cổng đón đoàn, xin đầu hàng cách mạng. Đồn Chu Lễ vốn khá đông binh lính, vũ khí, song sau ngày Nhật đảo chính Pháp (3/1945), nhiều binh lính đã mang theo vũ khí bỏ trốn, nhiều vũ khí, tài sản bị quân Nhật vơ vét khi rút chạy về Vinh. Số còn lại chỉ có 12 tên với 7 súng mútcơtông và 200 viên đạn, 1 khẩu súng lục, khoảng vài tạ gạo. Đoàn khởi nghĩa đã hạ lệnh giải tán số binh lính đồn, chờ xét xử sau, vũ khí bị tịch thu và được trang bị cho dân quân Thượng Thạch.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của Nhân dân Hương Khê đã giành thắng lợi mau chóng, không đổ máu.
Chiều tối ngày 19/8/1945, ủy ban khởi nghĩa huyện và một số cán bộ họp bàn việc ra mắt chính quyền cách mạng ở huyện và chỉ đạo giành chính quyền ở các địa phương. Hội nghị quyết định đổi tên Ủy ban khởi nghĩa huyện thành Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê, chủ trương tổ chức các cuộc mít tinh tại các tổng, các xã để xoá bỏ chính quyền đế quốc, phong kiến, vạch mặt tội ác của tay sai phản dân, hại nước, có nợ máu với cách mạng và lập danh sách chúng nộp lên huyện. Hội nghị chủ trương huy động quần chúng các xã tham dự cuộc mít tinh lớn tại Chu Lễ để chào mừng sự ra mắt của Ủy ban cách mạng lâm thời huyện, chào mừng cách mạng thành công ở Hương Khê.
Ngày 21/8/1945, theo chỉ thị của tỉnh, Ủy ban khởi nghĩa Hương Khê đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Chu Lễ, với hàng ngàn quần chúng trong toàn huyện tham dự. Tại buổi mít tinh, ủy ban cách mạng lâm thời Hương Khê ra mắt Nhân dân, do đồng chí Nguyễn Tuy làm Chủ tịch.
Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã tuyên bố thủ tiêu toàn bộ chính quyền thân Nhật, xóa bỏ mọi luật lệ của Pháp, Nhật và phong kiến, tuyên bố thiết lập trật tự xã hội mới và hệ thống chính quyền cách mạng từ huyện xuống các làng xã trong toàn huyện, ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê ra mắt Nhân dân là mốc đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê[47].
Sau cuộc mít tinh ở Chu Lễ, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa và sự lãnh đạo của các đảng viên, quần chúng đã kéo về địa phương tịch thu sổ sách, con dấu của các chánh tổng, lý trưởng, thành lập chính quyền Nhân dân. Chỉ trong 3 ngày sau, toàn bộ chính quyền từ huyện đến làng xã đã thuộc về Nhân dân, về cách mạng.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê có ý nghĩa hết sức to lớn. Với thắng lợi này, Nhân dân Hương Khê đã lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của đế quốc, phát xít, lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn năm của giai cấp địa chủ, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa đã đưa Nhân dân lao động Hương Khê từ địa vị nô lệ thành người làm chủ quê hương, làng xóm của mình. Vối thắng lợi này, Đảng bộ Hương Khê từ một tổ chức hoạt động bất hợp pháp, bị khủng bố, tàn sát, trở thành lực lượng cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống của Nhân dân toàn huyện. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa nói lên tinh thần cách mạng kiên cường bất khuất, truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự do của Nhân dân Hương Khê, nơi đã là căn cứ chống Pháp của Vua Hàm Nghi, của khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Nhiều kinh nghiệm của cuộc khỏi nghĩa là vốn quý cho Đảng bộ, chính quyền, và Nhân dân Hương Khê sau này.
Đảng bộ, Nhân dân Hương Khê vô cùng tự hào với cuộc đấu tranh kiên cường và oanh liệt của mình. Không những Hương Khê đã giải phóng được mình, mà còn góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh và của cả nước.
Thắng lợi nhanh gọn, không đổ máu của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Hương Khê là kết quả của nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan.
Khách quan là do quân Pháp không còn lực lượng ở Hương Khê, quân Nhật hoang mang bỏ chạy, tay sai bị tê liệt, rệu rã không đủ sức chống lại phong trào cách mạng của Nhân dân.
Chủ quan là do các nguyên nhân sau: Đảng bộ Hương Khê đã vượt qua được khó khăn, khôi phục được một số chi bộ nòng cốt, phát động được phong trào Việt Minh, kịp thời lãnh đạo phong trào huyện Hương Khê hòa nhịp với cao trào chung của toàn tỉnh, với cả nước, hình thành lực lượng cách mạng to lớn, có các căn cứ địa và cơ sở đứng chân vững chắc, lập được ủy ban khởi nghĩa huyện, khi thời cơ đến đã nhanh chóng huy động toàn dân nổi dậy giành chính quyền[48]; Nhân dân Hương Khê có truyền thống yêu nước bất khuất, đã vùng lên đấu tranh quyết liệt với đế quốc, phong kiến trong cao trào 1930 - 1931, cao trào kháng Nhật, cứu nước đầu năm 1945, nhất là trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Hương Khê có lực lượng chính trị lớn mạnh, thu hút mọi tầng lớp Nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc, có căn cứ địa và lực lượng tự vệ được tổ chức ở nhiều nơi; Có sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh ủy, của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, của sự động viên cổ vũ của phong trào cách mạng các huyện bạn.
Trong những nguyên nhân trên, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng bộ huyện, của những người đảng viên cộng sản kiên cường, vốn là các cựu chính trị phạm có vai trò quyết định nhất.
Qua quá trình hoạt động, xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng thời kỳ 1930 - 1945, có thể nêu lên một số ưu, khuyết điểm chính của Đảng bộ Hương Khê như sau:
Về ưu điểm:
Thứ nhất, những năm 1930 - 1931, Đảng bộ vừa mới ra đời, đảng viên còn ít, chưa được giáo dục rèn luyện nhiều, nhưng đã lãnh đạo và phát động được Nhân dân toàn huyện vùng lên đấu tranh tạo thành cao trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Phong trào cách mạng ở Hương Khê cơ bản đã đi đúng đường lối của Đảng, biết gắn chặt đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, nên bước đầu đã đưa lại một số quyền lợi thiết thân cho quần chúng lao động như: chia ruộng đất công, giảm tô, giảm tức, làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng ở Đảng.
Thứ hai, trong đấu tranh, Đảng bộ đã xây dựng được một lực lượng cách mạng hùng hậu, trong đó nông dân là quân chủ lực. Đảng bộ đã biết vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn của địa phương mình, đã biết phân hóa kẻ thù, tranh thủ những người có thể tranh thủ được. Đối với những tên phản động chống phá cách mạng, việc trừng trị được thi hành đúng mức, đối với số hương lý hoặc số người thuộc thành phần lớp trên ít nhiều có tư tưởng tiến bộ, đã được giáo dục, tranh thủ, đưa họ vào hội tán trợ, hoặc vận động họ giúp đỡ cách mạng.
Thứ ba, trong điều kiện phải hoạt động bí mật và bất hợp pháp, Đảng bộ đã biết sử dụng các hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế để giành thắng lợi. Những năm 1930 - 1931, Đảng bộ đã chú ý xây dựng các đội tự vệ làm lực lượng bảo vệ Đảng và làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh. Trong thời kỳ vận động dân chủ 1936 - 1939 đã tập hợp được quần chúng lao động, hướng dẫn, tổ chức họ đấu tranh đòi các quyền lợi thiết thực, cải thiện đời sống. Thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng bộ đã chú ý xây dựng các đội tự vệ, khéo sử dụng tổ chức thanh niên Phan Anh, đưa thanh niên đi huấn luyện tự vệ ở các căn cứ để làm nòng cốt cho quần chúng giành chính quyền.
Thứ tư, trong quá trình lãnh đạo quần chúng đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ được thử thách, rèn luyện và đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đức tính hy sinh dũng cảm, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng, gắn bó với quần chúng, được quần chúng tin tưởng và mến phục. Hầu hết cán bộ, đảng viên Hương Khê trong khói lửa đấu tranh, dù bị bắt bớ, tra tấn, bị cùm kẹp, mua chuộc dụ dỗ, vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, của người cán bộ cách mạng.
Nhưng bên cạnh những thành tích và ưu điểm đó, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ Hương Khê cũng còn một số khuyết điểm như:
Thứ nhất, dù Đảng bộ hình thành sớm (02/1930), việc phát triển đảng viên và xây dựng chi bộ tuy nhanh, nhưng phong trào quần chúng lại nổ ra chậm và đến tháng 11/1930 mới có cao trào hoà nhịp với cao trào chung của vùng Nghệ - Tĩnh. Thời kỳ 1932 - 1944, nhìn chung phong trào không sôi nổi, không mạnh.
Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên chưa được giáo dục chính trị để nâng cao lập trường tư tưởng và ý thức giai cấp, nên còn phạm một số thiếu sót trong lãnh đạo, trong chỉ đạo đấu tranh. Trong đấu tranh, Đảng bộ đã bỏ sót nhiều người ưu tú trong Nhân dân lao động xuất hiện trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 để đưa vào Đảng, có biểu hiện tư tưởng “tả khuynh”, hẹp hòi, làm thu hẹp lực lượng cách mạng. Trong việc kết nạp đảng viên, vì thiếu thận trọng, không thông qua phê bình, đấu tranh, nên đã đưa vào Đảng một số ít không đủ tiêu chuẩn, khi bị địch bắt bớ, tra tấn, dụ dỗ mua chuộc, số đó đã đầu hàng, đầu thú, hoặc sau đó nằm im, không dám hoạt động nữa.
Thứ ba, việc xây dựng chi bộ dự bị, bảo vệ cơ sở cốt cán tuy đã được đề ra nhưng chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đầy đủ. Khi phong trào lên mạnh hầu hết cán bộ, đảng viên đều hoạt động công khai, do đó khi địch khủng bố ác liệt, hầu hết đảng viên đều bị bắt, các chi bộ đều tan vỡ, ít đồng chí giữ được bí mật để duy trì phong trào. Trong những năm 1936 - 1939 và thời kỳ tiền khởi nghĩa, tuy có điều kiện phục hồi Đảng bộ, các chi bộ cũ và xây dựng các chi bộ mới nhưng một số đảng viên chưa tích cực thực hiện….
Những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ Hương Khê trong cuộc đấu tranh giành chính quyền nói chung, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 nói riêng rất phong phú. Quan trọng nhất là kinh nghiệm phải luôn chấp hành nghiêm và sáng tạo đường lối, chủ trương chung của Đảng vào hoàn cảnh địa phương. Là phải ra sức xây dựng lực lượng cách mạng, tập hợp quần chúng đấu tranh liên tục bền bỉ, có lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa vững chắc. Là phải tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh, của cấp trên, song tích cực chủ động dựa vào sức mình là chính. Là phải ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt, có tổ chức rộng khắp, có chủ trương đúng, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, dũng cảm sáng tạo, gắn bó với Nhân dân...
Có thể nêu lên một số kinh nghiệm chính thời kỳ này là:
Thứ nhất, muốn phát động được phong trào đấu tranh mạnh mẽ và sâu rộng của quần chúng, muốn bảo vệ được cán bộ, đảng viên và mọi hoạt động của Đảng, trước hết phải phát động cho được nông dân, tổ chức nông dân lại, vì nông dân là lực lượng đông đảo và hùng mạnh ở nông thôn Hương Khê. Đảng bộ phải quan tâm đúng mức quyền lợi của nông dân, phải có những khẩu hiệu đấu tranh hợp với nguyện vọng thiết thực của họ như chia ruộng đất công, giảm tô, giảm tức và phải giáo dục họ về đường lối, chủ trương của Đảng để họ tự nguyện tích cực thực hiện.
Thực tế diễn ra trong cuộc đấu tranh một mất một còn với đế quốc, phong kiến trong thời kỳ Đảng ta còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp, là khi Đảng bộ đã phát động được nông dân vùng lên thì dù phải hy sinh đổ máu họ cũng không nản chí đấu tranh như vụ Rôộc Cồn (20/4/1931 có 17 người hy sinh). Những năm 1931 - 1933, tuy địch tiến hành những cuộc khủng bố vây ráp rất ác liệt, nhưng một số cán bộ, đảng viên có thể hoạt động được thêm một thời gian khá dài vì các đồng chí đã biết bám vào dân và được Nhân dân bảo vệ. Chi bộ Hà Linh tuy phải trải qua những đợt khủng bố rất tàn bạo của quân thù nhưng vẫn hoạt động được liên tục và thành quả mà Nhân dân Hà Linh đấu tranh giành được trong phong trào Xô viết vẫn được giữ vững cho đến Cách mạng tháng Tám thành công, vì chi bộ đã làm tốt công tác vận động quần chúng đấu tranh đúng với đường lối, chủ trương của Đảng.
Ngoài việc nắm lực lượng nông dân, một vấn đề rất quan trọng nữa là phải thực hiện tốt chính sách mặt trận để tập hợp một lực lượng yêu nước và tiến bộ, đưa họ vào các tổ chức quần chúng thích hợp để tăng cường lực lượng cách mạng.
Thứ hai, công tác xây dựng Đảng phải luôn luôn nắm vững đặc điểm của Đảng ta, của địa bàn Hương Khê, một vùng nông nghiệp, kinh tế kém phát triển, nhận thức chung của cán bộ, đảng viên, Nhân dân có nhiều hạn chế. Tuy là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng lại sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nên số đông đảng viên đều xuất thân từ giai cấp nông dân và tiểu tư sản, điều đó càng hết sức đúng với Hương Khê. Vì vậy Đảng bộ cần phải chú trọng kết nạp những quần chúng ưu tú trong nông dân lao động, trong tiểu tư sản, nhưng phải thông qua phong trào đấu tranh cách mạng mà lựa chọn, kết nạp đảng viên, cất nhắc cán bộ. Cũng từ đặc điểm đó mà đảng viên đa số xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản nên sau khi vào Đảng, họ cần phải thường xuyên bồi dưỡng về lý luận Mác - Lênin, về đường lối, chủ trương của Đảng, về quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân.
Hạn chế của Đảng bộ Hương Khê là trong thời gian đầu đã tách rời giữa phát động quần chúng đấu tranh với công tác xây dựng Đảng. Chưa biết kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức và đấu tranh, thông qua phong trào đấu tranh của quần chúng mà củng cố tổ chức, xây dựng Đảng.
Thứ ba, lòng hy sinh dũng cảm, tinh thần tiến công cách mạng, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng tiến lên không ngừng. Tuy chưa được học tập, bồi dưỡng nhiều về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng các cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng bộ Hương Khê trong những năm 1930 - 1931 và cả những năm sau nữa, đã đào tạo rèn luyện cho Đảng bộ một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Đảng, vì dân. Các đồng chí đã bất chấp mọi trở ngại, khó khăn không sợ bị bắn giết, tù đày, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ quần chúng, thương yêu quần chúng, bám sát quần chúng mà hoạt động, luôn luôn giữ vững tính giai cấp và tính tiên phong của người đảng viên.
Gương đấu tranh kiên cường, hy sinh dũng cảm, “vào tù, ra tội” của các đảng viên cộng sản Hương Khê đã có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phong trào quần chúng tiến lên, gắn bó Đảng bộ với quần chúng. Đồng chí Phan Lũ, Bí thư chi bộ Phúc Ấm xông vào chém tên đồn trưởng Chu Lễ trong vụ Rôộc Cồn, các đồng chí Hồ Sỹ Cung, Trần Rạng vẫn hiên ngang trước mũi súng của quân thù, không cúi đầu khuất phục. Các đồng chí Phạm Khuông, Mai Phì bất chấp mọi khó khăn hiểm nguy, gian khổ vẫn bám sát cơ sở hoạt động, đến khi bị sa vào tay giặc vẫn giữ chí khí kiên cường, bất khuất, là những tấm gương sáng cho Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê học tập.
Tóm lại, thành công của Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê là sự kiện trọng đại, bước ngoặt lịch sử của Đảng bộ và quân dân Hương Khê. Từ thắng lợi này, một chế độ mới đã ra đời và phát triển đưa lại những thắng lợi tiếp theo cho Nhân dân Hương Khê. Những kinh nghiệm và niềm tự hào của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê thời kỳ 1930 - 1945 là cơ sở để Đảng bộ lãnh đạo Nhân dân huyện Hương Khê hoà cùng Nhân dân trong tỉnh bắt tay vào một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
CHƯƠNG III ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, KHÔI PHỤC ĐẢNG BỘ, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945 - 1946)
Sau ngày khởi nghĩa thắng lợi, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong bối cảnh vừa có những thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn to lớn. Cùng một lúc, chính quyền cách mạng phải giải quyết nhiều công việc vừa khẩn trương cấp bách, vừa căn bản lâu dài.
Toàn thể cán bộ, Nhân dân được huy động, tập trung vào việc xoá bỏ chính quyền cũ, thiết lập chính quyền mới. Nhiều cán bộ, đảng viên và những quần chúng tích cực, tiêu biểu, có trình độ được phân công đảm nhiệm các nhiệm vụ của chính quyền, đoàn thể. Ủy ban nhân dân cách mạng được củng cố từng bước với các ủy viên phụ trách từng lĩnh vực hành chính, quân sự, bưu điện, tư pháp, kinh tế, giáo dục, công an, y tế...
Các hoạt động cứu đói, tăng gia sản xuất được đẩy mạnh. Các ruộng đất công, ruộng đất của đế quốc, phản động, địa chủ, đồn điền được trưng thu để chia lại cho nông dân nên đã ngăn chặn được nạn đói.
Tuần lễ vàng được phát động, thu hút đông đảo Nhân dân tham gia. Toàn huyện góp được 3,4 cân tiểu ly vàng trong một tuần từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945. Huyện tổ chức một số trại sản xuất tập trung để cung cấp lương thực, thực phẩm cho cán bộ, bộ đội như: ở Tây Hồ, Địa Lợi, mở các cửa hàng dịch vụ, hiệu thuốc, quán ăn, quán trọ, tổ chức buôn bán trâu, bò, lợn ở Lào về cung cấp cho Nhân dân và tạo nguồn thu cho ngân sách của huyện.
Việc thực hiện chủ trương giảm tô 25%, chia lại công điền, công thổ, ruộng đất của đồn điền Pháp được tiến hành, bước đầu đưa lại lợi ích thiết thực cho dân nghèo.
Phong trào xoá nạn mù chữ, đổi mới hoạt động văn hoá, văn nghệ, nêu cao tinh thần yêu nước, cách mạng, đổi mới sinh hoạt cộng đồng... được phát động, thu hút toàn dân tham gia. Học sinh các trường tiểu học được tựu trường, phong trào vệ sinh, phòng bệnh, thể dục, thể thao được chú trọng, tạo bầu không khí vui tươi lành mạnh trong Nhân dân.
Quá trình xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng cùng công tác cứu đói, phát triển văn hoá xã hội được Đảng bộ Hương Khê hết sức quan tâm. Mặc dù các cơ sở Đảng được thành lập nhiều, các đảng viên đông nhưng do bị địch khủng bố, bắt bớ, giam cầm nên hệ thống tổ chức của Đảng bộ bị phá vỡ nhiều lần. Trừ các chi bộ Trúc Lâm, Hà Linh là hoạt động khá liên tục và đã khôi phục lại trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, còn hầu hết chi bộ các xã đến tháng 8/1945 vẫn chưa được khôi phục. Vì vậy khi cách mạng thành công, việc khôi phục Đảng bộ diễn ra có nhiều khó khăn, trở ngại.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Xứ ủy và của Tỉnh ủy Hà Tĩnh[49], Huyện ủy lâm thời đã cử cán bộ về các xã móc nối, liên lạc và công nhận đảng tịch cho các đảng viên cũ, hoạt động từ thời kỳ 1930 - 1931 và trước Cách mạng tháng Tám vẫn còn giữ vững tư cách đảng viên, trung thành với cách mạng. Đồng thời tiến hành kết nạp những quần chúng ưu tú, đã được thử thách vào Đảng. Với phương thức đó và sự nỗ lực cố gắng của các cán bộ, nhất là ý thức đoàn kết nội bộ, đặt sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng lên trên hết, các cán bộ, đảng viên cũ và mới trong huyện đã từ bỏ các thành kiến, ngờ vực trước đấy để cùng nhau khôi phục hệ thống tổ chức Đảng.
Đến cuối tháng 12/1945, trên cơ sở các chi bộ đã được khôi phục, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh, uy tín của Đảng lên cao, Đảng bộ huyện Hương Khê đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II để bàn chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng, thành lập lại Huyện ủy chính thức, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đại hội khai mạc vào ngày 20/12/1945 tại làng Trung Định (Hương Thuỷ).
Trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh (họp ngày 12/12/1945), Đại hội đã tập trung bàn định về một số vấn đề quan trọng cấp bách và cơ bản như:
Đánh giá tình hình cách mạng nói chung và của huyện nói riêng sau ngày khởi nghĩa thành công. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách mạng, yêu nước, tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Nhân dân. Quyết định nhanh chóng khôi phục Đảng bộ, phát triển đảng viên và chi bộ mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Tập trung nỗ lực xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng từ huyện đến xã, đồng thời xây dựng và củng cố các đoàn thể quần chúng, nhất là Mặt trận Việt Minh. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiết kiệm, cứu đói. Xây dựng nền giáo dục mới, xây dựng trường lớp cho con em đến trường học tập, chú trọng công tác y tế, bài trừ văn hóa, phong tục lạc hậu... Đối với công tác quân sự, công an, Đại hội nhấn mạnh phải ra sức xây dựng lực lượng dân quân du kích tập trung của huyện và dân quân du kích tại chỗ của các làng xã, thực hiện toàn dân luyện tập quân sự, toàn dân vũ trang để bảo vệ địa phương, cảnh giác với các hoạt động phá rối của bọn phản động và xâm lấn biên giới của quân Pháp từ Lào sang.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 ủy viên, đồng chí Nguyễn Tuy[50], Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính; đồng chí Phan Dỵ - Phó Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Quang Thu - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính; các đồng chí Nguyễn Bính, Nguyễn Văn Sáng là Ủy viên Ban Thường vụ. Huyện ủy viên là các đồng chí: Dương Phương, Mai Minh, Ngô Lập, Thái Đình Hàn, Trần Suất, Đặng Bá Phụng.
Sau Đại hộ, Huyện ủy đã tập trung xây dựng, củng cố Mặt trận Việt Minh các cấp. Ở cấp huyện, Đại hội Mặt trận Việt Minh được tổ chức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Việt Minh huyện gồm 18 người do đồng chí Phan Dỵ làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Sáng làm Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Tuy là ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Dương Đức Cơ là Ủy viên Thư ký.
Thời kỳ này tổ chức Đảng đang trong quá trình phục hồi, sau đó đi vào hoạt động bí mật theo chủ trương của Trung ương Đảng, nên Đảng đã lấy danh nghĩa Việt Minh để lãnh đạo công khai. Tổ chức Đảng được gọi công khai là Ban Tuyên huấn Việt Minh. Về mặt văn bản, tổ chức Đảng được ghi danh là Cứu quốc Hội. Mỗi cán bộ Đảng vừa có chức vụ trong Đảng vừa có chức vụ ở Việt Minh hoặc ở chính quyền. Nhìn bên ngoài quần chúng chỉ thấy cán bộ Việt Minh mà khó thấy được cán bộ Đảng.
Tiếp theo thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945, việc chính thức lập lại Đảng bộ huyện cuối năm 1945 đã đánh dấu mốc chuyển biến căn bản, toàn diện lịch sử huyện Hương Khê sang một giai đoạn mới, vững chắc. Đảng bộ huyện Hương Khê từ đây thực sự là lực lượng cầm quyền, lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ địa phương.
Từ đầu năm 1946, các hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của quân dân trong huyện ngày càng phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Một đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi được triển khai trong các cấp, các ngành, các địa phương với mục tiêu tuyên truyền rộng rãi thắng lợi của cách mạng, nâng cao niềm tự hào và trách nhiệm làm chủ chế độ mới cho toàn Đảng, toàn dân trong huyện. Các chi bộ xã đều tổ chức đại hội lập chi ủy chính thức và bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện. Tổ chức Đảng tăng cường vai trò lãnh đạo mọi công việc và đều lấy danh nghĩa công khai là Đoàn thể. Cấp tổng được bãi bỏ, cấp xã được củng cố.
Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6/01/1946 và bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã ngày 27/2/1946 đã được Đảng bộ lãnh đạo chặt chẽ, Nhân dân hăng hái thực hiện. Các hội quần chúng như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Công nhân, Hội mẹ chiến sĩ, Hội cứu trợ binh sĩ bị nạn... được thành lập và củng cố, tham gia Mặt trận Việt Minh, Liên Việt. Hoạt động gây rối của một số phần tử Việt quốc bị ngăn chặn. Khối đoàn kết toàn dân được tăng cường. Hệ thống chính quyền cấp xã được chấn chỉnh, kết hợp các xã cũ thành các xã mới rộng hơn. Phong trào tăng gia sản xuất, hoạt động giao lưu buôn bán tiếp tục phát triển.
Phong trào bình dân học vụ được toàn dân hưởng ứng với hàng vạn người được thoát nạn mù chữ. Hàng chục trường tiểu học được xây dựng, thu hút con em Nhân dân lao động đến trường học tập. Tháng 10/1946, Trường Trung học Hương Khê[51] được Đảng bộ chỉ đạo xây dựng với sự nỗ lực của các cán bộ chủ chốt như đồng chí Nguyễn Tuy, Nguyễn Văn Sáng, Lưu Văn Xân,... Đây là một trong ba trường trung học công lập đầu tiên dưới chế độ mới ở Hà Tĩnh.
Một nhiệm vụ cấp bách khác của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê sau cách mạng là bảo vệ biên giới, chống quân Pháp từ Lào đánh sang. Trước đó, khi bị Nhật đảo chính, một số tàn quân Pháp đã chạy sang Lào lẩn trốn, nay tìm cách theo đường số 8 từ Napê sang Hương Sơn, Vũ Quang, theo đường Banafào sang Hương Khê... Một số phần tử phản động khi nghe tin Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ cũng có hành vi phản tuyên truyền, tìm cách chống phá chính quyền... Vì vậy, Đảng bộ và chính quyền huyện đã khẩn trương xây dựng lực lượng dân quân du kích, đưa lực lượng sang đánh địch trên đất Lào, hoặc vùng sát biên giới như: Vũ Quang, Tân Ấp.
Từ tháng 10/1945, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở, luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí trong toàn dân, theo chủ trương của tỉnh, một tiểu đoàn vũ trang tập trung được khẩn trương xây dựng ở Hương Khê. Đây là Tiểu đoàn Tự vệ tập trung của huyện, gọi là Tiểu đoàn Giải phóng quân Hương Khê, do đồng chí Ngô Quốc Văn, đồn trưởng đồn Chu Lễ làm Chỉ huy trưởng. Quân số của Tiểu đoàn lúc thành lập có 300 người, đều là thanh niên tình nguyện, con em Nhân dân trong huyện. Việc bảo đảm hậu cần cho Tiểu đoàn đều dựa vào Nhân dân. Trang bị vũ khí huy động trong Nhân dân hay do cán bộ chiến sĩ tự mua sắm mang theo. Huyện đã tổ chức tuần lễ thu góp kim khí để rèn đúc vũ khí cho bộ đội, dân quân. Các hội như: Phụ nữ, Phụ lão, Hội mẹ chiến sĩ đều tổ chức hũ gạo tiết kiệm để cứu đói cho dân nghèo và cung cấp cho Giải phóng quân. Bản thân cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn cũng tự túc một phần lương thực, thực phẩm bằng sự tiếp tế của gia đình. Có hai hạ sĩ quan quân đội Nhật sau chiến tranh đã không về nước mà tình nguyện ở lại giúp ta đánh Pháp, tham gia làm huấn luyện viên quân sự, hướng dẫn cách sử dụng vũ khí cho bộ đội của tiểu đoàn[52].
Tuy vũ khí thô sơ, song Tiểu đoàn đã ra sức tập luyện, hành quân dã ngoại, tập trận giả, động viên khí thế chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chính quyền cách mạng, làm thất bại các âm mưu gây rối loạn của quân Tưởng và tay sai Việt Quốc. Đặc biệt, Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị của tỉnh và của Nghệ An phối hợp đánh tàn quân Pháp ở Napê, Vũ Quang và Tân Ấp, Banafào, diệt một số tên, đuổi chúng sang bên kia biên giới. Chiến thắng Napê, Vũ Quang đã làm thất bại âm mưu đột nhập vào nội địa hòng tiến xuống chiếm lại vùng Nghệ - Tĩnh của quân Pháp, góp phần bảo vệ vững chắc khu vực biên giới phía Tây của tỉnh những ngày đầu sau cách mạng thành công.
Nói chung, suốt năm 1946, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ địa bàn ngày càng được Đảng, chính quyền, quân dân Hương Khê nhận thức đầy đủ hơn và ra sức thực hiện, đạt được nhiều kết quả, có ý nghĩa to lớn cho trước mắt và lâu dài.
II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954)
Đến giữa tháng 12/1946, trong khi tình hình mọi mặt của Hương Khê nói riêng, Hà Tĩnh nói chung đang có sự chuyển biến tốt thì cuộc đấu tranh của quân dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội chống các hành động khiêu khích, gây chiến của thực dân Pháp ngày càng trở nên phức tạp. Quân Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, trao quyền kiểm soát Hà Nội cho chúng. Trước hành động xâm lược trắng trợn đó của địch, đêm 19/12/1946, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động quân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến tỉnh, từ cuối năm 1946, Hương Khê đã được coi là trọng điểm phòng thủ, đồng thời tăng cường chuẩn bị để trở thành một khu căn cứ quan trọng của tỉnh, của Khu IV khi cần thiết. Vì vậy, khi có lệnh kháng chiến của cấp trên và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với quân dân cả nước và quân dân trong tỉnh, quân dân Hương Khê đã lập tức bước vào cuộc kháng chiến theo điều kiện cụ thể của địa phương mình. Đó là triển khai các phương án bố phòng, tăng cường luyện tập quân sự, chuẩn bị sơ tán khỏi các vùng trọng điểm, quản lý chặt chẽ các phần tử xấu, tích cực thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến... Tháng 02/1947, Tiểu đoàn Giải phóng quân huyện Hương Khê và lực lượng của tỉnh đã chặn đánh quân Pháp sang vùng Vũ Quang, đuổi chúng tới tận Càđốcnathon, Napê (Lào).
Đầu năm 1947, quân Pháp đánh mạnh từ phía Nam ra Thừa Thiên, từ Lào sang Quảng Trị, tiếp đó tiến nhanh ra Quảng Bình. Cuộc chiến tranh xâm lược của quân Pháp đã gây ra những thiệt hại và khó khăn cho quân dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên, cơ quan Ủy ban hành chính Trung Bộ và ngành hoả xa. Trong khi đó, các tỉnh phía bắc Khu IV vẫn được bảo vệ vững chắc, trở thành vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, một cuộc sơ tán Nhân dân, di chuyển các cơ quan, đơn vị từ Bình - Trị - Thiên ra các tỉnh phía bắc Khu IV, trước hết là Hà Tĩnh, được khẩn trương thực hiện. Vùng Hương Khê được Ủy ban hành chính Trung Bộ chọn làm An toàn khu (ATK), đặt các cơ quan, trường học, công xưởng, nơi sơ tán của Nhân dân, gia đình cán bộ, học sinh từ Bình - Trị - Thiên ra theo đường sắt. Đội ngũ cán bộ, học sinh, kỹ sư, công nhân kỹ thuật đến sơ tán ở huyện Hương Khê lên tới hàng ngàn người, trong đó có những nhà khoa học có tên tuổi như Giáo sư Phạm Đình Ái, người điều chế ra axít sunfuaric đầu tiên ở nước ta. Trường Kỹ nghệ của Trung Bộ có 12 giáo viên, 31 học sinh...
Từ ngày 25 đến ngày 26/02/1947, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ III tại nhà đồng chí Đặng Bá Soa, xóm Trại, làng Tế Lễ (nay là xã Hương Thủy). Để thực hiện chủ trương toàn quốc kháng chiến của Đảng và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại hội đã bàn định các biện pháp lãnh đạo cuộc kháng chiến ở huyện:
Chuyển toàn bộ hoạt động của huyện sang thời chiến, tiếp tục củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, vận động toàn dân sưu tầm vũ khí cho tự vệ tập trung và dân quân du kích. Tăng cường công tác bố phòng, kết hợp với các đơn vị vệ quốc đoàn đưa lực lượng bố trí ở các điểm cao vùng biên giới Việt - Lào kiên quyết bảo vệ địa bàn, tổ chức đào hầm hào công sự, cắm chông, chống đổ bộ đường không, bảo mật, phòng gian nghiêm ngặt, thực hiện ba không (không nghe, không thấy, không biết). Ra sức bảo đảm an toàn cho các hoạt động của các đơn vị, cơ quan ATK, thực hiện tốt nhiệm vụ căn cứ địa, hậu phương cho Bình - Trị - Thiên.
Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 ủy viên, đồng chí Nguyễn Văn Sáng giữ chức Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, đồng chí Nguyễn Triêm - Phó Bí thư. Ủy viên Ban Thường vụ là đồng chí Lê Hữu Tuy. Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch ủy ban là đồng chí Lưu Văn Xân; các Huyện ủy viên là đồng chí Mai Minh, Vũ Trọng Côn, Dương Đình Cán, đồng chí Liễu, đồng chí Ngân.
Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ lần thứ III, từ đầu năm 1947, quân dân Hương Khê đã có nhiều phong trào thi đua kháng chiến kiến quốc sôi nổi. Các địa phương đã đẩy mạnh tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm để phục vụ cho nhu cầu của địa phương mình và cung cấp cho bộ đội, cán bộ. Với nhiều biện pháp chống hạn, mở rộng diện tích, các vụ sản xuất năm 1947 đều cho thu hoạch khá, đời sống Nhân dân không bị đảo lộn lớn. Nhiều đợt, nhiều lớp huấn luyện quân sự chính trị được mở để đào tạo cấp tốc cán bộ cho các địa phương, đơn vị. Hầu hết Nhân dân Hương Khê đã tham dự các cuộc luyện tập quân sự, tự mua sắm vũ khí sẵn sàng đánh giặc bảo vệ quê hương. Các cán bộ, đảng viên ngày đêm lăn lộn với phong trào, gắn bó với Nhân dân để công tác, được Nhân dân nuôi dưỡng, giúp đỡ mọi mặt. Số lượng và chất lượng đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng tăng lên nhanh chóng. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể quần chúng những ngày đầu kháng chiến được nhanh chóng kiện toàn phù hợp với tình hình thời chiến.
Sự tăng lên đột biến về nhân tài, vật lực do việc sơ tán, tản cư của các cơ quan, công xưởng và Nhân dân từ Bình - Trị - Thiên, Trung Bộ ra từ giữa năm 1947, làm cho vùng Hương Khê nhộn nhịp hẳn lên với bầu không khí sôi động “trên bến dưới thuyền”, đèn điện sáng lung linh ở các cơ xưởng. Sinh hoạt văn hoá, văn nghệ phong phú, tình cảm tiền tuyến, hậu phương chan hoà. Việc Đảng bộ, quân dân Hương Khê được đón tiếp cơ quan cấp trên và đồng bào các tỉnh bạn ra sơ tán là một vinh dự lớn nhưng đồng thời cũng đặt ra cho huyện thêm một trách nhiệm mới, nặng nề. Đó là nhiệm vụ của một vùng căn cứ địa, hậu phương, phải ra sức bảo vệ địa bàn, cung cấp lương thực, thực phẩm, san sẻ cửa nhà, vườn ruộng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan, công xưởng, giúp đỡ cán bộ và Nhân dân tản cư đến.
Trên một khu vực rộng lớn theo tuyến đường sắt chạy dọc huyện và theo sông Ngàn Sâu, Rào Nổ, với trung tâm là Thị trấn Chu Lễ, hàng chục cơ quan, công xưởng, trường học của Trung Bộ được bố trí hoạt động một cách liên hoàn. Tuy về nhiều mặt, các cơ quan, công xưởng của ATK hoạt động độc lập, song về công tác Đảng, các cơ quan đó có Liên chi ủy lãnh đạo, quan hệ công tác mật thiết với Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê. Huyện ủy và Liên chi ủy đã có nhiều cuộc hội nghị liên tịch bàn phối hợp công tác, nhất là việc bảo đảm an toàn và cung cấp hậu cần, nhân lực phục vụ vận tải, sản xuất, bình dân học vụ. Đảng bộ huyện Hương Khê đã chỉ đạo phát động các phong trào đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, phong trào ghi tên tòng quân, phong trào bình dân học vụ, xây dựng nếp sống mới, vệ sinh bảo vệ sức khoẻ, hợp tự đền chùa. Đặc biệt, phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng được khơi dậy sôi nổi với nhiều đội tuồng, chèo, cải lương phục vụ cán bộ, bộ đội, Nhân dân.
Với nhiều cố gắng của cán bộ, bộ đội, Nhân dân sơ tán đến và Nhân dân bản địa nên đến cuối năm 1947, Xưởng bào chế hoá chất, Trường Kỹ nghệ thực hành, Trường Trung học Hương Khê - Bình - Trị - Thiên và nhiều công binh xưởng được thiết lập trên địa bàn huyện, làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quân sự, văn hoá cho Hương Khê.
Thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Đảng, Nhân dân Hương Khê tham gia triệt phá các công sở, nhằm bảo vệ địa phương, bảo vệ các ATK như: phá tan các công sở, nhà xây kiên cố ở Chu Lễ, các nhà ga, đánh sập tất cả các cầu trên tuyến đường sắt đi qua huyện, như: cầu Cửa Rào, cầu Thanh Luyện, cầu Lộc Yên, đường sắt, đường cáp treo Tân Ấp - Xóm Cục - Bainafào… Các tuyến đường liên xã cũng được phá hoại. Nhân dân vừa đào rãnh qua đường, vừa đắp ụ tác chiến bằng đất để ngăn cản các phương tiện cơ giới của thực dân Pháp. Mọi người đều dốc sức, dốc lòng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến mà không quản khó khăn, thiệt hại.
Công tác rào làng chiến đấu được chỉ đạo triển khai tích cực. Học tập kinh nghiệm làng chiến đấu Cự Nẫm (Quảng Bình), Đảng bộ huyện đã lãnh đạo các xã thực hiện nghiêm túc việc rào làng, đắp ụ, làm hầm trú ẩn, cất giấu của cải, lương thực. Mỗi làng chỉ để lại một số cổng làng ra vào, đồng thời lập điếm canh, trạm gác do dân quân du kích các xóm túc trực ngày đêm. Trong các thôn, xóm, bà con tiến hành đào hầm bí mật, hào giao thông ngang, dọc để dễ dàng di chuyển không chỉ trong xóm mà thông sang các xóm khác. Công tác bảo mật, phòng gian, chống gián điệp, biệt kích, bảo vệ cơ quan, trường học, các cơ sở sản xuất... trở thành phong trào rộng khắp trong toàn dân.
Đến cuối năm 1947, Hà Tĩnh bị địch bao vây đánh phá từ ba phía Tây, Nam và Đông nhằm mục tiêu chiếm đóng. Trong tình hình đó, Hương Khê - địa bàn đứng chân lại càng trở nên quan trọng, thiết yếu đối với cả tỉnh, Khu và của cả nước. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ, ngày 6/01/1948, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành Đại hội đề ra chủ trương tập trung xây dựng và bảo vệ Hà Tĩnh thành một tỉnh hậu phương, căn cứ địa vững mạnh của vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, chi viện ngày càng lớn cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Lào. Hà Tĩnh được chia thành ba liên huyện để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, trong đó Hương Khê thuộc Liên huyện I[53].
Ngày 10/01/1948, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ IV tại xã Vĩnh Hương (Hương Châu - Phúc Đồng nay). Đại biểu Đảng bộ cơ quan huyện và các Đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc đã về dự Đại hội. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh:
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển sản xuất, công tác và trường kỳ kháng chiến của Trung ương Đảng, Liên khu ủy. Phát động phong trào thi đua ái quốc, nhất là phong trào luyện quân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đại hội dân quân, phong trào thi đua tòng quân, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Điều tra tình hình ruộng đất, tập quán canh tác để có kế hoạch lãnh đạo sản xuất. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, nâng cao nhận thức tư tưởng và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Lập bộ phận bí mật, bộ phận công khai để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 16 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Triêm, Phó Bí thư là đồng chí Lê Hữu Tuỵ, ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện là đồng chí Nguyễn Văn Sáng. Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban là đồng chí Lưu Văn Xân. Ủy viên Ban Thường vụ là đồng chí Dương Đức Cơ. Huyện ủy viên là các đồng chí: Dương Đình Cán, Hà Văn Nghị, Mai Minh, Đặng Đạo, Lê Đức, Vũ Trọng Côn, Nguyễn Tư Nghĩa, Võ Hiệp Cũng, Trần Đình Phù, Trần Đình Oanh, Mai Xuân Quế.
Từ năm 1948, công cuộc xây dựng và bảo vệ Hương Khê tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào thi đua ái quốc được các tầng lớp Nhân dân tham gia sôi nổi với khẩu hiệu: “Người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”. Trại nuôi bò ở Địa Lợi được mở rộng, cửa hàng tạp phẩm Tam Anh, cửa hàng bán thuốc lá, thuốc lào, thuốc tây và các xưởng sản xuất giấy viết, giấy đánh máy được mở ở nhiều nơi, phong trào tự túc lương thực được các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh. Trên cơ sở phong trào thi đua sản xuất, công tác lên cao, đời sống Nhân dân được cải thiện, văn hoá xã hội phát triển lành mạnh, Đảng bộ được tăng thêm hàng ngàn đảng viên mới.
Việc thực hiện chủ trương tinh giản biên chế cấp huyện, tăng cường cấp xã được Đảng bộ huyện Hương Khê thực hiện nghiêm túc. Các xã nhỏ được hợp nhất lại thành xã lớn. Năm 1948, toàn huyện còn lại 11 xã là: Hương Lĩnh, Tây Hồ, Phú Xuân, Hiệp Phố, Hương Thuỷ, Hương Châu, Phúc Đồng, Tân Hương, Hương Giang, Cao Thắng, Hàm Nghi.
Công tác bảo vệ địa bàn Hương Khê được chú trọng, phần lớn Nhân dân trong độ tuổi 18 - 45 đều tham gia dân quân. Theo chủ trương của tỉnh, tháng 8/1948, Đảng bộ đã chỉ đạo thành lập một đại đội độc lập, thoát ly sản xuất, làm nhiệm vụ thường trực bảo vệ cơ quan, công sở, biên giới[54].
Hậu phương Hương Khê được củng cố, xây dựng ngày càng lớn mạnh đã phát huy tác dụng đối với cuộc kháng chiến, với chiến trường Bình - Trị - Thiên và chiến trường Trung Lào. Phong trào toàn dân tham gia kháng chiến, ủng hộ, đỡ đầu dân quân, đóng góp lương thực, thực phẩm, vận chuyển hàng hoá chi viện mặt trận, đi bộ đội, dân công... diễn ra liên tục, sôi nổi.
Riêng cơ xưởng Chu Lễ, đến tháng 5/1948 đã sản xuất và cung cấp được cho mặt trận Bình - Trị - Thiên 65 khẩu bích kích pháo, 312 súng kíp, 480 quả mìn, 3.160 quả lựu đạn và hàng vạn viên đạn các loại[55]. Năm 1948, Hương Khê đã khôi phục lại tuyến đường sắt dùng chạy ôtô ray, từ Hoà Duyệt đi Chu Lễ, Khe Nét, Minh Cầm (Quảng Bình). Những chỗ không bắc được cầu thì chuyển tải bằng cáp treo, cầu tạm, hoặc bằng thuyền qua sông, suối. Trong năm 1948, các đầu máy goòng BTT1 và BTT2 (BTT là Bình - Trị - Thiên) đã vận chuyển được vào Quảng Bình 358 tấn thóc, 449 tấn gạo, 33 tấn ngô, 205 tấn muối, 33.513 mét vải, 92.735 viên thuốc tân dược.
Ngày 6/01/1949, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ V được triệu tập, họp tại nhà đồng chí Dương Đình Cán, xã Tân Hương (Hương Bình). Sau khi thảo luận tình hình nhiệm vụ, đánh giá công tác nhiệm kỳ qua, Đại hội đã quyết nghị:
Đề cao trách nhiệm hậu phương đối với chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Trung Lào, cả về chi viện quân sự và kinh tế. Tăng cường bố phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện thế trận chiến tranh Nhân dân để đối phó với các cuộc tập kích, đột kích của địch. Đẩy mạnh cuộc vận động tăng gia sản xuất, phát động Nhân dân bỏ vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Thực hiện một bước giảm tô, chống hoạt động bao vây kinh tế của địch. Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và củng cố các đoàn thể Cứu quốc, tăng cường công tác cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, ra sức phát triển đảng viên mới, đặt mục tiêu cho công tác phát triển Đảng đạt tỷ lệ 300% theo tinh thần nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, nâng cao trình độ lý luận cho đảng viên, thực hiện kiểm thảo, chỉ trích tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, địa phương, bản vị trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Triêm; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện là đồng chí Dương Đức Cơ; Ủy viên Ban Thương vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hàng chính huyện là đồng chí Ngô Quốc Văn; hai ủy viên Ban Thường vụ phụ trách công tác Mặt trận và Công an là đồng chí Hà Văn Nghị và Mai Minh. Huyện ủy viên là các đồng chí: Lê Đức, Võ Văn Quang, Phan Thương, Võ Hiệp Cũng, Trần Đình Oanh, Đặng Đạo, Mai Xuân Quế, Nguyễn Đình Niêm, Nguyễn Văn Chữ và đồng chí Châu.
Theo nghị quyết của Đại hội, năm 1949, Hương Khê có nhiều phong trào nổi bật, như cuộc vận động đỡ đầu dân quân, phát triển Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng... Phong trào thi đua ái quốc tiếp tục lên cao nhằm vào ba mục tiêu chính là: tự túc ăn mặc, thanh toán nạn mù chữ, xây dựng lực lượng dân quân. Lực lượng dân quân tự vệ phát triển mạnh, chiếm 25% số dân, nhiều xã đạt 50% số dân. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh, với hàng ngàn đảng viên mới, tổ chức Đảng có ở tất cả các làng, xã trong toàn huyện.
Do cuộc kháng chiến của quân dân cả nước chuyển dần từ cầm cự sang phản công nên yêu cầu chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng lớn. Cuộc vận động hiến tiền, gạo nuôi quân, hiến ruộng, quần áo, vũ khí được đẩy mạnh với các hình thức vận động phong phú. Nhiều bài thơ, hò, vè cổ động các phong trào được sáng tác, lưu hành[56]. Nhân dân tích cực thực hiện chủ trương hiến điền cho kháng chiến, nhiều địa chủ cũng đã “cúng” ruộng đất, trâu bò cho chính quyền để tỏ rõ sự ủng hộ kháng chiến và có số để tránh việc thực hiện giảm tô 25%. Qua phong trào này, các địa phương đã huy động được số lượng vật chất rất lớn, nhiều gia đình nuôi dân quân của thôn, của xã để luyện tập quân sự có đợt vài tuần, có đợt một tháng. Nhiều địa phương giao cho dân quân số ruộng đất và trâu bò, lợn, gà, nông cụ, nhà cửa do Nhân dân góp để quản lý sản xuất nhằm tự túc phục vụ tập luyện. Năm 1949, thông qua tuyến đường goòng Thanh Luyện, Chu Lễ, Đò Vàng, Ngành Hoả xa và dân công Hương Khê đã vận chuyển cho mặt trận Bình - Trị - Thiên được 2.012 tấn lương thực, vũ khí, thuốc men và phục vụ 30.479 lượt cán bộ, bộ đội, dân công qua lại giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình. Xí nghiệp Đường goòng Hà Tĩnh (ở Hương Khê) là đơn vị đầu tiên của Hà Tĩnh được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Thực hiện chủ trương phát triển Đảng sâu rộng, làm cho Đảng trở thành một Đảng mang tính chất quần chúng rộng rãi, công tác phát triển đảng viên mới được đẩy mạnh. Tỉnh ủy giao chỉ tiêu cho Huyện ủy, Huyện ủy giao chỉ tiêu cho chi bộ xã, chi bộ xã giao chỉ tiêu cho từng đảng viên phải vận động, giáo dục kết nạp đảng viên mới đạt số lượng nhất định trong từng tháng, từng quý. Do đó, nhiều chi bộ chỉ lo đảm bảo chỉ tiêu số lượng, coi nhẹ chất lượng, việc thẩm định lý lịch đảng diễn ra lỏng lẻo, có người còn ghi tên người thân quen, trong gia đình mình vào Đảng. Chỉ tính ở xã Hương Lĩnh số đảng viên kết nạp thời kỳ này đã lên tới 653 người. Tình trạng đó làm cho số lượng đảng viên trong Đảng bộ tăng nhanh, song chất lượng không bảo đảm, nhất là về ý thức giác ngộ giai cấp, trình độ lý luận, không được rèn luyện thử thách chu đáo. Thậm chí có đảng viên mù chữ, một số là phần tử cơ hội, có cả địa chủ, lập trường chính trị không rõ ràng cũng đưa vào Đảng.
Phong trào thi đua xoá nạn mù chữ được phát động sôi nổi. Năm 1949, Hương Khê được công nhận là huyện thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân, góp phần làm cho tỉnh Hà Tĩnh trở thành tỉnh đầu tiên trong cả nước thanh toán nạn mù chữ, được nhận thư khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (15/5/1949) và Huân chương Độc lập của Chủ tịch nước (6/1949). Năm 1950, cuộc cải tổ giáo dục được đẩy mạnh ở Hương Khê, lôi cuốn sự quan tâm, đóng góp của Nhân dân vào phát triển giáo dục, cả quốc lập và dân lập. Các trường tiểu học, trung học được chuyển thành trường phổ thông cấp I, cấp II. Hầu hết các xã có trường phổ thông cấp I, toàn huyện có một trường phổ thông cấp II, đào tạo tới lớp 7[57].
Phong trào ghi tên tòng quân lên cao, nhiều xã có 100% thanh niên xung phong lên đường tham gia kháng chiến. Các đoàn thể quần chúng thu hút được đông đảo Nhân dân tham gia. Đảng bộ đã vận động được 85% số dân tham gia các đoàn thể khác nhau như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu vong, Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ lão... Tháng 4/1950, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt huyện đã mở đại hội hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt huyện.
Phát hiện sự lớn mạnh của hậu phương ta và để ngăn chặn các cuộc tiến công của quân ta trên các chiến trường, thực dân Pháp đã tăng cường đánh phá vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Thủ đoạn của Pháp là bất ngờ cho quân từ biển lên, từ Lào sang đánh phá nhằm mở rộng phạm vi, chiếm giữ lâu dài, đi tới xoá bỏ vùng tự do này. Hành động thường xuyên là dùng máy bay ném bom đường sá, cầu cống, kho tàng, rải truyền đơn truyên truyền phản động, cho gián điệp đột nhập để gây bạo loạn, làm mất ổn định hậu phương ta... Hương Khê là vùng ATK của Liên khu IV, có tuyến đường goòng nối liền vùng tự do với chiến trường Bình - Trị -Thiên, có đường chiến lược sang Trung Lào nên đây là một trọng điểm ném bom của máy bay, gây bạo loạn của gián điệp địch[58].
Trận ném bom lớn đầu tiên của máy bay địch xuống Hương Khê là tháng 10/1948. Bom địch đã ném xuống đường ôtô khu vực Thuỷ Lâm, Chu Lễ, làm hỏng đường và hư hại một số ruộng lúa. Ngày 6/01/1950 và ngày 17/01/1950, máy bay địch đánh phá dữ dội vùng ga Chu Lễ. Ngày 6/01/1950, địch ném 50 quả bom xuống khu vực Thị trấn nay làm 3 người chết, 7 người bị thương, 6 nhà cháy, 9 nhà bị sập. Ngày 17/01/1950, địch tiếp tục ném 40 quả bom loại 50 kg làm 16 nhà dân bị cháy và bị chết 2 người dân đi thuyền.
Hành động đánh phá của địch đã gây cho Hương Khê nhiều thiệt hại, song tội ác của chúng càng làm cho quân dân ta thêm căm thù, cảnh giác, quyết tâm xây dựng và bảo vệ địa phương, ra sức chi viện tiền tuyến.
Ngày 15/5/1950, Đảng bộ huyện Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ VI tại nhà đồng chí Nguyễn Kim Hạp (xã Phú Phong). Đại hội đã thảo luận và quyết nghị:
Đẩy mạnh công tác, nhằm phục vụ kháng chiến, tích cực tăng gia sản xuất, tổ chức đời sống văn hoá - xã hội cho Nhân dân. Chiến đấu và phục vụ chiến đấu; quán triệt đưa cách mạng dân tộc dân chủ chuyển nhanh sang “Tổng phản công”. Tổng động viên nhân tài, vật lực để xây dựng lực lượng, lấy xây dựng bộ đội địa phương làm trọng tâm, chi viện cho mặt trận là thiết thực bảo vệ hậu phương. Xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Hà Văn Nghị, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện là đồng chí Dương Đức Cơ. Ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí: Nguyễn Văn Cung, Hồ Sỹ Định, Phan Kha. Huyện ủy viên gồm các đồng chí: Ngô Xuân Áng, Nguyễn Tư Nghĩa, Đoàn Đào, Phạm Quang Nậm, Trần Tùng, Phan Du, Nguyễn Tú, Nguyễn Kim Hạp...
Tháng 10/1950, Hương Khê bị một trận lụt lớn chưa từng có, Nhân dân bị
thiệt hại lớn về người và của. Nhiều đoạn đường sắt, đường bộ bị hư hỏng, nhiều kho tàng của Nhà nước bị ngập, tổn thất hàng trăm tấn lúa, nhiều sổ sách, giấy tờ, nhiều nhà cửa, trâu bò bị lũ cuốn trôi.
Từ năm 1951 về sau, Hương Khê cùng toàn tỉnh làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến, cho cả mặt trận Bình - Trị - Thiên, Lào và các mặt trận ở chiến trường chính Bắc Bộ. Các đợt dân công của Hương Khê đã đi sâu phục vụ bộ đội ở Bình - Trị - Thiên và Trung Lào.
Tháng 02/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương được tiến hành. Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Tháng 4/1951, tại huyện Hương Khê, Đại hội đại biểu Nhân dân Trung Lào cũng được tiến hành để hoan nghênh chủ trương thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Đảng cách mạng riêng và thực hiện cuộc liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương trên cơ sở mới. Đảng bộ, chính quyền và đoàn thể Nhân dân của cả tỉnh, huyện, xã đã cử các đoàn đại biểu đến chào mừng Đại hội, tỏ tình đoàn kết với quân dân nước bạn. Đảng bộ và Nhân dân huyện Hương Khê đã thực hiện tốt việc giúp đỡ để Đại hội đại biểu Nhân dân Trung Lào tiến hành thành công tốt đẹp.
Ngày 15/7/1951, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ VII được tiến hành tại nhà đồng chí Hiên, xã Tân Hương (Hương Bình)[59]. Nội dung Đại hội là:
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (02/1951) về tình hình thời gian qua và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới trong phạm vi cả nước. Đánh giá tình hình công tác nhiệm kỳ qua của Đảng bộ huyện và đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới là tiếp tục xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Ra sức xây dựng Đảng, xây dựng mặt trận, các đoàn thể, xây dựng lực lượng về mọi mặt,...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 19 ủy viên do đồng chí Hà Văn Nghị làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Ngô Xuân Áng, Huyện ủy viên, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, đồng chí Nguyễn Văn Cung là Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí Hồ Sỹ Định, Phan Kha. Các Huyện ủy viên là: Lê Đình Sửu, Mai Minh, Nguyễn Đình Hạnh, Phan Du, Trần Đức Thắng, Đoàn Đào, Trần Suất, Trần Tùng, Nguyễn Niệm, Đặng Mạnh, Phan Nguyên, Phạm Triện, Hồ Sỹ Tương, Phan Thị Đường, Lê Xuân Bính...[60].
Sau Đại hội, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức cho toàn Đảng bộ học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, nhất là Chính cương, Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam.
Việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp được triển khai thành cuộc đấu tranh lớn trong toàn huyện về lợi ích kinh tế. Nhiều địa chủ đã phản ứng chính sách thuế nông nghiệp bằng cách bỏ hoang ruộng đất để không phải nộp thuế. Huyện ủy đã mở cuộc họp quan trọng tại đền Trạng (Hương Thuỷ) để triển khai cuộc đại vận động sản xuất, tiết kiệm chống lại hành động để hoang hoá ruộng đất của địa chủ và một số nông dân. Cuộc vận động tăng gia sản xuất, tiết kiệm, thực hiện chính sách thuế nông nghiệp được đẩy mạnh từ cuối năm 1951 và kéo dài liên tục trong năm 1952, đưa lại kết quả to lớn về kinh tế, chính trị.
Cuối năm 1951, bọn phản động đội lốt tôn giáo gây ra vụ phiến loạn ở xã Tây Hồ (Lộc Yên) nhằm âm mưu khiêu khích, tạo cớ nổi loạn chống đối chính quyền. Mục tiêu của chúng là chống chính sách thuế nông nghiệp của Đảng và làm mất ổn định vùng hậu phương trực tiếp chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên và cho cả miền Nam. Nhân ngày Lễ Trái tim Đức Mẹ ở xứ Tràng Lưu (21/8/1951), chúng huy động giáo dân xứ Tràng Lưu và vùng lân cận ra đường giương cờ, khẩu hiệu, đánh trống biểu dương lực lượng mà không xin phép chính quyền. Khi công an địa phương ra khuyên bảo, chúng đánh bị thương, công an đã điều tra và bắt 3 tên. Bọn phản động tiếp tục xúi giục, kích động giáo dân biểu tình chống đối, công khai tuyên bố “bất hợp tác với chính quyền” và “đình công kháng chiến”. Chúng thành lập đội quân cảm tử gồm hàng trăm thanh niên có vũ trang giáo mác, gậy gộc canh gác nhà thờ ngày đêm và lập hệ thống báo động bằng trống liên hoàn từ xứ Tràng Lưu đến các họ, xứ trong toàn huyện để đối phó với chính quyền.
Trước tình hình nghiêm trọng trên, Liên khu 4, Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Công an tỉnh lập đoàn công tác về phối hợp với huyện Hương Khê giải quyết vấn đề. Dưới sự lãnh đạo của đoàn công tác, Huyện ủy Hương Khê đã đẩy mạnh công tác về tuyên truyền, vận động để bà con giáo dân hiểu rõ về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước là tôn trọng tự do tín ngưỡng, không nghe theo luận điệu phản động, xuyên tạc. Đồng thời, phối hợp với các lực lượng điều tra tìm ra các đối tượng cầm đầu, đưa chúng ra trước giáo dân vạch rõ âm mưu dùng vỏ bọc tôn giáo để tiếp tay cho kẻ địch chống đối chính quyền, khôi phục lại khối đoàn kết toàn dân. Sau hơn một năm đấu tranh, vụ việc được giải quyết, đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của bọn phản động trước công luận và bà con giáo dân; an ninh trật tự ở địa phương trở lại ổn định, giáo - lương đoàn kết, phấn khởi tham gia sản xuất, kháng chiến.
Năm 1952, phong trào sản xuất, tiết kiệm tuy được đẩy mạnh, song cuối năm, Hương Khê bị ba trận lụt, gây thiệt hại lớn. Do đó, việc thu thuế nông nghiệp gặp trở ngại. Huyện ủy Hương Khê bị Tỉnh ủy phê bình, chỉ đạo kiểm điểm do không lãnh đạo thực hiện tốt công tác thu thuế nông nghiệp. Đảng bộ đã nhận khuyết điểm, vận động nhân dân lao động sản xuất, cố gắng hoàn thành chỉ tiêu. Tuy vậy, đời sống Nhân dân rất khó khăn.
Do nhu cầu vận tải, tiếp tế cho mặt trận ngày càng tăng, sự đánh phá đường sá của máy bay địch ngày một nhiều, năm 1952, công tác giao thông ở Hương Khê tiếp tục được đẩy mạnh. Lực lượng hoả xa ở Hương Khê được tổ chức theo hình thức xí nghiệp quốc doanh, gọi là Công ty đường goòng Tĩnh - Bình. Cán bộ, công nhân công ty đã chế tạo được 5 đầu máy kéo kiểu BTT (Bình - Trị - Thiên) trọng tải từ 8 đến 16 tấn và 40 goòng đẩy tay các loại từ 7 tạ đến 3 tấn. Công nhân đã dùng dầu lạc, dầu đu đủ thay thế dầu mỡ, bảo đảm chạy goòng. Số vốn của Xí nghiệp năm 1952 có 10.625.606 đồng, năm 1953 có tới 46.940.828 đồng.
Thời gian này, cơ quan Huyện ủy đóng tại làng Trung Định nhưng có sự thay đổi về nhân sự. Đến tháng 4/1952, có 4 đồng chí được bổ sung vào Huyện ủy là Nguyễn Văn Tư, Trần Đình Hậu, Hoàng Mỹ, Nguyễn Kim Dự. Cuối năm 1952, đồng chí Đặng Tỵ được điều động lên công tác ở huyện, làm Bí thư Thanh niên Cứu quốc.
Nhiệm vụ lớn của Đảng bộ huyện Hương Khê từ năm 1952 là lãnh đạo thực hiện các đợt giảm tô, xây dựng Đảng, huy động dân công, lương thực, thực phẩm phục vụ các chiến dịch lớn cả ba hướng Bình - Trị - Thiên, Trung Lào và Bắc Bộ.
Đảng bộ Hương Khê đã nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Khu ủy và Tỉnh ủy về phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức, thu thuế nông nghiệp và xây dựng Đảng, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Thời điểm này, việc thu thuế nông nghiệp gặp khó khăn do bị lụt lớn, mất mùa, nhiều vùng bị đói, phải cứu tế.
Tháng 4/1953, cuộc vận động chỉnh Đảng tập trung vào vấn đề lập trường giai cấp, động cơ vào Đảng, thực hiện thuế nông nghiệp và giảm tô. Huyện ủy Hương Khê bị khiển trách là hữu khuynh trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ. Tỉnh ủy đã thi hành kỷ luật tập thể Ban Thường vụ và đồng chí Bí thư Huyện ủy, một số cán bộ điều động đi công tác ở nơi khác.
Năm 1954, chủ trương giảm tô được thực hiện trên diện rộng, tỉnh lập các đoàn giảm tô về tận xã. Việc thu thuế nông nghiệp ở Hương Khê gặp khó khăn do bị lụt lớn, mất mùa, nhiều vùng bị đói, phải cứu tế. Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện bị cách chức, một số đồng chí khác bị hạ bậc công tác.
Trong thời gian cuối năm 1953, đầu năm 1954, bộ máy Huyện ủy có sự thay đổi lớn. Thay cho số cán bộ bị kỷ luật và đi công tác nơi khác là một số đồng chí được bổ sung mới như: đồng chí Đặng Mạnh, đồng chí Phan Nguyên (đầu năm 1954), đồng chí Phạm Triện và đồng chí Hồ Sỹ Tương (9/1954)... Vị trí Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện từ đầu năm 1953 có sự thay đổi liên tiếp. Sau khi đồng chí Hà Văn Nghị được điều động đi công tác khác (5/1953), chức vụ Bí thư Huyện ủy do đồng chí Trần Đình Hậu đảm nhiệm[61]. Đồng chí Hoàng Mỹ là Phó Bí thư phụ trách công tác chính quyền.
Sự biến động trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện và việc nhiều cán bộ bị kỷ luật, bị điều động đi công tác khác thời kỳ này có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Thời kỳ này, Đảng ta có chủ trương đưa một số nhân sĩ trí thức, thành phần lớp trên tham gia các đoàn thể và chính quyền để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Theo đó, Hương Khê đã đưa đồng chí Ngô Xuân Áng, một đảng viên người Công giáo làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện; ông Ngô Soa, một chủ đồn điền lớn làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện... Việc làm đó khi thực hiện giảm tô bị coi là có quan hệ với địa chủ trong công tác cán bộ.
Trong thời kỳ diễn ra cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, Hương Khê là hậu phương trực tiếp của chiến dịch Trung Lào, địa bàn tập kết lực lượng, là nơi xuất quân của bộ đội, dân công tham gia chiến dịch.
Theo quyết định của Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh, ngày 18/11/1953, một bộ phận của Đại đoàn 304 từ Thanh Hoá vào hợp quân với Đại đoàn 325 ở Hương Khê thành lập Bộ Chỉ huy và lực lượng chiến dịch Trung Lào do các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Quý Hai chỉ huy. Tổng quân số tham gia chiến dịch lên tới 10.000 cán bộ, chiến sĩ. Toàn bộ chiến dịch ta đã huy động 80.909 dân công với 5.944.865 ngày công, trong đó Hà Tĩnh đảm nhiệm phần chính, tới 56.000 người, riêng số dân công cho hỏa tuyến hoạt động trên đất Lào là 28.300 người. Số vật chất cung cấp cho bộ đội, dân công là 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò, cấp phát 50 tấn vũ khí đạn dược[62]. Tháng 01/1954, Hà Tĩnh đã huy động 1.299 chiếc thuyền các loại, 394 xe đạp thồ phục vụ vận tải.
Là hậu phương trực tiếp của chiến dịch, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện dốc sức người, sức của, ý chí, tinh thần phục vụ tiền tuyến. Hàng vạn dân công Nghệ An, Hà Tĩnh, trong đó có hàng ngàn dân công Hương Khê, đã liên tục nạo vét sông Ngàn Sâu, tu sửa đường sắt bảo đảm cho các đoàn thuyền vận tải từ Đức Thọ chuyển lương thực lên chợ Trúc, Chu Lễ, chợ Sòng. Từ đó dân công lại chuyển lên các ga đường sắt để goòng chuyển tiếp vào Quảng Bình rồi chuyển sang Lào phục vụ bộ đội. Đường bộ chạy từ Linh Cảm lên Cửa Rào, Thanh Luyện, Chu Lễ vào Quảng Bình được gấp rút xây dựng. Chu Lễ là tổng kho của mặt trận Trung Lào, nơi đặt phòng hậu cần của Đại đoàn 325 và 304 trong chiến dịch Trung Lào. Lực lượng của hai đại đoàn này và dân công hoả tuyến đã được nhận bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm tại tổng kho Chu Lễ trước khi rời hậu phương ra tiền tuyến. Chỉ trên tuyến đường goòng, năm 1953, ta đã chuyên chở được 38.418 bộ đội, hành khách, 3.771 tấn hàng hoá và 251 tấn hành lý[63].
Được hậu phương hết sức chi viện, bộ đội Đại đoàn 325 và 304 cùng quân dân nước bạn đánh địch ở Trung Lào, giành thắng lợi vang dội ở Banafào, đèo Mụ Giạ, tiến xuống Hạ Lào, sang sát sông Mê Công, loại khỏi vòng chiến đấu 4.000 tên địch, giải phóng phần lớn vùng Trung, Hạ Lào. Chiến thắng Trung, Hạ Lào mà trong đó Đảng bộ, quân dân Hương Khê đóng góp một phần quan trọng đã phối hợp với Chiến dịch Điện Biên Phủ và các chiến trường khác, đưa cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân dân ta đến thắng lợi vẻ vang.
Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, Đảng bộ Hương Khê đã tiếp tục lãnh đạo Nhân dân làm tốt nhiệm vụ hậu phương trong tình hình mới. Nhiều cán bộ Đảng, chính quyền, quân sự, đoàn thể đã được cử đi tham gia các đoàn tiếp quản vùng mới giải phóng ở Quảng Bình. Nhiều địa phương đã tổ chức đón tiếp, cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, cán bộ, dân công, Nhân dân từ Trung Lào, Bình - Trị - Thiên, Khu V ra tập kết.
Nhìn chung, trong thời kỳ 1945 - 1954, Đảng bộ Hương Khê đã trải qua một chặng đường nhiều thử thách, biến cố, đạt nhiều thành tựu lớn nhưng cũng mắc phải một số khuyết điểm, thiếu sót.
Ưu điểm, thành công của Đảng bộ trong thời kỳ 1945 - 1946 là đã lãnh đạo Nhân dân chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững được thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám. Đồng thời nỗ lực vượt qua các trở ngại chủ quan, khách quan sau bao năm bị kẻ địch đánh phá để khôi phục hệ thống tổ chức Đảng, lập lại cơ quan Đảng bộ. Những cố gắng và kết quả đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, căn bản, đã đặt nền móng vững chắc, lâu bền cho tiến trình phát triển về sau của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng bộ đã chấp hành nghiêm chỉnh đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Trung ương Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của Khu ủy và Tỉnh ủy. Mọi chủ trương, chỉ thị của cấp trên đều được Đảng bộ quán triệt, vận dụng vào thực tế địa phương để đề ra các nhiệm vụ, biện pháp, tổ chức Nhân dân thực hiện. Hệ thống chính trị của huyện được xây dựng và củng cố. Hệ thống tổ chức Đảng được thiết lập hoàn chỉnh từ huyện xuống các xã, các thôn xóm với hàng chục đảng bộ, hàng trăm chi bộ và hàng ngàn đảng viên. Huyện ủy tuy có nhiều biến động về nhân sự, song đã giữ vững vai trò trung tâm lãnh đạo của Đảng bộ, có nhiều chủ trương đúng đắn lãnh đạo quân dân trong huyện thực hiện tốt các nhiệm vụ của trên giao, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền là công cụ sắc bén của Nhân dân, thực hiện chuyên chính với kẻ địch và bọn phản động, tổ chức Nhân dân sản xuất, xây dựng, học tập... Hầu hết Nhân dân tích cực tham gia các đoàn thể kháng chiến. Các hội quần chúng được tổ chức với hàng vạn hội viên.
Trên cơ sở hệ thống chính trị được xây dựng và phong trào quần chúng sôi nổi, liên tục, Đảng bộ đã lãnh đạo xây dựng Hương Khê trở thành một huyện căn cứ địa, hậu phương có tiềm lực ngày càng lớn mạnh, về kinh tế, nói chung Hương Khê đã chú trọng sản xuất lúa, hoa màu, khai thác lâm thổ sản, chăn nuôi đại gia súc, trong đó có cả những cơ sở sản xuất tập trung của huyện. Cơ bản huyện đã tự trang trải được lương thực và có phần đóng góp cho kháng chiến. Về văn hóa xã hội, Hương Khê là nơi có nền giáo dục phát triển với hệ thống trường học khá đều khắp, trong đó có trường Trung học (đào tạo đến lớp 7, là một trong số ít huyện ở Hà Tĩnh và Khu IV có mô hình trường này). Công tác y tế, vệ sinh, cứu chữa thương, bệnh binh đều được chú trọng. Hoạt động văn hóa văn nghệ của Nhân dân có nhiều tiến bộ, quan hệ Nhân dân, quân dân, Đảng với dân được tăng cường. Về quân sự, Hương Khê là một trong những huyện có bộ đội địa phương mạnh nhất của Hà Tĩnh. Tiểu đoàn bộ đội tập trung của huyện đã tham gia nhiều trận ở vùng biên giới Việt - Lào, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Với sự phát triển về mọi mặt, huyện Hương Khê không chỉ bảo vệ được địa bàn, xây dựng thành hậu phương mà còn có nhiều đóng góp cho kháng chiến. Đó là đã hoàn thành tốt vai trò căn cứ địa cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, cho các cơ quan của Ủy ban hành chính Trung Bộ và cho kháng chiến của quân dân nước bạn Lào. Tại đây, nhiều cơ quan, công xưởng của Trung Bộ, của các tỉnh bạn phía nam đã ra đứng chân, hàng vạn Nhân dân đã ra sơ tán. Nhiều đoàn cán bộ, bộ đội của cách mạng Lào đã sang đứng chân, đặt cơ sở huấn luyện tại Hương Khê. Nhiều nơi là địa điểm đóng cơ quan của lực lượng kháng chiến Trung Lào[64].
Hương Khê là địa bàn tập kết lực lượng của Đại đoàn 325 và Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304 trong chiến dịch Trung Lào thời kỳ tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Hương Khê đã tiếp nhận hàng ngàn cán bộ, bộ đội, Nhân dân từ Trung Lào, từ Bình - Trị - Thiên ra tập kết.
Với những thành tựu đó, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện hoàn thành nhiệm vụ mà cuộc kháng chiến đòi hỏi, huyện căn cứ địa, hậu phương trong vùng tự do, căn cứ địa hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm đó, Đảng bộ Hương Khê cũng mắc phải một số tồn tại, hạn chế trong lãnh đạo phong trào quần chúng. Đó là có lúc đã giải quyết không tốt các vấn đề huy động sức dân, hoặc vấn đề tôn giáo cũng như trong công tác xây dựng Đảng, nên để xảy ra một số vụ việc.
Bài học kinh nghiệm của Đảng bộ Hương Khê thời kỳ kháng chiến chống Pháp được rút ra là:
Thứ nhất, phải ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh, phải củng cố chính quyền và đoàn thể quần chúng để tạo nên hệ thống chính trị ổn định, vững chắc làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân. Trong xây dựng Đảng phải chú trọng việc giáo dục lý luận, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đảng viên vững vàng về chính trị, có năng lực trong công tác, sâu sát gần gũi quần chúng. Trong xây dựng chính quyền phải chú ý tính chất dân chủ Nhân dân, phải làm cho bộ máy chính quyền thật sự là của dân, do dân và vì dân. Trong xây dựng các đoàn thể kháng chiến phải chú ý tính chất quần chúng rộng rãi, thu hút đông đảo mọi tầng lớp Nhân dân, cô lập bọn phản động và kẻ thù.
Thứ hai, phải phát động phong trào quần chúng, coi phong trào quần chúng là điều kiện để thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước. Khi có được sự hưởng ứng của quần chúng thì các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc sẽ được thực hiện hiệu quả. Ngược lại, không chú ý phát động, giáo dục quần chúng mà nặng về gò ép, mệnh lệnh thì có thể được việc trước mắt, song về lâu dài sẽ tạo ra sự ngăn cách giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền, ảnh hưởng đến khối đoàn kết, hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ sẽ giảm sút.
Thứ ba, phải xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Nhiệm vụ cách mạng, kháng chiến là công việc to lớn, tốn nhiều sức người, sức của và cả xương máu, do đó rất cần có tiềm lực ngày càng hùng hậu. Lực lượng đó phải dựa vào sức mình là chính, nghĩa là phải dựa vào các tầng lớp Nhân dân trong huyện, không trông chờ ỷ lại bên ngoài. Thực lực đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, là sự kết hợp tất cả thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh Nhân dân toàn dân, toàn diện. Đảng bộ Hương Khê đã chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp (chủ yếu là sản xuất vũ khí), cả thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhờ vậy, Hương Khê không có nạn đói mà còn có phần đóng góp cho kháng chiến. Trong xây dựng nhân lực, Đảng bộ đã lôi cuốn hầu hết Nhân dân tham gia các đoàn thể kháng chiến, nhờ đó Hương Khê đã có hàng vạn dân công phục vụ tiền tuyến, có hàng ngàn thanh niên gia nhập quân đội. Ngoài ra, Đảng bộ còn đào tạo được nhiều cán bộ cung cấp cho các yêu cầu công tác ở địa phương khác.
Thứ tư, phải nắm vững đặc điểm huyện căn cứ địa, hậu phương, bồi dưỡng đi đôi với huy động sức dân. Đảng bộ Hương Khê nhận thức ngay từ đầu đặc điểm của địa phương là huyện hậu phương, do đó chú ý kết hợp xây dựng với bảo vệ, kết hợp bồi dưỡng sức dân với huy động cho kháng chiến. Trong thực tế, Hương Khê đã trở thành một hậu phương có tiềm lực khá về mọi mặt và một ATK vững chắc của Liên khu, của tỉnh, một địa bàn đứng chân quan trọng của lực lượng vũ trang và cơ quan tỉnh bạn, của kháng chiến Lào. Hơn thế, Hương Khê còn cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Lào và chiến trường chính Bắc Bộ. Có được như vậy là do Đảng bộ đã biết kết hợp ngay từ đầu và suốt cuộc kháng chiến việc xây dựng với bảo vệ, bồi dưỡng sức dân bằng các chính sách có lợi cho nông dân để từ đó có điều kiện mà huy động cho tiền tuyến.
CHƯƠNG IV ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1954 - 1965)
I. LÃNH ĐẠO HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ (1954 - 1957)
Tháng 7/1954, hoà bình lập lại ở Đông Dương, song nước ta lại bị chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (cầu Hiền Lương - sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Cùng với quân dân miền Bắc và quân dân trong tỉnh, quân dân Hương Khê bước sang thời kỳ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh hoà bình. Thuận lợi có nhiều, song khó khăn của Hương Khê lúc này cũng không ít. Đó là nền kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, đời sống Nhân dân khó khăn, thêm vào đó là hậu quả chiến tranh để lại còn nặng nề.
Lúc này, kẻ địch ở phía Nam vẫn ra sức tuyên truyền dụ dỗ đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, trong đó không ít người ở Hương Khê cũng tìm cách bỏ quê hương, gây nên nguy cơ xáo động trong Nhân dân theo đạo Thiên chúa. Theo chủ trương của tỉnh, Huyện ủy đã thành lập Ban chống di cư, cử các cán bộ có uy tín về vùng đồng bào có đạo tuyên truyền, giải thích chính sách đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Mặt khác, trực tiếp cảnh cáo những phần tử phản động, xuyên tạc chính sách, gây chia rẽ lương giáo, chia rẽ Nhân dân. Nhờ sự tích cực của cán bộ, tinh thần giác ngộ của Nhân dân mà về cơ bản ta đã giữ được đồng bào, huyện không bị ảnh hưởng lớn.
Để ổn định tình hình, Huyện ủy chủ trương ra sức phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế. Với sự giúp đỡ của bộ đội, nhiều nơi trong huyện đã tu sửa công trình thủy lợi, đào đắp kênh mương dẫn nước, phục hóa, khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Hình thức tổ chức tổ đổi công, vần công được phát triển ở nhiều nơi trong huyện. Tuy có nhiều cố gắng trong sản xuất, song do lụt lớn (tháng 10/1954) nên tình hình kinh tế, đời sống của Nhân dân Hương Khê sau hòa bình vẫn có nhiều khó khăn.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phòng, chống đói và phục hồi sản xuất (3/11/1954), theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, đầu năm 1955, Huyện ủy Hương Khê đã tổ chức hội nghị quân dân chính Đảng, phát động phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Đồng thời kêu gọi mọi tầng lớp Nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, giải quyết nạn đói lúc giáp hạt. Với chủ trương đó, Nhân dân Hương Khê đã có nhiều hình thức giúp nhau sản xuất, đời sống, giảm thiểu sự thiếu đói. Tuy vậy, trong chỉ đạo nhiều nơi cũng có những lệch lạc, như trông chờ, ỷ lại cấp trên, chưa có nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực chủ động giải quyết nạn đói, việc huy động nhà khá giả ủng hộ nhà nghèo còn hạn chế nên đã để xảy ra tình hình đói diễn ra gay gắt ở nhiều làng xã.
Bên cạnh khôi phục sản xuất, huyện đã chỉ đạo các địa phương ổn định và phát triển giáo dục, y tế. Các trường lớp được tiếp tục khai giảng năm học mới, thu hút đông đảo con em Nhân dân vào học. Phong trào bình dân học vụ được duy trì ở các thôn xóm. Công tác vệ sinh phòng bệnh được chú ý. Hoạt động ca múa, liên hoan văn nghệ nhân dịp lễ, tết nguyên đán được tổ chức thường xuyên. Không khí hòa bình thể hiện rõ trong hoạt động văn hóa, văn nghệ của Nhân dân.
Tháng 3/1955, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy nhấn mạnh: một bộ phận Nhân dân miền Bắc vẫn còn bị địa chủ bóc lột, chưa thực sự làm chủ ruộng đất; giai cấp địa chủ tồn tại vẫn là một chỗ dựa của các thế lực đế quốc, phản động để gây thế lực chống đối cách mạng, phá hoại hòa bình... Vì vậy chủ trương phải thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (8/1955), Trung ương cho rằng cải cách ruộng đất có quan hệ mật thiết với củng cố miền Bắc, với đấu tranh thống nhất nước nhà, phải kiên quyết tiến hành trên phạm vi toàn miền Bắc và ấn định đến tháng 7/1956 phải hoàn thành nhiệm vụ này.
Từ trong kháng chiến, Hương Khê đã thực hiện một phần quan trọng cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô, bước đầu cải cách ruộng đất, đưa lại nhiều kết quả có lợi cho nông dân. Sau ngày hòa bình, chấp hành chủ trương của Đảng, Đảng bộ đã quán triệt và thực hiện cuộc cải cách ruộng đất sâu rộng trên quy mô toàn huyện. Đầu năm 1955, Hương Khê và toàn tỉnh đã triển khai các cuộc đấu tranh chống địa chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” theo phương châm: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, cô lập phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ”. Đội cải cách do cấp trên thành lập đã về các xã thay thế các đội giảm tô, tiến hành xâu chuỗi, bắt rễ, phát động quần chúng, phân định thành phần, phân chia lại ruộng đất, nông cụ, trâu bò cho nông dân. Chủ trương của Đảng được đại đa số nông dân hưởng ứng, tạo thành cuộc cách mạng sôi động ở nông thôn, nhất là phong trào “có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”. Liên tục nhiều tháng, Nhân dân Hương Khê đã vùng lên thực hiện ước mơ của mình, giành ruộng đất của địa chủ về tay mình.
Tuy vậy, trong thực tế chỉ đạo phong trào đấu tranh của nông dân tiến hành cải cách ruộng đất, các đội cải cách đã không dựa vào tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, quan liêu không sát thực tế, lại mang tư tưởng rập khuôn, giáo điều, máy móc, áp đặt tỷ lệ phần trăm trong phân định thành phần giai cấp ở nông thôn, nặng hình thức đấu tô, dẫn tới nhiều sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài nhiều đợt.
Từ tháng 9/1953, theo chủ trương chung, Huyện ủy đã lãnh đạo thực hiện cuộc vận động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Đến hết năm 1954, qua 6 đợt, Hương Khê cơ bản đã hoàn thành cuộc vận động này để chuyển sang thực hiện cuộc cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, kết hợp chống địch cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam.
Trong thực hiện những công tác lớn đó, đội ngũ cán bộ Hương Khê có sự thay đổi rất lớn, cả ở cấp huyện và xã. Các đội công tác giảm tô, cải cách ruộng đất, chống di cư trong đồng bào Công giáo do tỉnh tổ chức, quản lý về từng xã. Đại bộ phận cán bộ đương chức ở huyện và mới điều từ xã lên được tập trung phục vụ cho công tác này ở địa bàn Liên khu IV. Số cán bộ còn lại ở huyện không đáng kể, mọi công việc do đội công tác giải quyết.
Cuộc cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức diễn ra rất phức tạp, đại bộ phận cán bộ, kể cả số người do tỉnh điều còn ở lại đều bị quy kết, buộc thôi việc, bị quản thúc, giam giữ và cải tạo, nhiều đồng chí không giữ nổi bình tĩnh đã tỏ thái độ chống đối, bị buộc tội càng nặng hơn.
Trong bối cảnh đó, Huyện ủy Hương Khê thời kỳ này tiếp tục có những xáo động lớn. Đầu năm 1955, Thường vụ Huyện ủy chỉ còn đồng chí Hoàng Mỹ tiếp tục đảm nhiệm công tác ở huyện, phụ trách khối cơ quan cấp huyện. Các công việc khác do cán bộ của đoàn cải cách của Khu ủy đảm nhiệm. Cuối năm 1955, các đồng chí Trần Đình Hậu, Phạm Triện và một số đồng chí khác được điều động đi thực hiện công tác giảm tô đợt 5.
Hoàn thành cải cách ruộng đất là yêu cầu khách quan để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân dân, để chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Được các đoàn cán bộ cải cách ruộng đất của Liên khu tăng cường về chỉ đạo, phát động, toàn dân Hương Khê đã tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng và Chính phủ. Phong trào hội họp, phát động quần chúng nông dân vùng lên đấu tranh, đấu tô địa chủ, cường hào, phản động, phân định thành phần giai cấp, tịch thu, trưng thu, trưng mua, phân chia ruộng đất, tài sản của địa chủ cho nông dân nghèo... thực sự là một cuộc cách mạng quyết liệt, cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt, làm chấn động mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Hương Khê, nhất là từ giữa năm 1955 đến giữa năm 1956.
Trong quá trình kháng chiến, đến trước cải cách ruộng đất, cách mạng đã tịch thu, trưng thu, giao cấp một phần ruộng đất của địa chủ, Việt gian cho nông dân. Từ năm 1945 đến năm 1949 thu của đồn điền được 50 mẫu, 1 sào, 7 thước (Đồn điền Hương Mai có 47 mẫu, 8 sào, 7 thước; Hương Luyện 2 mẫu, 2 sào); của địa chủ Việt gian phản động được 2 mẫu, của địa chủ bỏ hoang được 283 mẫu. Cộng thời kỳ 1945 - 1949 được 334 mẫu, 3 sào, 7 thước. Từ năm 1949 đến tháng 4/1953, ruộng địa chủ bỏ hoang: 46 mẫu, 5 sào; ruộng bán công bán tư: 347 mẫu 4 sào. Cộng 2 khoản: 399 mẫu, 9 sào. Từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1955, ruộng đất địa chủ bỏ hoang: 33 mẫu, 3 sào, 13 thước; ruộng bán công bán tư: 182 mẫu, 7 sào, 11 thước; ruộng bán công bán tư trong sửa sai: 55 mẫu, 2 sào, 7 thước; ruộng nhà chung giao canh (trước cải cách ruộng đất): 92 mẫu, 2 sào, 2 thước; ruộng nhà chung còn phát canh: 9 mẫu, 8 sào. Cộng: 373 mẫu, 4 sào, 3 thước.
Trước cải cách ruộng đất, địa chủ đã phân tán khá nhiều ruộng đất dưới nhiều hình thức. Từ năm 1945 đến năm 1949, phân tán 77 mẫu, 4 sào, 3 thước, từ năm 1949 đến năm 1953 là 920 mẫu, 9 sào, 4 thước. Ruộng đất còn phát canh của địa chủ là 1.406 mẫu, 7 sào. Ruộng đất của thành phần khác: 446 mẫu, 8 sào. Phú nông có 39 mẫu, 5 sào, 4 thước. Cộng: 4.570 mẫu, 3 thước.
Trong và sau cải cách ruộng đất, toàn huyện có 632 người bị quy là địa chủ. Tuy vậy, sau khi sửa sai số lượng này giảm đi nhiều.
Thành phần cố nông trước cải cách ruộng đất có 657 hộ, 1.971 người, trong cải cách ruộng đất có 1.649 hộ, 5.058 khẩu. Số ruộng đất của cố nông trước cải cách ruộng đất có gần 670 mẫu. Số ruộng đất cố nông được chia trong cải cách ruộng đất có hơn 1.426 mẫu[65]. Cộng ruộng đất của cố nông toàn huyện có 2.096 mẫu, 1 sào, 10 thước. Có 1.396 hộ cố nông được chia trâu bò, 860 hộ được chia nhà cửa, 96 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần bần nông có 1.144 hộ, 4.322 nhân khẩu được chia nguyên canh ruộng đất với 2.199 mẫu, 1 sào. Có 1.831 hộ, 7.862 nhân khẩu được chia bù thêm ruộng đất với diện tích 1.907 mẫu, 7 sào, 1.172 hộ được chia trâu bò, 383 hộ được chia nhà cửa, 42 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần trung nông có 448 hộ, 2.119 nhân khẩu được chia ruộng đất nguyên canh với diện tích 1.104 mẫu, 5 sào, 7 thước. Có 354 hộ, 1.947 nhân khẩu được chia thêm ruộng đất với diện tích 456 mẫu, 1 sào, 7 thước, 96 hộ được chia trâu bò, 10 hộ được chia nhà cửa.
Thành phần khác (thợ thủ công, buôn bán nhỏ, dân tản cư, vạn chài, một số địa chủ) có 13 hộ, 48 nhân khẩu được chia ruộng đất nguyên canh với số ruộng đất là 23 mẫu, 7 thước; 198 hộ, 761 nhân khẩu được chia thêm ruộng đất với diện tích là 84 mẫu, 2 sào; 78 hộ được chia trâu bò; 34 hộ được chia nhà cửa; 8 hộ được giúp làm nhà mới.
Thành phần
|
Hộ được
chia ruộng
đất
|
Diện tích ruộng đất được chia
|
Hộ được chia trâu bò
|
Hộ được chia nhà
|
Hộ được giúp làm nhà mới
|
Cố nông
|
2.306
|
2096 mẫu,
1 sào, 13 thước
|
1395
|
860
|
96
|
Bần nông
|
1813
|
1907 mẫu, 7 sào
|
1172
|
383
|
42
|
Trung nông
|
354
|
|
96
|
10
|
|
Thành phần khác
|
198
|
|
78
|
34
|
8
|
Cộng
|
4671
|
|
2841
|
1287
|
146
|
Tháng 7/1955, Hương Khê có 12.113 hộ, 48.788 nhân khẩu, trong đó có 87 người dân tộc thiểu số. Năm 1957, toàn huyện có 12.229 hộ, 51.376 nhân khẩu. Di cư vào Nam có 159 hộ với 646 khẩu. Số hộ địa chủ sau sửa sai còn lại 249 hộ, 1.054 khẩu. Tổng diện tích trồng trọt: 16.420 mẫu, 5 sào, tương đương 8.210,2 ha.
Cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành đã đưa lại nhiều lợi ích vật chất và tinh thần cho quần chúng nông dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, mở đường cho việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, bước đầu tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, do đánh giá không đầy đủ, chính xác tình hình thực tế cũng như tương quan lực lượng địa chủ và nông dân, phương pháp công tác của các đội cải cách có nhiều sai lầm, không kết hợp với tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, dẫn đến quy kết thiếu khách quan, không thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Từ đó dẫn đến những sai lầm. Việc rập khuôn thực hiện tỷ lệ 5% hộ dân cư là địa chủ đã khiến cho nhiều cán bộ, đảng viên bị quy là địa chủ, có bóc lột nên bị đình chỉ công tác, bị đưa ra khỏi Đảng.
Trong việc chỉnh đốn tổ chức, các Đoàn ủy, đội cải cách đã bỏ qua vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp. Thậm chí ngay khi vừa mới phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, đã tiến hành chỉnh đốn chi bộ, xử trí đảng viên theo yêu cầu của cấp trên một cách máy móc, không đúng với thực tế. Tình hình đó đã dẫn đến xử trí oan, sai đối với một số cán bộ, đảng viên, quần chúng. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể Nhân dân bị vô hiệu hoá, mất hiệu lực.
Cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất đi vào chiều sâu, kết hợp với chỉnh đốn tổ chức, đồng chí Hoàng Mỹ cũng bị quy là địa chủ và bị đình chỉ công tác. Huyện ủy về cơ bản không tồn tại vào cuối năm 1955. Về cá nhân, tháng 11/1955, đồng chí Lê Xuân Bình là Huyện ủy viên làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, tháng 01/1956, đồng chí Đặng Minh Lương là Phó Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Huy Sơ được tỉnh chỉ định làm Bí thư Huyện ủy tạm thời. Tuy vậy, bộ máy lãnh đạo bị vô hiệu quá, thực việc là các cán bộ của Đoàn ủy cải cách. Cuối năm 1955 đầu năm 1956, tình trạng khủng hoảng bộ máy nghiêm trọng diễn ra cả trong Đảng và chính quyền.
Ngày 26/3/1956, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị kiểm điểm công tác chỉnh đốn tổ chức, khi phân tích tình hình đã chỉ rõ Hà Tĩnh là địa phương phạm nhiều sai lầm. Ngày 31/7/1956, Tỉnh ủy Hà Tĩnh họp đánh giá ưu điểm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện chỉnh đốn tổ chức. Tỉnh ủy cho rằng do không đánh giá đúng tình hình thực tế, không biết dựa vào tổ chức, thậm chí còn nhận định trong Đảng có phản động, cùng với việc không nắm vững mục đích, yêu cầu, phương châm, phương pháp của công tác chỉnh đốn tổ chức nên đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng, làm cho tình hình nông thôn rối ren, phức tạp, nội bộ Đảng thiếu đoàn kết, thống nhất, mất tác dụng lãnh đạo, quân phản động được dịp ngóc đầu dậy phá hoại phong trào.
Tháng 10/1956, Đảng ta đã phát hiện ra sai lầm trong cải cách ruộng đất và chủ trương kiên quyết sửa sai. Cuối năm 1956, chủ trương sửa sai của Đảng được phổ biến học tập trong cán bộ, Nhân dân toàn huyện. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác sửa sai, từ tháng 7 đến tháng 11/1956, Huyện ủy lâm thời được lập lại do Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ định. Ban Thường vụ Huyện ủy lâm thời gồm 8 đồng chí. Đồng chí Trần Đình Hậu được cử làm Bí thư. Đồng chí Đặng Minh Lương - ủy viên Ban Thường vụ được cử quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính (sau đó, đồng chí Hồ Sỹ Định - Ủy viên Ban Thường vụ được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện), đồng chí Nguyễn Tú là Phó Bí thư Thường trực. Các đồng chí này đồng thời là trưởng và phó ban sửa sai của huyện, ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Hoàng Mỹ, Nguyễn Kim Hồ, Nguyễn Tư, Hồ Sỹ Tương[66].
Chủ trương của Đảng bộ là phải nhận rõ nguyên nhân của sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đó là do trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, không thấy hết thực trạng nông thôn sau Cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi nhiều, nhất là cuộc kháng chiến ở hoàn cảnh vùng tự do, đã cuốn hút phần lớn địa chủ cũng như con cái họ đi vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Không thấy được bằng nhiều chính sách khác nhau, ta đã từng bước đưa lại ruộng đất cho nông dân, số ruộng đất địa chủ chiếm hữu không còn nhiều, sự bóc lột không lớn như ở nước khác. Mặt khác, việc giao quá nhiều quyền hành cho đội cải cách, xem nhẹ vai trò của tổ chức Đảng và chính quyền địa phương là sai lầm, làm cho tình hình càng phức tạp thêm.
Trên cơ sở nhận rõ sai lầm và theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Hà Tĩnh tháng 6/1957, Đảng bộ đã chỉ đạo các đội sửa sai nhìn thẳng vào khuyết điểm, kiên quyết sửa sai cho Nhân dân. Việc củng cố, khôi phục Đảng bộ được khẩn trương tiến hành song song với việc sửa sai. Một số cán bộ, đảng viên trưởng thành trong cải cách ruộng đất và một số cán bộ cũ lần lượt ra tù, được phục hồi công tác, khôi phục Đảng tịch do được sửa sai, một số được điều đi công tác ở các địa phương khác nay được tập hợp về để kiện toàn lại bộ máy của Đảng bộ, của chính quyền, đoàn thể của huyện.
Các cuộc họp của quần chúng được tổ chức để phổ biến chủ trương của Đảng cho Nhân dân, minh oan cho người bị xử lý oan, trả lại thành phần cho số người bị quy sai, trả lại ruộng đất, nông cụ, trâu bò nếu tịch thu không đúng. Cuộc sửa sai đã diễn ra qua ba bước: học tập, sửa sai, củng cố tổ chức, về cơ bản các bước đó được cán bộ, đảng viên, Nhân dân thông suốt, hưởng ứng và thực hiện, song cũng gặp phải nhiều khó khăn, nhất là công tác chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên bị xử lý sai, quan hệ giữa đảng viên cũ và đảng viên mới. Đến cuối năm 1957, cơ bản công tác sửa sai cải cách ruộng đất được thực hiện xong và thu kết quả tốt trong toàn huyện.
Những sai lầm của Hương Khê trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức về cơ bản tương tự như ở Hà Tĩnh, Khu IV và miền Bắc. Tuy vậy, với việc sửa sai nghiêm túc, nhanh gọn, cải cách ruộng đất ở Hương Khê vẫn đạt được những thành công cơ bản.
Cùng với sửa sai, Đảng bộ đã lãnh đạo củng cố và phát triển các tổ đổi công và bước đầu xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Năm 1957, toàn huyện có 1.458 tổ đổi công và 2 hợp tác xã nông nghiệp (cả huyện có 243 xóm, bình quân mỗi xóm có 5-7 tổ). Đến cuối năm 1957, về cơ bản Hương Khê đã hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, khôi phục được kinh tế, ổn định tình hình, sản xuất có bước phát triển, văn hóa xã hội có sự tiến bộ.
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ (1958 - 1960)
Đến năm 1957, miền Bắc nói chung, Hương Khê nói riêng đã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bộ mặt thôn quê đã có nhiều biến đổi quan trọng, song nền kinh tế vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp, sản xuất nhỏ cá thể, lạc hậu. Chế độ bóc lột bị xóa bỏ, nhưng quan hệ sản xuất mới chưa được xác lập, năng suất lao động thấp, đời sống Nhân dân nhiều nơi còn khó khăn. Mặt khác, cuộc cải cách ruộng đất đã đưa lại những lợi ích to lớn căn bản cho nông dân, song do ruộng đất, trâu bò, nông cụ được chia là thuộc quyền sở hữu của nông dân nên đã có hiện tượng mua bán ruộng đất, thuê mướn nhân công, phân hoá giàu nghèo, xuất hiện trở lại chế độ địa chủ, nhiều nông dân lại bị mất ruộng đất.
Để xoá bỏ tận gốc chế độ bóc lột, xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp cho Nhân dân, tạo tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, làm nhiệm vụ căn cứ địa, hậu phương cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, nên từ năm 1958, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc chuyển sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhằm mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (khóa II, 11/1958) đề ra nhiệm vụ của miền Bắc là: Phải đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân. Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương tháng 4/1959 nhấn mạnh: cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định: đối với điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu thì hợp tác hóa là hình thức phù hợp nhất để phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta không chỉ coi cải tạo nông nghiệp là trọng tâm mà còn nêu quan điểm phải kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính. Biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa được thực hiện phổ biến ở nông thôn là thực hiện hợp tác xã, thiết lập các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán. Nguyên tắc là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, thận trọng, vững chắc... Đảng cho rằng, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh rất phức tạp, nặng nề vì nó là cuộc chiến đấu chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi.
Chấp hành chủ trương của Đảng và nhận thức được tính chất và ý nghĩa của nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, năm 1958, Đảng bộ Hương Khê đã mở nhiều hội nghị tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Nhiều hình thức tuyên truyền phát động phong trào hợp tác hóa được tổ chức. Các cuộc rước đuốc, hô khẩu hiệu của thanh thiếu niên hàng đêm khắp các thôn xã, các khẩu hiệu cổ vũ nông dân vào con đường làm ăn tập thể, các đội ca kịch phê phán làm ăn cá thể, nêu gương tinh thần tập thể, việc giáo dục tinh thần “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”,... được tiến hành rầm rộ.
Từ những tổ đổi công được hình thành năm 1957, Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng thành các hợp tác xã. Các đảng viên, cán bộ, đoàn viên được giao nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương hợp tác hoá và bản thân phải gương mẫu tham gia, vận động gia đình vào hợp tác xã. Những nơi vốn có phong trào cách mạng mạnh từ các thời kỳ trước được Đảng bộ chọn làm thí điểm xây dựng hợp tác xã như Hương Thanh, Hương Hà, Hương Long, Hương Phố, Hương Thuỷ...
Các cán bộ huyện được phân công xuống các xã, các vùng theo dõi, chỉ đạo, đôn đốc giúp đỡ phong trào hợp tác hóa. Nhân dân Hương Khê đã hăng hái hưởng ứng chủ trương hợp tác hoá của Đảng. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên là những người đi đầu trong phong trào xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Các tổ đổi công được xây dựng khắp nơi trong huyện và trên cơ sở những tổ đổi công làm ăn tốt, số hộ đông, quản lý có hiệu quả, Đảng bộ đã chỉ đạo cho xây dựng thành các hợp tác xã cấp thấp. Các nguyên tắc chung về xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, được cơ bản thực hiện. Cán bộ, đảng viên và các gia đình tiên tiến đã đi đầu trong việc viết đơn gia nhập tổ đổi công và hợp tác xã. Các ban quản trị, thư ký, đội trưởng sản xuất đều được đại hội xã viên bầu dân chủ, công khai. Những ruộng đất, công cụ, trâu bò của các hộ góp vào hợp tác xã được trả dần qua khấu hao trên cơ sở hoa lợi thu nhập hàng năm của hợp tác xã. Đất 5% được duy trì cho hộ xã viên. Công việc trong hợp tác xã có sự phân công quy thành công (10 điểm là 1 công) để cuối mùa vụ nhận sản phẩm. Tổng sản phẩm của mùa vụ chia cho tổng ngày công sẽ thành giá trị một ngày công, từ đó nhân với số lượng công của gia đình sẽ thành thu hoạch của gia đình.
Việc khai hoang mở rộng diện tích, làm thủy lợi, đường sá, cải tạo đồng ruộng do có sự hợp tác trong lao động mà đưa lại nhiều kết quả rõ rệt so với làm ăn cá thể. Khí thế làm chung trở thành động lực của hợp tác xã với tinh thần phấn khởi của Nhân dân, nhất là thanh niên. Việc cày bừa làm đất, cấy nhỏ dảnh, bón phân, làm cỏ, phòng trừ sâu bệnh được hợp tác xã chú ý. Việc quản lý lao động được bảo đảm, có bình công chấm điểm chặt chẽ cuối ngày, cuối công việc. Việc sử dụng công cụ cải tiến như cày 51, cào cỏ Nghệ An được khuyến khích. Một số hợp tác xã có điều kiện đã tổ chức làm nghề phụ như khai thác gỗ, nứa, làm vôi, đốt than...
Nhờ có sự vận động tích cực của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các đội công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến tháng 12/1960, Hương Khê căn bản kết thúc kế hoạch hợp tác hoá nông nghiệp bậc thấp. Toàn huyện có 8.678 hộ trên tổng số 12.400 hộ vào hợp tác xã, đạt tỉ lệ 77,2%, trong 210 hợp tác xã có 2 hợp tác xã bậc cao, đạt tỉ lệ 1,9%.
Yếu tố thành công trở thành bài học kinh nghiệm của Đảng bộ là triển khai chủ trương kỹ lưỡng; tạo sự nhất trí cao trong cán bộ, đảng viên; tạo lòng tin cho tuyệt đại bộ phận quần chúng vào đường lối, chủ trương của Đảng, quyết tâm đi theo con đường làm ăn tập thể; thông qua cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh, đấu tranh giữa hai con đường mà giáo dục, giác ngộ cho đảng viên và quần chúng...
Kết quả đạt được của năm đầu làm ăn tập thể ở Hương Khê, năm 1959, là năng suất lúa đạt 1.588 kg/ha, sản lượng 17.956 tấn, bình quân đầu người 331 kg, tạo cơ sở để vươn lên giải quyết vấn đề lương thực ở huyện. Tuy nhiên, năm 1960, do bị trận lụt kỷ lục nên Hương Khê mất mùa nặng, trong khi đó, kỹ thuật lạc hậu, yếu tố công nghiệp tác động không đáng kể, chủ yếu là dùng sức người, dựa vào khí thế cách mạng của quần chúng “biến sỏi đá phải thành sắn, gạo”. Mặt khác, thành phần nông dân cá thể, thợ thủ công, tiểu thương vẫn còn khá đông, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật tin tưởng vào con đường làm ăn tập thể, tư tưởng chân trong, chân ngoài còn nặng đã gây tác động không tốt đến lòng tin của Nhân dân, làm hạn chế kết quả của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế nông nghiệp.
Cùng với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ Hương Khê cũng chỉ đạo xây dựng các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng. Năm 1957 có một số hợp tác xã mua bán, năm 1958 hình thành khá nhiều. Ngày 13/4/1959, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành nghị quyết về việc phát triển ngành mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, đồng thời đẩy mạnh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân, sắp xếp lại tiểu thương, thợ thủ công. Thực hiện chủ trương của tỉnh, công tác này được tiến hành tích cực ở Hương Khê, đến năm 1960 phần lớn các xã đã có hợp tác xã mua bán. Ngành mậu dịch quốc doanh của huyện ra đời đã đi vào phục vụ tích cực đời sống Nhân dân. Hợp tác xã nông nghiệp cùng với hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng thành lập thời kỳ này được coi là “Ba ngọn cờ hồng” (nông nghiệp, mua bán, tín dụng), góp phần xây dựng chế độ mới, nâng cao mức sống cho Nhân dân, đảm bảo khâu hậu cần toàn diện.
Một số điểm kinh tế mới được huyện chỉ đạo phát triển, lấy các chợ lớn trong huyện như: chợ Trúc, chợ Gia, chợ Sòng... làm điểm đầu tư. Tại đây, các hợp tác xã mua bán, các cửa hàng bách hóa, cửa hàng lương thực, bệnh xá, trường học,... được xây dựng.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng vùng kinh tế mới, Tỉnh ủy đã giao cho Tỉnh đoàn Hà Tĩnh nhiệm vụ khảo sát, nghiên cứu một số đồn điền cũ ở huyện Hương Khê để tiến hành khai hoang, mở rộng diện tích, phát triển kinh tế. Tháng 3/1959, Tỉnh đoàn Hà Tĩnh điều động 5 cán bộ đầu tiên lên Hương Khê phối hợp với Huyện đoàn huy động lực lượng thanh niên xung kích của các xã khai hoang vùng đồn điền Bùi Huy Tín cũ xây dựng một cơ sở sản xuất nông nghiệp có quy mô và tình chất tiên tiến theo mô hình nông trường.
Chiều ngày 19/4/1959, hàng trăm đoàn viên, thanh niên thuộc 4 xã: Lộc Yên, Hương Vĩnh, Hà Linh, Hương Thủy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn Lê Đình Sảnh đã tập trung tại đồn điền cũ Bùi Huy Tín làm lễ khởi công xây dựng nông trường. Những người dự mít tinh đã vỗ tay reo hò, thể hiện tinh thần xây dựng chủ nghĩa xã hội của tuổi trẻ Hương Khê quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, tiến lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng tin tưởng giao phó.
Rạng sáng ngày 20/4/1959, sau hồi còi phát lệnh xuất quân của đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn, hơn 400 thanh niên đại diện cho tuổi trẻ Hương Khê đã bổ nhát cuốc đầu tiên xây dựng nông trường. Ngày 20/4/1959 được đánh dấu là ngày thành lập Nông trường 20/4 theo Quyết định số 28/QĐ-UBHC của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh. Thời gian đầu cơ sở sản xuất nông nghiệp tiên tiến này có tên là Nông trường Thanh niên, sau đổi tên là Nông trường 20/4[67].
Trong công tác xây dựng Đảng, sau nhiều lần bổ sung cán bộ, chỉ định các cương vị chủ chốt của Huyện ủy, tháng 9 năm 1959, tại Hương Phố, Đảng bộ Hương Khê mở Hội nghị đại biểu, làm nhiệm vụ của một Đại hội Đảng bộ để thành lập Huyện ủy chính thức và chuẩn bị cho viêc chuyển các chi bộ cơ sở thành đảng bộ. Hội nghị đã kiểm điểm công tác lãnh đạo, khôi phục kinh tế, hoàn thành các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bàn phương hướng nhiệm vụ mới. Ban Chấp hành Đảng bộ được Hội nghị bầu ra có 19 đồng chí, do đồng chí Trần Đình Hậu làm Bí thư, đồng chí Đặng Minh Lương, Thường vụ, quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện. Đồng chí Nguyễn Tư, ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban. Ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Hoàng Mỹ, Nguyễn Tú, Hồ Sỹ Đăng, Lê Hữu Kính, Bùi Quang.
Hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Hương Khê tại Hương Phố, tháng 9/1959, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ chính thức là Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ VIII[68].
Tháng 10/1959, Đảng bộ lãnh đạo thực hiện Nghị quyết phát triển sản xuất Đông Xuân với quyết tâm cao đi đôi với củng cố, phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Các tổ đổi công được tập trung chỉ đạo để nâng lên thành hợp tác xã bằng cách đi sâu vào phân công lao động, bình công chấm điểm như hợp tác xã. Công tác Công giáo vận được Đảng bộ tăng cường để vận động giáo dân vào hợp tác xã. Những băn khoăn của Nhân dân là vấn đề hiệu quả kinh tế, song lúc đó, với khí thế mới, sản xuất đã có bước phát triển, nhất là trong việc khai hoang, mở rộng diện tích, xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông nông thôn, vì vậy những băn khoăn đó không thành trở ngại lớn.
Trong công tác quân sự địa phương, những năm 1958 - 1959, hàng trăm cán bộ, bộ đội hoàn thành nhiệm vụ được phục viên trở về quê hương đã tăng thêm lực lượng cán bộ cho huyện và các xã. Hầu hết số bộ đội phục viên này đã trở thành nòng cốt cho phong trào địa phương, giữ các cương vị chủ chốt ở các cấp ủy, chính quyền địa phương và các hợp tác xã, nhất là làm xã đội trưởng, công an xã, chỉ huy dân quân tự vệ. Luật Nghĩa vụ quân sự được chấp hành nghiêm chỉnh, 100% thanh niên ở độ tuổi đã đăng ký khám tuyển quân sự. Mỗi năm Hương Khê có trên dưới 100 thanh niên lên đường nhập ngũ. Phong trào tập luyện quân sự trong dân quân tự vệ được duy trì. Năm 1959, thực hiện Chỉ thị của Trung ương về cách mạng miền Nam là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, huyện đã tổ chức cho tất cả dân quân học tập tinh thần chỉ đạo chung và chỉnh huấn tư tưởng trong Đảng rất quyết liệt. Từ đó, việc thực hiện nhiệm vụ phục vụ mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội của Hương Khê thời kỳ này cũng có bước khởi sắc nhanh chóng và toàn diện, hầu hết con em đều được đến trường. Các xã đều có trường phổ thông cấp I, một số xã có trường cấp II như Hương Phố, Hương Bình, Hương Thanh... Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đều phân công các ủy viên phụ trách công tác văn xã. Bình dân học vụ được duy trì và củng cố. Cán bộ, đảng viên, thanh niên đi đầu trong phong trào học tập, xây dựng đời sống mới. Ngoài bệnh viện huyện, một số bệnh xá, nhà hộ sinh cũng được xây dựng ở một số xã. Số lượt người được tiêm chủng, phát thuốc chống sốt rét tăng hơn trước. Việc phun thuốc DDT diệt muỗi được thực hiện. Đội chiếu phim của huyện đã lưu động phục vụ Nhân dân. Các buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ nhân dịp lễ, tết trở thành sinh hoạt văn hóa quan trọng của các thôn xã. Một số đoàn văn công của Trung ương, của tỉnh đã về biểu diễn ở sân vận động Chu Lễ.
Kinh tế, văn hóa phát triển đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân, an ninh chính trị được giữ vững. Trong xã hội hầu như không có vụ việc tiêu cực gì lớn xảy ra. Quan hệ Đảng, chính quyền, Nhân dân được xây dựng tốt đẹp. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa II và Hội đồng nhân dân cấp xã và tỉnh được thực hiện tốt trên địa bàn huyện, Ủy ban hành chính huyện thời kỳ này do đồng chí Hoàng Mỹ làm Chủ tịch. Đồng chí Hồ Sỹ Định được tỉnh điều lên làm Trưởng ty Y tế, đồng chí Trần Đình Hậu được điều lên Ban Mặt trận của tỉnh. Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, dân quân du kích hoạt động tích cực, đi đầu trong các phong trào sản xuất, công tác, như: làm thủy lợi, làm phân xanh, cải tiến kỹ thuật, chăm sóc gia đình liệt sĩ, giúp đỡ thương bệnh binh,...
Đảng bộ Hương Khê sau những khó khăn, đã được kiện toàn. Đợt phát triển Đảng lớp 6-1 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng được thực hiện trong toàn huyện[69]. Thông qua các phong trào thi đua trong năm 1960, Đảng bộ đã lựa chọn, kết nạp được hơn 200 đảng viên mới.
Năm 1960 là năm tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng. Sau khi chỉ đạo đại hội các xã trong huyện, đến tháng 2/1960, Đảng bộ Hương Khê đã tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IX tại Thị trấn Chu Lễ, để thảo luận, góp ý kiến cho dự thảo Báo cáo chính trị và Điều lệ sửa đổi của Trung ương Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Tư, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy lên chỉ đạo Đại hội.
Theo chủ trương chung của Đảng, Đại hội Đảng bộ Hương Khê đã thảo luận những vấn đề quan trọng như: tính chất giai cấp của Đảng, tên Đảng, ngày thành lập Đảng, Điều lệ Đảng, những nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới. Đại hội cũng đã dành nhiều thời gian thảo luận báo cáo của Đảng bộ tỉnh và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh.
Trọng tâm công tác của Hương Khê được Đại hội xác định vẫn là phát triển ba ngọn cờ hồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân, đồng thời nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương phải xây dựng Đảng bộ thật sự ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh. Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1960 - 1962 có 23 ủy viên, do đồng chí Nguyễn Văn Cung làm Bí thư, đồng chí Hoàng Mỹ, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Tú làm Phó Bí thư Thường trực, ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Nguyễn Kim Hồ, Lê Hữu Kính, Bùi Đình Quang, Nguyễn Lự.
Từ Đại hội này, bộ máy Đảng bộ được xây dựng hoàn chỉnh, hoạt động đi vào nền nếp, quy củ hơn trước. Đồng chí Bí thư phụ trách chung và công tác Đảng; đồng chí Phó Bí thư làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, các trưởng ngành đều là Huyện ủy viên, trong đó Thường vụ Huyện ủy đều kiêm trưởng các ngành quan trọng như Huyện đội trưởng, Trưởng công an. Cơ chế này có tác dụng tốt trong việc bảo đảm cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt kịp thời và thực hiện có hiệu quả ở địa phương.
Sau Đại hội Đảng bộ, Huyện ủy đã có nhiều hình thức tuyên truyền về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ là lãnh đạo Nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước năm 1960, trọng tâm công tác của Đảng bộ là: phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa trong năm 1960 để năm 1961 bước sang thời kỳ thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Không khí làm ăn tập thể đã động viên được nhiệt tình, hăng hái của toàn dân vào sản xuất, nhất là làm thuỷ lợi, làm đường giao thông, nhà kho, sân phơi, trạm chăn nuôi, khai hoang, phục hoá, làm trường học, trạm xá, nhà hộ sinh, tập luyện quân sự... Đến cuối năm 1960, về căn bản, Hương Khê đã hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hầu hết Nhân dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, lâm nghiệp, hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu cơ bản là quốc doanh và tập thể. Nông nghiệp tăng trưởng, đời sống xã viên được nâng lên. Một số nông trường, lâm trường và công trình thuỷ lợi được hình thành.
Với truyền thống hướng về tiền tuyến, thời kỳ 1954 - 1960, Đảng bộ, quân dân Hương Khê đã liên tục có các hoạt động ủng hộ đồng bào miền Nam, đồng bào Bình Định kết nghĩa. Nhiều đợt tuyển quân, đóng góp chi viện miền Nam, các phong trào sản xuất, công tác, học tập mang tên Bình - Hà được phát động và thực hiện sôi nổi trong toàn huyện. Những phong trào đó của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê có ý nghĩa như một luồng gió nhỏ góp phần làm nên những trận bão táp cách mạng của đồng bào, chiến sĩ miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh "đơn phương” của đế quốc Mỹ và tay sai, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công sau cuộc Đồng khởi 1959 - 1960.
Hạn chế của Đảng bộ huyện Hương Khê thời kỳ 1958 - 1960 là trong lãnh đạo phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, có nơi, có lúc thiếu tôn trọng những nguyên tắc mà V.I.Lênin đã nêu ra, nhất là nguyên tắc tự nguyện. Các cấp ủy và chính quyền địa phương, các cán bộ, đảng viên do chạy theo thành tích, nóng vội đã thúc ép nhiều hộ gia đình vào hợp tác xã, khiến cho họ tuy có vào hợp tác nhưng không tích cực lao động, đóng góp, ý thức làm chủ thấp. Mỗi khi công việc có khó khăn là số xã viên này lại nảy sinh tư tưởng chùn bước, làm ảnh hưởng tới tinh thần của những xã viên khác, song lại không cho họ ra khỏi hợp tác xã. Các biện pháp kỹ thuật trong hợp tác xã còn đơn giản, lãng phí nhân lực trong công tác thủy lợi. Nhiều nơi bỏ qua những kinh nghiệm sản xuất truyền thông, không chú trọng thâm canh, nặng về quảng canh. Trình độ quản lý của cán bộ hợp tác xã nói chung còn non yếu. Năng suất lao động chưa cao, đời sống có tăng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là lúc thiên tai mất mùa.
Các mặt văn hóa, xã hội có tiến bộ, song chất lượng chưa cao, phong trào quần chúng vẫn còn nặng về hình thức, cơ sở vật chất cho y tế, giáo dục còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, học tập của Nhân dân. Trình độ văn hóa và nhận thức chính trị, năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ, đảng viên còn nhiều non kém.
Những hạn chế thiếu sót đó đã làm hạn chế những kết quả của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Hương Khê thời kỳ 1958 - 1960.
III. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)
Tháng 9/1960, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối chiến lược cách mạng chung cho cả nước là: Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Đại hội coi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam và với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, vì nó tạo ra cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế, quân sự bảo đảm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước và hậu phương cho miền Nam, đồng thời chuẩn bị điều kiện cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau này. Để thực hiện mục tiêu đó, Đại hội đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đề ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu phấn đấu đến năm 1965 hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng một bước cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống Nhân dân và tăng cường quốc phòng, an ninh làm tốt nhiệm vụ hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam.
Theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, và dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê vòng 2 được tổ chức để triển khai thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tại địa phương. Đại hội đã xác định nhiệm vụ của Đảng bộ trong năm 1961 là tích cực củng cố và phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng một số hợp tác xã cấp cao, ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời chú trọng nghề rừng và tiểu thủ công nghiệp; đẩy mạnh hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục; củng cố chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang địa phương; ra sức xây dựng Đảng, nhất là chi bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo trong mọi ngành, mọi mặt công tác, đảm bảo hoàn thành mọi nhiệm vụ; nâng cao đời sống Nhân dân; góp phần củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội và làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hòa bình, thống nhất đất nước.
Để thực hiện những nhiệm vụ đó, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung làm tốt các biện pháp cụ thể như: xây dựng các hợp tác xã có quy mô lớn để chuyển lên bậc cao, tăng cường các biện pháp thủy lợi, mở rộng diện tích. Chú trọng mở thêm trường lớp hệ giáo dục phổ thông; xây dựng thêm trạm xá, nhà hộ sinh, đưa cán bộ y tế về xã khám bệnh, phát thuốc cho Nhân dân; tăng cường các biện pháp nâng cao đời sống người dân; bảo vệ an ninh, quốc phòng; tăng cường xây dựng đoàn thể, xây dựng Đảng và chính quyền,...
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, năm 1961 là năm Hương Khê đẩy mạnh mọi mặt hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa. Phong trào thi đua với Hợp tác xã Đại Phong (Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) được phát động trong toàn huyện. Các hợp tác xã đã tổ chức cho xã viên nghe giới thiệu về Hợp tác xã Đại Phong, trên cơ sở đó tổ chức đảng ký thi đua xây dựng hợp tác xã về phong trào sản xuất, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật. Nhiều hợp tác xã được kiểm tra, đánh giá và được công nhận là hợp tác xã bậc cao, có phương án sản xuất hàng vụ, hàng năm, có sân phơi, nhà kho, công trình thuỷ lợi, đường sá, có đội ngũ cán bộ biết làm ăn, năng suất tăng, thu nhập tăng, đời sống xã viên được cải thiện... Tỷ lệ hộ nông dân vào hợp tác xã đạt tới 95%. Để đáp ứng nhu cầu lương thực và góp phần chi viện cho chiến trường miền Nam, các cơ quan cấp huyện cũng tổ chức sản xuất lúa nhập kho với tiêu chí 13kg/người/tháng.
Phong trào làm thủy lợi, khai hoang phát triển mạnh mẽ trong toàn huyện. Nhiều đập nước được xây dựng, nhiều trại khai hoang được mở rộng trồng hoa màu.
Việc áp dụng công cụ cải tiến, thay đổi cách thức sản xuất được chú trọng, như làm xe kéo bằng trâu, dùng quang gánh gánh lúa thay đòn xóc, dùng liềm xén để gặt lúa, sử dụng máy tuốt lúa, cấy dày, thả bèo hoa dâu, làm đường, sân phơi, nhà kho, làm guồng nước. Nhiều nơi đã liên hệ với công nhân các công nông lâm trường, công nhân hỏa xa để lắp máy bơm nước. Các phong trào: đi bò vàng về bò xanh, sạch làng tốt ruộng, nuôi trâu, bò béo, làm nhà vệ sinh... diễn ra sôi nổi. Việc nuôi gia cầm được phát triển khắp nơi, có nơi còn làm ao thả cá.
Ngành may mặc, vận tải thời kỳ này có bước phát triển mới. Năm 1961, huyện có Hợp tác xã vận tải - may mặc Tây Thịnh, riêng may mặc có 30 hộ có máy khâu. Một số nơi có các đội làm nghề phụ như: đốt than, dịch vụ khảo sát địa chất, khai thác than (Hương Châu), bốc gỗ cho công ty đường goòng (Hương Thanh).
Ngành lâm nghiệp được coi trọng. Nhiều hợp tác xã thành lập đội sơn tràng để khai thác gỗ. Hằng năm, cả huyện khai thác được từ 18.000 đến 20.000 m3 gỗ, hàng triệu cây nứa phục vụ việc xây dựng kho tàng, công sở. Lâm trường quốc doanh Trại Trụ là lực lượng chủ yếu trong khai thác gỗ. Ngày 20/4/1960 có thêm Lâm trường Chúc A.
Về công tác xây dựng đảng, tháng 6/1962, Đảng bộ triển khai cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ “Bốn tốt”: đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chủ trương của đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; xây dựng, củng cố và phát triển đảng tốt.
Về văn hoá, nhiều nơi lắp máy thu thanh, có trạm thông tin, đêm đêm có rước đuốc phổ biến chủ trương của Đảng, Nhà nước, có các buổi biểu diễn văn nghệ “cây nhà lá vườn”, tự biên tự diễn, tạo nên không khí vui tươi lành mạnh trong thôn xóm.
Để lãnh đạo đưa phong trào của huyện tiếp tục tiến lên, tháng 3/1962, Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ X được tiến hành tại Thị trấn Chu Lễ. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt kinh tế, quân sự, văn hoá, xã hội. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội cho rằng, bên cạnh các ưu điểm, thành công, đây vẫn là vấn đề yếu kém của Đảng bộ. Đó là vai trò xung phong gương mẫu của đảng viên, của tổ chức Đảng còn phải tiếp tục phấn đấu nhiều, trình độ còn phải nâng cao hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Mục tiêu của Đảng bộ là phấn đấu có 60% đảng viên và chi bộ, đảng bộ đạt bốn tốt.
Ban Chấp hành Đảng bộ khoá 1962 - 1963 có 28 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Văn Cung; Phó Bí thư là đồng chí Nguyễn Tú; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện là đồng chí Lê Hữu Kính; Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng ủy là đồng chí Phan Văn Thành: Ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Nguyễn Kim Hồ, Lê Công Ba, Bùi Đình Quang, Cao Phượng, Nguyễn Đình Dưỡng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, cuộc vận động ba xây, ba chống được triển khai sâu rộng ở Hương Khê thời kỳ 1962 - 1963. Huyện ủy đã cử cán bộ đi tập huấn ở tỉnh và về truyền đạt cho các xã để thực hiện. Một số hợp tác xã ở Hương Thịnh, Hương Xuân, Hương Giang, Hương Bình, Hương Châu, Hương Thanh,... được chọn làm thí điểm cho cuộc vận động. Huyện đã cử nhiều chủ nhiệm, kế toán trưởng hợp tác xã đi dự tập huấn ở tỉnh và mở nhiều lớp cho cán bộ theo khu vực. Việc giáo dục chính trị cho xã viên cũng được chú ý, nâng cao ý thức làm chủ cho xã viên. Khâu chọn giống được đề cao, áp dụng các loại giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi, như lúa Mộc tuyền, Chân châu lùn, lợn lai... Nhiều hợp tác xã đã thành lập các đội chuyên để xử lý khâu giống, làm thủy lợi, làm phân bón, khai thác lâm thổ sản. Bưởi Phúc Trạch được chú trọng phát triển và trồng thêm ở nhiều nơi. Các loại cây có giá trị như: chè, dầu trẩu, củ nâu, tre nứa, lá tro, lá nón,... đều được đầu tư phát triển.
Nhìn chung, đến giữa năm 1963, tình hình Hương Khê tiếp tục có sự chuyển biến tốt. Về quan hệ sản xuất, các hợp tác xã đã được củng cố thêm một bước, có 86,4% hộ vào hợp tác xã và 83% ruộng đất, trong đó 60,22% là hợp tác xã bậc cao. Vùng Thiên chúa giáo có 74,8% số hộ vào hợp tác xã. Về sản xuất, nông nghiệp tăng khá nhanh, giá trị sản lượng hai năm 1961 - 1962 tăng bình quân 6,7 đến 7%. So với năm 1960 tăng 5,9% (tỉnh Hà Tĩnh năm 1960 có 2.262 hợp tác xã, thu hút 80% số hộ và 70% ruộng đất vào hợp tác xã). Đời sống Nhân dân được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững. Các ngành nghề trong hợp tác xã được phát triển như: thủ công, giao thông vận tải, lò vôi, lò gốm, lâm nghiệp, trồng cây, làm nón, đúc lưỡi cày, lò rèn,...
Việc áp dụng khoa học - kỹ thuật được khuyến khích như: giống lúa mới, giống sắn xanh, làm phân xanh, phân vô cơ, thâm canh tăng năng suất, trồng rau. Phong trào làm thuỷ lợi được đẩy mạnh như: đắp bờ vùng, bờ thửa giữ nước tại đồng ruộng, xây dựng các hồ, đập thuỷ lợi vừa và nhỏ: Khe Sông, Khe Con, Thuận Trị, đập Làng, Ông Đọn, Rú Mạo...
Công tác đảm bảo an ninh, trật tự được đặc biệt chú ý. Dân quân xã, tự vệ các lâm, nông trường được xây dựng và tăng cường quân số, chất lượng. Các hoạt động bảo mật phòng gian, truy bắt gián điệp, biệt kích được chú trọng. Huyện xóa bỏ triệt để đường dây qua Lào, vào Nam của những người từ phía Bắc tìm cách vượt tuyến vào Nam. Năm 1963, biệt kích nhảy dù xuống Trại Trụ, tự vệ lâm trường cùng dân quân các xã chặn đánh và bắt được Lê Vạn Uyển, người Hương Xuân trốn sang Lào từ năm 1956.
Tháng 7/1963, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI được tổ chức tại Chu Lễ. Đại hội đã đánh giá những thành tựu và khuyết điểm của Hương Khê trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1961 - 1962 và bàn nhiệm vụ, kế hoạch 2 năm 1963 - 1964. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1963 - 1964 gồm 21 ủy viên, đồng chí Nguyễn Tú được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phan Văn Thành giữ chức Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Đặng Minh Lương - ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện; Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch (kế tiếp nhau) là các đồng chí Đoàn Khắc Kiên, Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện. Thường vụ còn có các đồng chí Bùi Đình Quang, Võ Lan, Lê Đăng Trang.
Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ nhiệm kỳ 1962 - 1963, ghi nhận những tiến bộ mới của quân dân trong huyện, đồng thời cũng nêu lên các hạn chế, tồn tại. Đại hội cho rằng, đến giữa năm 1963, tình hình Hương Khê vẫn còn nhiều mặt yếu kém. Hoạt động kinh tế của hợp tác xã còn nhiều hạn chế. Hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí nhiều sức lao động, vật tư, nhất là thủy lợi. Việc ghi công, chấm điểm còn lỏng lẻo. Đặc biệt việc quản lý hợp tác xã quy mô lớn yếu kém do trình độ cán bộ chưa theo kịp với tình hình. Phong trào hợp tác hoá chưa đồng đều, nhiều hợp tác xã nâng lên cấp cao nhưng đội ngũ cán bộ quản lý thiếu và non yếu về trình độ, chưa được đào tạo. Tập thể hoá tư liệu sản xuất ở mức tuyệt đối làm nảy sinh các mâu thuẫn trong sản xuất, như ruộng đất bị bỏ hoang, song không cho xã viên tận dụng sản xuất thêm, thiếu trâu bò nhưng không được chăn nuôi riêng, hàng hoá dụng cụ khan hiếm nhưng không cho phát triển các ngành nghề tiểu thủ công. Việc phát triển ngành giáo dục có thu hút đông đảo con em đến trường, song kinh tế có hạn, giáo viên thiếu, trường lớp tạm bợ, bổ túc văn hoá bị xem nhẹ, văn hoá quần chúng yếu.
Sau Đại hội, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, nhất là phát triển nông nghiệp, củng cố hợp tác xã đi đôi với xây dựng, củng cố các chi bộ, đảng bộ nông thôn, củng cố chính quyền, đoàn thể cấp xã.
Phong trào phá xiềng ba sào, phong trào “Thiên lý mã” được phổ biến trong các địa phương. Hương Khê tiếp nhận nhiều hộ gia đình từ Đức Thọ lên khai hoang ở vùng Hương Nam, Hương Tân, Hương Giang và nhiều hộ Việt kiều ở Thái Lan về và ở Thạch Hà lên khai hoang ở vùng Truông Bát, Hà Linh, hình thành các vùng kinh tế mới.
Phong trào đọc sách báo phát triển. Thị trấn Chu Lễ có hiệu sách, sân vận động với nhiều hoạt động văn thể. Các đoàn ca kịch của Trung ương, của Liên khu V, đoàn xiếc Trung ương đều về biểu diễn ở Hương Khê. Các tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan giảm hẳn. Huyện tổ chức nhiều đợt phun thuốc DDT chống sốt rét, khám bệnh phát thuốc giun, thuốc đau bụng cho Nhân dân không mất tiền. Luật hôn nhân và gia đình được phổ biến, chống hành vi bạo lực, tảo hôn đối với phụ nữ. Địa vị, vai trò người phụ nữ được tôn trọng, nhiều chị em được bầu vào cơ quan đảng, chính quyền và hợp tác xã. Nhiều xã gần với vùng thị trấn đã có mạng lưới loa truyền thanh, xây dựng được trường cấp II, trạm xá. Có xã đã có y sĩ, nơi nào cũng có nhà trẻ, nhà mẫu giáo do hợp tác xã đài thọ.
Trong bảo vệ địa bàn, nhiều toán gián điệp, biệt kích của Mỹ và tay sai thả dù hoặc đột nhập từ Lào sang Hương Khê đều bị quân dân địa phương phát hiện và bắt giữ. Tại Chu Lễ, Tòa án quân sự Quân khu IV đã mở nhiều cuộc xử án biệt kích. Nhiều cuộc triển lãm về bắt gián điệp, biệt kích các nơi cũng được trưng bày để Nhân dân biết, tăng cường cảnh giác.
Lực lượng vũ trang huyện, dân quân du kích các xã, nhất là xã trọng điểm được thường xuyên chú ý xây dựng, tăng cường trang bị vũ khí. Huyện đội, công an, tòa án, viện kiểm sát, đều được Đảng bộ chú ý tăng cường cán bộ và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Tại Hương Hà, Hương Thu, có một doanh trại quân đội vừa huấn luyện vừa sản xuất cây công nghiệp (dầu sả) là lực lượng bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ địa bàn Hương Khê. Nông trường 20-4, lâm trường Trại Trụ, Chúc A, Công ty đường goòng, các đội thuyền vận tải đường sông, cơ quan huyện... đều là những cơ sở chính quyền, kinh tế, và cũng là nơi có các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tự vệ mạnh bảo vệ địa bàn.
Trong công tác vận động quần chúng, suốt thời kỳ thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo các đoàn thể phát động nhiều phong trào thi đua công tác, lao động sản xuất, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, nhiệt tình của các tầng lớp Nhân dân vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường cảnh giác bảo vệ quê hương. Năm 1963 - 1964, toàn huyện có phong trào thi đua cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, phong trào xây dựng, củng cố đưa hợp tác xã lên bậc cao. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, chống tham ô, lãng phí, quan liêu được đề cao. Phong trào bổ túc văn hoá, thi đua hai tốt, vệ sinh, phòng bệnh tiếp tục phát triển. Tính từ năm 1946 đến năm 1964, Hương Khê có 2.570 tân binh lên đường nhập ngũ, có 321 liệt sĩ.
Hệ thống chính trị ở Hương Khê, nhất là Đảng bộ huyện Hương Khê tiếp tục được xây dựng và củng cố. Hầu hết các thôn xóm, các cơ quan công, nông, lâm trường, xí nghiệp đều đã có tổ chức Đảng hoạt động và trực tiếp lãnh đạo mọi mặt ở cơ sở. Các công việc quan trọng từ sản xuất, công tác, chiến đấu phần nhiều đều do các đảng viên của Đảng đảm nhiệm.
Các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh tháng 4/1962, bầu cử Hội đồng nhân dân huyện tháng 4/1963 đều được Đảng bộ lãnh đạo tổ chức chu đáo, được Nhân dân trong huyện hưởng ứng tích cực. Qua các kỳ bầu cử, chính quyền các cấp càng được củng cố, nâng cao năng lực quản lý, điều hành các hoạt động ở địa phương, Nhân dân càng có ý thức hơn trong việc tham gia xây dựng chính quyền và phát huy quyền làm chủ của mình. Đoàn Thanh niên có phong trào thi đua xây dựng Chi đoàn 4 tốt, phấn đấu trở thành đảng viên. Năm 1964 có các đợt thi đua sôi nổi mang tên Điện Biên - Ấp Bắc, phong trào mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, phong trào trả thù cho anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Hội Phụ nữ có phong trào thi đua xây dựng gia đình văn hóa, chăm sóc nuôi dạy con, tẩy trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng tình làng nghĩa xóm và nòng cốt trong sản xuất. Mặt trận Tổ quốc mà nòng cốt là Hội Phụ lão có nhiều hoạt động, nhất là trong phong trào trồng cây gây rừng và động viên con cháu hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, tham gia các hoạt động đấu tranh thống nhất nước nhà, tiết kiệm xây dựng nông thôn mới.
Nhìn chung, sau 10 năm xây dựng trong hoà bình (1954 - 1964), bộ mặt Hương Khê đã có thay đổi căn bản, mỗi ngày một tiến bộ hơn. Hương Khê thực sự đã trở thành một huyện có kinh tế nông, lâm nghiệp khá phát triển, văn hoá xã hội lành mạnh, chính trị, quốc phòng lớn mạnh. Bộ mặt của Hương Khê đã thực sự có những đổi mới, nhất là không khí lao động, sản xuất, phong trào cách mạng của quần chúng. Hương Khê đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục.
Đảng bộ đã quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III và các Nghị quyết Trung ương lần thứ năm, thứ bảy, thứ tám và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh tháng 7/1963... vào điều kiện cụ thể Hương Khê. Các cấp ủy Đảng đã nhận rõ nhiệm vụ ba cuộc cách mạng trong điều kiện huyện miền núi, coi trọng vị trí hoa màu trong cơ cấu cây lương thực, đã đưa cách mạng quan hệ sản xuất đi lên một bước mới thông qua cuộc vận động cải tiến quản lý lần thứ nhất; đã biết lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính của cách mạng kỹ thuật để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Công tác củng cố hợp tác xã được thường xuyên coi trọng. Đến cuối năm 1965, toàn huyện có 95 hợp tác xã bậc cao, đạt 89,7% tổng số hợp tác xã. Các vùng kinh tế có khó khăn, vùng công giáo số hộ tham gia hợp tác xã đạt 69,2%. Về thủy lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đến năm 1965 đã đào đắp 1.488.552 m3 đất đá, 197 hồ đập lớn nhỏ và hàng ngàn mét kênh mương dẫn nước. Mua sắm trang bị 29 máy bơm, phục vụ tưới tiêu cho 2.700 ha vụ chiêm, 3.200 ha vụ mùa. về sản xuất và sử dụng phân bón đã được chú trọng hơn trước, nhất là phong trào làm phân xanh, bùn ao, đưa bình quân phân bón mỗi ha lên 5 tấn. Thành lập và củng cố 17 lò vôi, đốt được 629 tấn để phục vụ sản xuất cải tạo đất và xây dựng. Các ngành trong hợp tác xã được chú trọng phát triển. Công tác quản lý đã vươn ra quản lý các ngành sản xuất mới mẻ như: sơn tràng, mộc, rèn, các đội thuỷ lợi, trồng cây. Hợp tác xã trở thành chỗ dựa cả vật chất và tinh thần của Nhân dân, nơi thể hiện diện mạo mới của nông dân, nông thôn xã hội chủ nghĩa.
Năm 1965, Hương Khê được mùa toàn diện. Diện tích lúa cả năm tăng 490 ha so với năm 1961. Năng suất lúa đạt 1.491 kg, riêng vụ chiêm đạt 1.657 kg, vụ thu 1.308 kg, vụ mùa 1.373 kg đưa sản lượng lúa cả năm táng 25,9%. Tổng sản lượng lương thực toàn huyện đạt 13.392 tấn. Các chỉ số diện tích, tỷ trọng màu tăng 28,7%, bình quân lương thực đầu người đạt 331 kg. Đàn trâu năm 1961 có 8.738 con, năm 1965: 10.157 con, tăng 16,24%. Đàn bò năm 1961 có 7.360 con, năm 1965: 8.279 con, tăng 12,49%. Đàn lợn năm 1961: 9.336 con, năm 1965: 11.456 con, tăng 22,71%. Lợn nái năm 1961: 840 con, năm 1965: 2.118 con, tăng 152,14%...
Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong thời kỳ 1954 - 1965 là cơ sở, điều kiện để Hương Khê vươn lên thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau đó.
CHƯƠNG V ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN,
CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1975)
I. LÃNH ĐẠO CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN (1965 - 1968)
Giữa lúc quân dân miền Bắc đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam cuộc đấu tranh của quân dân ta cũng giành được những thắng lợi to lớn. Nhất là phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), quân dân miền Nam đã tiến lên giành thế tiến công, tiến tới đánh bại chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ. Tiếp đó, từ năm 1961 đến năm 1965, được sự chi viện ngày càng to lớn của miền Bắc, quân dân miền Nam đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại các kế hoạch bình định, lập ấp chiến lược của địch, từng bước làm thất bại kế hoạch Stalây - Taylo và kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, đưa chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ đến chỗ phá sản.
Thấy rõ nguy cơ sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền và sự thất bại hoàn toàn của “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, từ đầu 1965, đế quốc Mỹ đã vội vã chuyển sang chiến tranh cục bộ, trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến tranh xâm lược, dùng không quân, hải quân đánh phá ra miền Bắc. Âm mưu đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ là phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, giải phóng miền Nam của Đảng và Nhân dân ta.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động quân và dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong không khí sôi sục tinh thần chống Mỹ, cứu nước, tháng 3/1965, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ XII tại xã Hương Phố. Đại hội chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận rõ âm mưu của đế quốc Mỹ; đẩy mạnh sản xuất, công tác; ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt, nhất là xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ; giữ vững an ninh địa bàn; chú trọng xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, đoàn kết toàn dân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; ra sức ủng hộ, chi viện cách mạng miền Nam... Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ là tiếp tục lãnh đạo đưa hợp tác xã lên bậc cao và sẵn sàng đối phó với sự đánh phá của máy bay Mỹ.
Ban Chấp hành Đảng bộ do Đại hội bầu ra có 23 ủy viên. Đồng chí Đặng Tỵ, Tỉnh ủy viên là Bí thư Huyện ủy; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện là đồng chí Lê Hữu Kính; Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng là đồng chí Đặng Minh Lương, tiếp đó là đồng chí Phan Văn Thành. Ủy viên Ban Thường vụ là các đồng chí: Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện, Bùi Đình Quang, Võ Lan, Lê Đăng Trang.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, của Tỉnh ủy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XII, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và toàn dân Hương Khê đã nhanh chóng bước vào thời kỳ mới. Thường vụ Huyện ủy tổ chức nhiều cuộc họp đột xuất để bàn định kế hoạch khẩn trương triển khai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong tình hình mới; vạch kế hoạch chuyển hướng xây dựng kinh tế và mọi mặt hoạt động của huyện từ thời bình sang thời chiến; xác định quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, kiên quyết xây dựng và bảo vệ địa phương, đồng thời huy động sức người, sức của cung cấp cho mặt trận, bảo đảm giao thông vận tải chi viện chiến trường.
Các cơ sở sản xuất, cơ quan huyện ở Chu Lễ được chỉ đạo sơ tán về các xã lân cận. Xí nghiệp sản xuất phốt phát ở Phú Lễ được chuyển sâu vào Lèn để tiếp tục sản xuất. Các cầu đường bộ, đường sắt được nguỵ trang. Các trường học, bệnh viện, bệnh xá có phương án sơ tán đến nơi an toàn hơn. Công tác sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được đặc biệt chú ý. Huyện đội đã cử cán bộ về tập huấn, huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ các cơ quan, xí nghiệp, nông lâm trường, thôn xã. Một số đơn vị trực chiến được xây dựng với vũ khí trang bị mới do Tỉnh đội và Quân khu tăng cường.
Trong khi quân và dân Hương Khê đang khẩn trương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ thì ngày 26/3/1965, quân dân Thị xã Hà Tĩnh, Đèo Ngang đã nổ súng đánh Mỹ trận đầu tiên và bắn rơi được 12 máy bay.
Ở Hương Khê, từ đầu năm 1965, máy bay Mỹ thường xuyên bay lượn trinh sát tuyến vận tải đường sắt, đường bộ, đường sông Ngàn Sâu và các cơ sở quân sự, dân sự như: doanh trại bộ đội, các công, nông, lâm trường... Sáng 26/3/1965, máy bay Mỹ ném bom vào nhiều vị trí, làm 01 người chết tại bệnh viện huyện. Để nhanh chóng ứng phó với địch, tự vệ Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức chiến đấu. Vào 10h30 phút cùng ngày tại sân vận động Chu Lễ, tự vệ huyện nổ loạt súng đầu tiên bắn chiếc máy bay AĐ6 bay từ hướng thị xã lên.
Ngày 31/3/1965, chúng đã cho máy bay ném bom phá hoại doanh trại quân đội ở Hương Hà, Bệnh viện Hương Khê, gây cho ta nhiều thiệt hại về tài sản. Tại Bệnh viện huyện, bom đạn Mỹ đã sát hại một sản phụ đang lúc chuyển dạ, không thể ra nơi trú ẩn.
Ngày 15/4/1965, Thường vụ Huyện ủy họp quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 11. Sau khi nghe tình hình miền Nam, nội dung cơ bản của Nghị quyết 11, Hội nghị đã chủ trương chuyển trụ sở của huyện vào Hương Long. Trong khi chờ quyết định của tỉnh, tạm thời sơ tán từng bộ phận vào dân, một bộ phận vẫn ở Chu Lễ. Huyện ủy phân công các Huyện ủy viên phụ trách từng cụm và quy định chế độ hội ý, báo cáo định kỳ để bảo đảm nắm và chỉ đạo thông suốt, kịp thời, thống nhất trên phạm vi toàn huyện, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh, giao thông liên lạc khó khăn.
Ngày 4/6/1965, Ban Thường vụ họp bàn vấn đề kinh tế thời chiến và nhiệm vụ quốc phòng. Hội nghị đã nghe báo cáo về phân loại phản động ở địa phương, dự kiến bổ sung huyện ủy viên, điều chuyển một số đồng chí đảm nhiệm công việc mới cho phù hợp với thời chiến như: đồng chí Phan Huy Suyền bàn giao công tác thanh niên, sang chỉ đạo giao thông, đồng chí Đặng Minh Lương sang Thường trực Đảng,... Hội nghị quyết định thành lập Ban Sơ tán của huyện, chỉ đạo việc sơ tán cơ quan, Nhân dân ở vùng trọng điểm bị đánh phá.
Ngày 18/6/1965, đồng chí Trần Anh Liên, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đã về thăm và làm việc với Thường vụ Huyện ủy Hương Khê, bàn thực hiện nhiệm vụ phối hợp chi viện cho chiến trường A, B, C. Theo tinh thần đó, tối ngày 20/6/1965, Ban Thường vụ Huyện ủy họp bàn huy động dân công cho bến phà Địa Lợi với số lượng 340 người, khẩn trương bảo đảm thông suốt cho phà hoạt động (tỉnh giao 300 người); ngoài ra, còn cho tuyển thanh niên xung phong và lực lượng bốc vác, sửa chữa đường sá. Tối ngày 23/6/1965, Thường vụ nghe đại diện Tỉnh ủy thông báo về phòng chống biệt kích, gián điệp của địch.
Liên tục trong các tháng giữa năm 1965, máy bay Mỹ đã dồn dập đánh phá các mục tiêu ở Hương Khê, như bắn cháy Trường cấp 2 Hương Thanh, đánh cầu Thanh Luyện, phà Địa Lợi, Lộc Yên, cầu 30 thước, cầu Cửa Rào, Thị trấn Chu Lễ...
Trong khói lửa chiến tranh, phong trào quân sự hóa mọi mặt đời sống được triển khai và trở nên phổ biến. Đến giữa năm 1965, căn bản Hương Khê đã chuyển sang thời chiến và hình thành được thế trận của chiến tranh Nhân dân. chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Công tác phòng không sơ tán được khẩn trương thực hiện, nhà dân nào cũng đào hầm trú ẩn, các trường học được chuyển đến các địa điểm mà địa phương cho là an toàn nhất.
Huyện chỉ đạo một mặt phát động tinh thần căm thù giặc Mỹ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, mặt khác chỉ đạo ra sức thực hiện công tác phòng không Nhân dân, xây dựng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ. Trong chiến đấu phải phối hợp tốt với bộ đội chủ lực để bắn máy bay, bắt giặc lái, bảo vệ các trọng điểm. Trong phòng tránh, phải có đèn phòng không cho xe qua lại, trồng cây và nguỵ trang cho xe ô tô ẩn nấp, ngụy trang các công trình thuỷ lợi, cấm dùng đèn đuốc đi lại ban đêm tuỳ tiện, thưng che bếp, đèn trong nhà không để lọt ánh sáng ra ngoài. Các chợ búa, trường học phải có hầm, hào sơ tán. Không tập trung quá đông người, kể cả trong sản xuất, phải chia thành các nhóm nhỏ. Về an ninh, phải đề cao cảnh giác, chống phao tin đồn nhảm của địch, ngăn chặn kịp thời các vụ trộm cắp tài sản tập thể và Nhà nước, cá nhân. Tăng cường hoạt động của các ngành công an, toà án...
Để đảm bảo an toàn, cơ quan Huyện ủy sơ tán về xã Hương Long, Ủy ban nhân dân huyện sơ tán sang xã Hương Vĩnh. Giữa năm 1966, cả Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đều sơ tán về xã Hương Bình. Trường cấp III Hương Khê sơ tán về các xã Hương Phong, Hương Vĩnh. Bệnh viện huyện sơ tán về xã Hương Long.
Hương Khê trở thành khu vực trung chuyển quan trọng trên con đường giao liên của bộ đội, thương bệnh binh vào ra chiến trường và là vùng kho, trạm quan trọng trên tuyến giao thông vận tải của các loại phương tiện sắt, thủy, bộ. Số lượng bộ đội vào chiến trường B dừng chân huấn luyện, củng cố tại Hương Khê ngày một đông, thương - bệnh binh ra điều trị, an dưỡng ngày một nhiều. Kho tàng bến bãi lập nên ở khắp nơi dọc sông Ngàn Sâu, dọc tuyến đường số 15, dọc đường sắt. Mối tình quân dân được tăng cường, tinh thần hậu phương với tiền tuyến được đề cao. Song vấn đề đặt ra là giặc Mỹ đã liên tục đánh phá ác liệt Hương Khê hòng ngăn chặn con đường chi viện chiến trường miền Nam. Hơn nữa, nhu cầu cung cấp lương thực, thực phẩm tại chỗ cho bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, thương bệnh binh ngày càng lớn.
Trước đòi hỏi của cuộc chiến đấu tại chỗ và nhu cầu chi viện tiền tuyến, Đảng bộ huyện Hương Khê đã phát động phong trào toàn dân bắn máy bay Mỹ, toàn dân làm giao thông vận tải, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, áp dụng triệt để chế độ tem phiếu, bao cấp thời chiến.
Từ năm 1965 và liên tiếp các năm sau, phong trào làm bèo hoa dâu, cấy lúa thẳng hàng, làm ruộng cao sản, ruộng tăng sản, phong trào thuỷ lợi, cải tạo nội đồng được chú trọng. Đường giao thông vận tải liên thôn, liên xã, liên huyện được nâng cấp, làm mới ở khắp nơi. Hàng trăm công trình thuỷ lợi nội đồng, đê đập vừa và nhỏ được đào đắp ở hầu hết các xã, thôn trong huyện. Chiến dịch thuỷ lợi Bồng Sơn phát động trong các tháng mùa hè năm 1966 đã thu hút toàn dân trong huyện tham gia. Kết quả đã có đợt huy động 48.000 người tham gia, có hàng ngàn xã viên, thanh niên các hợp tác xã được bình bầu là dũng sỹ Bồng Sơn các cấp[70]. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ, áp dụng giống mới được đẩy mạnh. Huyện có 122 hợp tác xã, trong đó có 70 hợp tác xã đã lên bậc cao, các hợp tác xã khác đều được học tập để nhập các hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã lớn hơn, để lên bậc cao. Có 13 trại chăn nuôi với 574 con trâu bò, có 8 trại thí điểm nuôi lợn tập thể. Các hợp tác xã kết nạp thêm 158 hộ, quản lý thêm 100,5 ha đất làm riêng.
Công nghiệp địa phương có bước phát triển nhanh, hình thành Xí nghiệp than Động Đỏ (Hương Hà), nhiều lò vôi, lò gạch, lò rèn. Hoạt động lâm nghiệp khai thác gỗ, tre, nứa phục vụ kinh tế, quốc phòng được chú ý. Các hợp tác xã mua bán được thiết lập, thực hiện chế độ phân phối hàng tiêu dùng tối thiểu cho Nhân dân.
Phong trào chống Mỹ, cứu nước diễn ra sôi nổi trong các đoàn thể Nhân dân như: phong trào Ba sẵn sàng, Ba đảm đang, phong trào đi bộ đội, Thanh niên xung phong, đi dân công hoả tuyến. Chưa bao giờ tuổi trẻ Hương Khê, chị em Hương Khê lại tình nguyện tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sôi nổi như thời kỳ này. Toàn huyện có hàng trăm quân nhân phục viên được gọi tái ngũ, hàng ngàn thanh niên tham gia Thanh niên xung phong, đi bộ đội.
Công tác quân sự địa phương được chú ý hơn trước. Thanh niên, dân quân là lực lượng xung kích trên mọi mặt công tác, sản xuất, chiến đấu, nhất là tham gia các đội trực chiến, ứng cứu giao thông, làm các công trình giao thông, thuỷ lợi. Lực lượng dân quân tự vệ thu hút phần lớn người trong độ tuổi lao động tham gia với số lượng hàng ngàn người. Lực lượng Bộ đội địa phương huyện, Công an nhân dân được tăng cường. Các đồn biên phòng ở biên giới Việt - Lào: đồn 95, 97, 99 được bổ sung lực lượng.
Phong trào bắn máy bay được diễn ra sôi nổi với hàng chục đội dân quân trực chiến, nhất là các xã dọc theo các tuyến đường vận tải, nơi trọng điểm giao thông, khu vực nông, lâm trường, xí nghiệp... Khẩu hiệu “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng” được nông dân, công nhân Hương Khê thực hiện sinh động, hiệu quả trên thực tế. Ngày 20/9/1965, quân dân Hương Vĩnh, Hương Xuân và tự vệ công nhân Nông trường 20/4 đã phối hợp bắn máy bay, vây bắt giặc lái Mỹ nhảy dù. Quân dân ta đã bắn rơi một trực thăng, bắt sống 5 tên giặc Mỹ đến cứu và cầu cứu. Hình ảnh “O du kích nhỏ giương cao súng”[71] đang giải tên giặc Mỹ cao lớn cúi đầu là do nhà nhiếp ảnh Phan Thoan ghi được trong sự kiện này. Đó là biểu tượng nói lên khí phách hiên ngang của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Với chiến công này, quân dân Hương Khê được thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Nông trường 20-4 và quân dân Lộc Yên được tặng Huân chương Quân công hạng Ba, Đội 6 Lâm trường Chúc A, dân quân Hương Phong được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, quân dân xã Hương Xuân, tự vệ Phòng Giao thông, bộ đội địa phương huyện được tặng Huân chương Chiến công hạng Hai, các xã Hương Đô, Hương Lạc được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba, Hương Lĩnh, Tự vệ cơ quan huyện được tặng Bằng khen.
Do huyện Hương Khê nằm ở vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt nên đế quốc Mỹ đã đánh phá thường xuyên, liên tục bằng mọi thủ đoạn, mọi loại bom đạn, vào mọi thời tiết, mọi mục tiêu, kể cả khu dân cư. Tổn thất mà bom đạn Mỹ gây ra cho Hương Khê là hết sức to lớn. Tất cả các xã trong huyện đều bị đánh phá ngay từ những tháng đầu của chiến tranh phá hoại. Tuyến đường sắt và sông Ngàn Sâu chạy dọc huyện, từ Đức Thọ vào Tuyên Hóa (Quảng Bình), đường 15 từ Khe Giao lên Hà Linh, vào Tuyên Hóa, là hệ thống giao thông sắt, thủy, bộ chủ yếu của Hương Khê và hậu phương miền Bắc chi viện miền Nam qua Hương Khê, luôn luôn bị máy bay địch bắn phá ác liệt. Có những nơi trở thành tọa độ đánh phá thường xuyên của máy bay Mỹ như khu vực bến phà Địa Lợi, cầu 30 thước, cầu Thanh Luyện, chợ Trúc, Thị trấn Chu Lễ, ga Hương Phong, Lộc Yên,...
Vào lúc 16 giờ 30’ ngày 9/2/1966 có 6 quả bom rơi trúng lớp 5A Trường cấp II Hương Phúc làm cho 33 học sinh bị chết tại chỗ, 24 học sinh và thầy giáo Thái Văn Nhậm bị thương. Hầu hết các em học sinh đều tuổi măng non. Tin giặc máy bay Mỹ ném bom làm chết nhiều học sinh Trường cấp 2 Hương Phúc được truyền đi rất nhanh, gây nên một làn sóng căm phẫn trong Nhân dân cả nước và Nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Sự căm thù giặc Mỹ xâm lược đã trở thành một làn sóng mạnh mẽ, rộng khắp với các hoạt động phản đối chiến tranh, đòi đế quốc Mỹ cút khỏi Việt Nam. Giáo viên, học sinh toàn miền Bắc lúc đó đã cùng để tang cho những học sinh Hương Phúc bị bom Mỹ giết hại.
Trước tình hình đó, ngày 14/2/1966, Thường vụ Huyện ủy họp đánh giá thiệt hại trong vụ địch ném bom vào trường Cấp II Hương Phúc và bàn biện pháp sơ tán triệt để Nhân dân khỏi các vùng trọng điểm gần cầu đường, công trình quốc phòng nhằm đảm bảo an toàn cho người. Một phong trào phòng không sơ tán được Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện chỉ đạo ráo riết, được toàn dân triệt để thi hành. Khẩu hiệu “Nhà che mưa, che nắng, hầm hố che máu, che xương” trở thành hiện thực. Nhà nhà đào hầm hào, người người thực hiện phòng không Nhân dân. Các hợp tác xã đều chi công điểm cho xã viên đi đào hầm hào ở các vùng trọng điểm giao thông, nơi sản xuất gần các khu vực địch đánh phá, làm trường lớp, hầm hào, đắp lũy cho các lớp học, các trạm xá, nhà hộ sinh, chợ búa...
Mặc dù trong điều kiện chiến tranh, máy bay bắn phá ác liệt nhưng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, văn nghệ, thông tin, y tế ở huyện Hương Khê vẫn không ngừng phát triển. Phong trào thi đua Hai tốt, giáo dục phổ thông 3 cấp, bổ túc văn hoá được duy trì và phát triển. Số học sinh, số trường lớp vẫn tăng lên, thầy trò vẫn duy trì học tập chuyên cần trong các lán ngầm ẩn sâu vào lòng đất. Trường cấp III Hương Khê được chuyển vào xã Hương Vĩnh an toàn hơn để tiếp tục đào tạo các thế hệ trí thức tương lai cho quê hương, đất nước.
Các trường học được phân tán thành nhiều lớp rải rác vào các làng xã. Lớp học được hạ thấp xuống đất, chung quanh có lũy cao bao bọc. Học sinh tự giác không mặc quần áo màu sáng, lúc đi học đều có mũ rơm. Ánh sáng của đèn, của bếp được che chắn đề phòng địch phát hiện. Việc ngụy trang được toàn dân thực hiện cả lúc đi lại, cày cấy. Học sinh trường cấp III đã tự vào rừng đốn gỗ, chặt nứa, cắt tranh để về làm lớp học, làm hầm, lũy. Nhân dân các xã sẵn sàng cưu mang Nhân dân, học sinh đến sơ tán, học tập. Mọi nhà dân đều là nơi để hàng hoá, nơi đóng quân, nghỉ ngơi của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công.
Ngành y tế được quan tâm phát triển, tạo thành mạng lưới cấp cứu tại chỗ và theo tuyến xã, huyện, quân dân y, đông tây y kết hợp. Ngoài chữa bệnh, điều trị thông thường, vấn đề cứu chữa người bị thương do bom đạn Mỹ ngày càng trở nên cấp bách. Trong khó khăn, các y, bác sĩ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc không kể ngày đêm để cứu chữa bộ đội, cán bộ, Nhân dân bị thương. Nhiều sáng kiến về điều trị sử dụng thuốc nam, nhiều tấm gương tận tụy chăm sóc người bệnh, kể cả hiến máu cứu người bị nạn xuất hiện, được Nhân dân khen ngợi.
Bệnh viện huyện được sơ tán về xã Hương Long đã cùng với bệnh viện Quân khu IV ở xã Hương Bình tạo nên trung tâm y tế mạnh cứu chữa, điều trị cho bộ đội, Nhân dân. Bác sĩ Đặng Hoàng và các đồng nghiệp đã xử lý thành công nhiều ca cấp cứu hiểm nghèo, trong đó có một linh mục bị thương rất nặng, đem lại niềm tin cho giáo dân. Các xã đều có trạm xá, nhà hộ sinh, trạm thuốc nam với đội ngũ cán bộ tại chỗ do hợp tác xã đài thọ, bảo đảm nhu cầu cấp cứu, điều trị cho Nhân dân, giảm số phải chuyển lên tuyến trên. Các hợp tác xã đều có cán bộ y tế cơ sở, có tủ thuốc của mình. Huyện đã nhanh chóng mở nhiều lớp đào tạo cán bộ y tế trình độ y tá, cứu thương và gửi cán bộ đi đào tạo y sĩ. Việc khám tuyển nghĩa vụ quân sự đều do ngành y tế của huyện đảm nhiệm bảo đảm chất lượng sức khỏe của tân binh giao cho các đơn vị bộ đội. Phong trào xây dựng ba công trình vệ sinh cơ bản (giếng nước, nhà tắm, nhà xí) được thực hiện khắp các địa phương. Toàn ngành y tế đã xây dựng được ý thức hướng về cơ sở, lấy tuyến xã và hợp tác xã làm địa bàn phục vụ trọng yếu, giải tỏa nhanh bệnh nhân cho bệnh viện huyện. Các trạm xá khu vực được xây dựng và tăng cường phương tiện, cán bộ để kịp thời giải quyết hậu quả chiến tranh cho khu vực.
Hoạt động Văn hóa thôn tin được quan tâm. Ngành văn hóa, thông tin được tăng cường về số lượng cán bộ và phương tiện truyền tải. Ban Tuyên huấn Huyện ủy và Phòng Văn hóa thông tin Ủy ban hành chính huyện được tăng cường cán bộ có năng lực và nhiệt tình về công tác. Hệ thống loa truyền thanh từ huyện được nối dài đến các xã cung cấp kịp thời tin tức thời sự cho Nhân dân. Báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân, báo Hà Tĩnh, các bản tin thời sự đều được cấp phát đến các xã. Cổng chào, khẩu hiệu, bảng tin được dựng ở khắp nơi với nội dung nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mọi người, từ già đến trẻ, cán bộ đến người dân bình thường đều háo hức theo dõi tin tức thời sự, trao đổi, truyền tin mọi sự kiện gần xa, cùng chung vui lo về mọi thắng lợi, khó khăn của hậu phương và tiền tuyến. Các đội chiếu phim phục vụ Nhân dân cả ngày và đêm. Văn nghệ nghiệp dư, múa hát tập thể, “tiếng hát át tiếng bom”, đọc báo, nghe loa phát thanh... trở thành phong trào quần chúng. Ngay cả khi địch đang đánh phá thì cán bộ, nhân viên ngành bưu điện vẫn bảo đảm giao thông thông suốt, không lúc nào để mất liên lạc với trên và các địa phương.
Công tác quân sự địa phương được tăng cường về mọi mặt. Ngoài các đơn vị chủ lực thường xuyên có mặt trên địa bàn huyện, Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở các xã, cơ quan, nông trường, xí nghiệp... Huyện ủy thường xuyên có một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ phụ trách trực tiếp công tác quân sự, làm Chính trị viên Huyện đội. Đồng chí Bí thư Huyện ủy trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện. Ban quân sự các xã đều do đồng chí Bí thư Đảng ủy phụ trách, Xã đội trưởng đều là đảng ủy viên hoặc là Thường vụ Đảng ủy. Ý thức quốc phòng toàn dân, quan điểm chiến tranh Nhân dân được thường xuyên quán triệt trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Vai trò của dân quân tự vệ, của thanh niên trở nên hết sức quan trọng. Thanh niên, dân quân được huy động làm nhiệm vụ trực phòng không, trực chiến bắn máy bay và cứu trợ lúc địch đánh phá giao thông, làng mạc. Các chòi canh gác, báo động máy bay được bố trí khắp các làng, các trạm truyền thanh, phát thanh được tổ chức để phục vụ cho tuyên truyền tin tức và báo động máy bay địch. Tất cả thanh niên đều tham gia dân quân tự vệ, được biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội và có trang bị vũ khí ngày càng hiện đại. Nhiều địa phương có đội trực chiến quy củ, túc trực suốt 24/24 giờ, sẵn sàng độc lập tác chiến bắn máy bay địch bảo vệ trọng điểm và phối hợp, cơ động với lực lượng phòng không của chủ lực lập thành các cụm trận địa phòng không đánh địch. Cơ quan quân sự của huyện được tăng cường cả về quân số, trang bị vũ khí. Tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện được xây dựng, sau các khóa huấn luyện đã lên đường bổ sung cho chủ lực và thay thế là số thanh niên mới nhập ngũ. Mỗi năm đều có vài ba đợt tuyển quân với hàng ngàn thanh niên lên đường nhập ngũ. Hàng trăm nam, nữ thanh niên đã lên đường đi Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ trên các tuyến giao thông vận tải.
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, Hương Khê nổi bật trong công tác bảo đảm giao thông vận tải. Đảng bộ, chính quyền huyện đã xác định trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bảo đảm giao thông thông suốt. Huyện ủy thường xuyên cử một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp phụ trách Phòng Giao thông Vận tải nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác được coi là trọng tâm và đột xuất này. Đảng bộ cũng đã phát động phong trào quần chúng tham gia công tác giao thông. Ban giao thông các xã được thành lập để bảo đảm giao thông vận tải trong xã và sẵn sàng chi viện cho huyện, cho Thanh niên xung phong khi cần thiết. Nhiều đảng viên, đoàn viên, dân quân đã tham gia các đội xung kích, phụ trách từng đoạn đường, bến bãi. Các trọng điểm giao thông như phà Địa Lợi, bến sông chợ Trúc, cầu Lộc Yên,... đều thường xuyên có lực lượng của Trung ương, của tỉnh, của địa phương cùng phối hợp làm nhiệm vụ vận chuyển.
Huyện có đơn vị công binh thường xuyên có mặt nơi cần thiết để tổ chức phá bom nổ chậm, bom từ trường. Qua các lần tập huấn lý thuyết và thực địa, các tổ công binh dân quân các xã đã tiến tới tự phá được bom từ trường, bom nổ chậm, nhất là thời gian địch ném bom hạn chế (năm 1968). Dân quân các xã Hương Tân, Hương Phố, Hương Thanh, Hương Hà, Hương Luyện, Hương Thu, Hương Châu, Hương Long, Hương Đô, Hương Thuỷ, Tự vệ Nông trường Chúc A, Nông trường 20-4, vùng Thượng huyện... đều tự mình phá được bom từ trường với những dụng cụ thô sơ, tự tạo. Bom bi, rốc két chưa nổ của địch được dân quân, công binh thu gom phá hủy để bảo đảm an toàn cho sinh hoạt, sản xuất.
Công tác hậu phương quân đội trong điều kiện mới càng trở nên quan trọng. Phần lớn các gia đình Nhân dân trong huyện đều có một người thân đi bộ đội, Thanh niên xung phong, dân công hoặc đi thoát ly làm cán bộ, công nhân viên của Nhà nước. Hợp tác xã đã vươn lên làm cả chức năng của một tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó có nhiệm vụ hậu phương quân đội. Các đợt tuyển quân đều được các xã, cơ quan, xí nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh, vượt chỉ tiêu. Trường cấp III Hương Khê là một điển hình của công tác động viên học sinh lên đường nhập ngũ.
Gia đình chính sách được hỗ trợ nhân lực, vật liệu để làm hầm phòng tránh. Các đội cứu thương, cứu sập, tủ thuốc công cộng, túi thuốc gia đình, bông băng cá nhân,... được thực hiện tự giác. Hoạt động giao thông vận tải và sản xuất ở vùng trọng điểm đánh phá của địch được chuyển vào ban đêm là chính. Quan hệ giữa người với người, tình làng, nghĩa xóm, quan hệ giữa Đảng với dân, chính quyền với Nhân dân, tình quân dân, nghĩa thầy trò... đều trong sáng, chân thành, tốt đẹp.
Trong công tác xây dựng Đảng, mặc dù chiến tranh ác liệt, cán bộ, đảng viên phải hy sinh, gương mẫu đi đầu trong chiến đấu, sản xuất, công tác song hầu như mọi quần chúng ưu tú, nhất là đoàn viên Thanh niên lao động, đều có nguyện vọng gia nhập Đảng. Đến tháng 4/1966, Đảng bộ Hương Khê đã có 37 đảng bộ xã, 26 đảng bộ cơ quan, nông lâm trường, xí nghiệp, với 3.546 đảng viên.
Xem bảng thống kê dưới đây sẽ cho thấy rõ số đảng viên phân bố ở các đảng bộ[72]:
TT
|
Đảng bộ
|
Đảng viên
|
TT
|
Đảng bộ
|
Đảng viên
|
1
|
Hương Trạch
|
45
|
34
|
Hương Điền
|
35
|
2
|
Hương Phúc
|
37
|
35
|
Hương Đại
|
72
|
3
|
Hương Lĩnh
|
86
|
36
|
Hương Giang
|
110
|
4
|
Hương Lạc
|
111
|
37
|
Hương Thu
|
93
|
5
|
Hương Đô
|
142
|
Cộng 37 xã
|
3.017
|
6
|
Hương Lâm
|
67
|
1
|
C.QHU
|
26
|
7
|
Hương Liên
|
59
|
2
|
C.QUB
|
64
|
8
|
Hương Lộc
|
57
|
3
|
Lương thực
|
44
|
9
|
Hương Mai
|
67
|
4
|
Lâm nghiệp
|
97
|
10
|
Hương Châu
|
82
|
5
|
Lâm trường
|
79
|
11
|
Hương Đồng
|
119
|
6
|
Vật liệu
|
7
|
12
|
Hương Hoà
|
113
|
7
|
Tư liệu
|
7
|
13
|
Hương Mỹ
|
30
|
8
|
Dược phẩm
|
3
|
14
|
Hương Trung
|
20
|
9
|
Thực phẩm
|
21
|
15
|
Hương Luyện
|
33
|
10
|
Công an
|
10
|
16
|
Hương Minh
|
161
|
11
|
Thống nhất
|
6
|
17
|
Hương Thọ
|
115
|
12
|
Mặt trận
|
11
|
18
|
Hương Phong
|
78
|
13
|
Hạt 8
|
20
|
19
|
Hương Xuân
|
100
|
14
|
Tân Thủy
|
4
|
20
|
Hương Phố
|
71
|
15
|
Công trình
|
25
|
21
|
Hương Thịnh
|
42
|
16
|
Nông sản
|
13
|
22
|
Hương Thủy
|
103
|
17
|
Bưu điện
|
9
|
23
|
Hương Tân
|
106
|
18
|
Huyện đội
|
13
|
24
|
Hương Long
|
136
|
19
|
Bán lẻ
|
17
|
25
|
Hương Bình
|
180
|
20
|
Ngân hàng
|
15
|
26
|
Hương Phú
|
95
|
21
|
Hợp tác xã
|
7
|
27
|
Hương Vĩnh
|
91
|
22
|
Ngoại thương
|
3
|
28
|
Hương Hải
|
127
|
23
|
Mỏ than
|
7
|
29
|
Hương Thái
|
32
|
24
|
Cấp III
|
3
|
30
|
Hương Nam
|
13
|
25
|
Bệnh viện
|
15
|
31
|
Hương Thanh
|
80
|
26
|
Sông Tiêm
|
3
|
32
|
Hương Hà
|
86
|
Cộng cơ quan
|
529
|
33
|
Hương Quang
|
14
|
Toàn huyện
(63 đơn vị)
|
3.546
đảng viên
|
Không chỉ tăng nhanh về số lượng mà chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên cũng được bảo đảm. Phân loại đảng bộ, chi bộ 6 tháng đầu năm 1966 đạt loại 4 tốt: 13, khá: 32, trung bình: 32, kém: 9. Riêng các đảng bộ khối nông thôn loại 4 tốt có 4 xã, khá 16 xã, trung bình 14 xã, kém 3 xã (Hương Lâm, Hương Đại, Hương Thọ). Chi bộ khối cơ quan có 5 đơn vị tốt (Huyện ủy, Huyện đội, Công an, Thống nhất, Giao thông), 11 khá, 8 trung bình, 1 kém (Lương thực).
Ngày 27/6/1966, Đảng bộ Hà Tĩnh cử một đoàn cán bộ đi tham quan, học tập sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình, do đồng chí Nguyễn Xuân Linh, Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu. Ngày 6/7/1966, khi đoàn về Hà Nội, đã được Bác Hồ tiếp và nói chuyện thân mật. Trong bài nói chuyện tại Phủ Chủ tịch, Bác đã khen ngợi tỉnh Hà Tĩnh có nhiều thành tích trong bắn máy bay, phòng không Nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải, làm thuỷ lợi... Đồng thời, Người cũng đã phê bình, nhắc nhở Hà Tĩnh phải chú trọng công tác xây dựng Đảng, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, quan tâm đối với phụ nữ, thanh niên, trẻ em, đồng bào công giáo, khắc phục tệ nấu rượu, vi phạm Luật hôn nhân gia đình, phải chú ý áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh chăn nuôi, trồng cây gây rừng, giải quyết tốt vấn đề lương thực... Ngày 20/9/1966, Thường vụ Huyện ủy họp nghe các đồng chí Đặng Tỵ (Bí thư Huyện ủy), Phan Nhâm (Hương Bình), Nguyễn Giao (Hương Thanh) đại biểu Hương Khê tham gia Đoàn báo cáo về chuyến đi Thái Bình. Đảng bộ đã tổ chức học tập bài nói chuyện của Bác, nghiêm túc kiểm điểm những thiếu sót mà Bác đã nêu ra, phát động phong trào học tập để cùng với toàn tỉnh thực hiện lời dạy của Bác: “Hà Tĩnh phải làm cho tình hình nổi bật lên”[73].
Một nhiệm vụ nổi bật của Đảng bộ huyện Hương Khê trong những năm 1965 - 1966 là đã lãnh đạo tiếp nhận các hộ dân của Đức Thọ lên khai hoang, định cư lâu dài ở huyện thành công. Theo chủ trương của tỉnh, hơn 500 hộ dân của Đức Thọ thuộc các xã Đức Nhân, Đức Xá, Đức Tùng, Đức Thuận, Đức La,... đã được chuyển lên khai hoang ở một số xã của Hương Khê, như: Hương Quang, Hương Điền, Hương Giang và xen cư ở Hương Bình, Phúc Đồng, Hoà Hải,... Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, Nhân dân các địa phương đón tiếp chu đáo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho số đồng bào lên sinh cơ lập nghiệp ổn định, lâu dài tại huyện. Người dân Đức Thọ với phẩm chất thông minh, cần cù, trọng nghĩa, tính cách mạnh mẽ, thích ứng nhanh với cuộc sống mới đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội cho Hương Khê trong những giai đoạn tiếp theo.
Đồng thời với việc tiếp nhận dân cư ở Đức Thọ lên xây dựng vùng kinh tế mới, Huyện ủy cũng chỉ đạo chuyển hơn 100 hộ dân của các xã Hương Thanh, Hương Thái, Hương Tân, Hương Thuỷ... bị địch đánh phá ác liệt, khó khăn đến lập nghiệp ở các xã Hương Bình, Hoà Hải, Hương Giang… để đảm bảo an toàn và có điều kiện thuận lợi hơn trong sản xuất. Đây là sáng tạo của Hương Khê, vừa có ý nghĩa về kinh tế, quy hoạch lại dân cư, củng cố quan hệ sản xuất tập thể, vừa có tác dụng quan trọng trong xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể Nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng trên các địa bàn.
Chiến tranh càng ác liệt, sản xuất, đời sống của Nhân dân Hương Khê càng khó khăn. Để bảo đảm ổn định tình hình hậu phương, kết hợp huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân, tránh các tiêu cực trong ăn chia phân phối của các hợp tác xã, ngày 28/4/1967, Huyện ủy họp bàn về chế độ phân phối trong các hợp tác xã. Tiêu chuẩn được huyện ấn định là: loại lao động giỏi mức lương thực hàng ngày là 1,2 kg, loại trong độ tuổi lao động là 1,0 kg, loại 10 đến 15 tuổi là 0,8 kg, loại 5 đến 9 tuổi là 0,6 kg, loại dưới 4 tuổi là 0,4 kg. Quỹ dân quân của 11 xã biên giới là 3 tấn. Chủ trương của huyện đã đáp ứng yêu cầu thực tế của hoàn cảnh thời chiến, động viên quân, dân Hương Khê kiên trì đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu, công tác, học tập và làm nhiệm vụ hậu phương.
Tháng 3/1967, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ XIII tại xã Hương Bình với sự tham dự của 171 đại biểu. Đại hội chủ trương tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện cuộc chiến tranh Nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ra sức duy trì sản xuất, công tác, học tập trong mọi tình huống. Kiên quyết bảo đảm giao thông vận tải. Động viên sức người, sức của chi viện tiền tuyến. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể Nhân dân. Bảo đảm cuộc sống về mọi mặt cho Nhân dân. Giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ vững chắc địa bàn...
Ban Chấp hành Đảng bộ mới do Đại hội bầu ra có 25 ủy viên, do đồng chí Đặng Tỵ, Tỉnh ủy viên, giữ chức Bí thư Huyện ủy; đồng chí Trần Khoa, Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng; đồng chí Lê Hữu Kính làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện; đồng chí Phan Văn Đệ, Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban. Thường vụ còn có các đồng chí Võ Lan, Nguyễn Văn Miên, Nguyễn Đình Dưỡng, Phạm Triện.
Mặc dù diện tích có bị thu hẹp do một số ruộng đất vùng trọng điểm sản xuất khó khăn, nhiều ruộng đồng bị bom Mỹ đánh phá, các công trình thủy lợi bị hư hại, song nhìn chung phong trào sản xuất nông nghiệp của Hương Khê vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đảng bộ đã chỉ đạo nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất trong nông dân tập thể. Các hợp tác xã đều có phong trào cải tạo đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa. Những cánh đồng có nhiều đồi gò, cây cối được san sửa, quy hoạch lại với đường đi, lối lại thẳng tắp. Cấy lúa thẳng hàng “chăng dây” được xã viên thực hiện phổ biến. Các giống lúa mới như: Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8, Chân châu lùn,... được đưa vào đại trà cho năng suất, sản lượng cao hơn giống lúa cũ. Thanh niên đi đầu trong việc làm ruộng cao sản, ruộng dân quân, giống mới. Các đội chuyên hình thành. Thế độc canh được phá bỏ để thực hiện nhiều loại cây trồng vật nuôi, chú trọng cả lúa và hoa màu. Việc làm bèo hoa dâu, phân xanh, phân bùn, cải tạo đất được đẩy mạnh. Một số nơi còn đưa máy cày vào cày bừa mở rộng diện tích, bảo đảm mùa vụ.
Thực hiện chủ trương cải tiến quản lý hợp tác xã, Đảng bộ đã có các lớp tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã và đội sản xuất. Những lúc cần thiết, học sinh cấp III được huy động phục vụ sản xuất lúc mùa vụ và sau khi tốt nghiệp đã về sản xuất tại hợp tác xã.
Nghề làm vôi được chú trọng, có Xí nghiệp vôi đá Chủ Lực. Thời kỳ 1965-1967, toàn huyện có 40 lò vôi, mỗi năm sản xuất được trên 1.000 tấn phục vụ nông nghiệp và xây dựng.
Đến 01/9/1968, ở 37 xã có 79 hợp tác xã với 13.732 hộ xã viên, trong đó công giáo có 2.543 hộ. Nhân khẩu toàn huyện có 63.986 người, trong đó loại mất sức lao động là 1.069[74] người.
Toàn huyện vẫn còn 567 hộ chưa vào hợp tác xã[75] (Hương Trạch: 11, Hương Lĩnh: 3, Hương Đô: 29, Hương Liên: 7, Hương Mai: 9, Phú Phong: 11, Hương Thịnh: 37, Hương Giang: 9, Hương Phúc: 2, Hương Lạc: 12, Hương Lâm: 43, Hương Lộc: 11, Hương Xuân: 32, Hương Phố: 19, Hương Thuỷ: 9, Hương Tân; 8, Hương Long: 28, Hương Vĩnh: 19, Hương Hoà: 7, Hương Đồng: 8, Hương Thanh: 30, Hương Mỹ: 31, Hương Trung: 7, Hương Quang: 3, Hương Điền: 0, Hương Phú: 23, Hương Bình: 40, Hương Hải: 27, Hương Châu: 0, Hương Thu: 33, Hương Nam: 1, Hương Minh: 2, Hương Đại: 1). Riêng Phúc Đồng, số đảng viên bị khai trừ do không vào hợp tác xã là 31 người.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do địch đánh phá ác liệt nên diện tích gieo trồng của Hương Khê thời kỳ 1965 - 1968 không tăng mà có phần giảm sút.
Việc bảo đảm hàng để dân tiêu dùng được, huyện chỉ đạo ngành thương nghiệp, vật tư cố gắng đến mức cao nhất. Các hợp tác xã mua bán huyện, xã được thành lập và củng cố. Hàng hóa tuy khan hiếm, song những thứ Nhân dân cần vẫn được bảo đảm như: các định lượng về vải, muối, giấy viết, cho đến thuốc lào, nước mắm,... Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp được xây dựng như: các lò rèn, lò gạch, lò vôi, các trạm cơ khí huyện và của ngành hỏa xa. Các mặt hàng của huyện khai thác như: mây, tre nứa, gỗ, lá nón, củ nâu,... được bán cho các địa phương khác.
Hương Khê càng ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với cuộc kháng chiến của dân tộc, trở thành một vùng căn cứ địa, hậu phương đầu cầu của tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn. Bộ Tư lệnh tiền phương Đường 559, đường Trường Sơn đóng chỉ huy sở tại vùng Tây Nam của huyện. Sự hoạt động ngày càng náo nhiệt, liên tục của tuyến đường chiến lược qua Hương Khê đã khiến kẻ địch phải ra sức ngăn chặn, nhất là trong thời gian “ném bom hạn chế”, từ tháng 4 đến tháng 11/1968. Vì vậy, cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải ở Hương Khê cũng diễn ra ngày một gay go, quyết liệt, suốt ngày đêm. Cấp trên đã tăng cường hàng ngàn dân công, Thanh niên xung phong, công nhân cầu đường cho Hương Khê. Đội cầu Trần Quốc Bình đã bám tuyến đường sắt, bắc đi, bắc lại các cầu Cửa Rào, Thanh Luyện, Lộc Yên... Bộ đội công binh sửa chữa các cầu đường bộ, duy trì hoạt động của phà Địa Lợi. Hàng ngàn Thanh niên xung phong các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hoá, Hà Nội, Nam Hà... ngày đêm làm đường, bốc dỡ hàng hoá lên xuống ở các bến sông, bến goòng.
Sông Ngàn Sâu trở thành tuyến vận tải quan trọng đưa bộ đội, hàng hoá từ Đức Thọ lên Hương Khê để chuyển tiếp vào chiến trường. Ngã ba sông chợ Trúc là điểm đón hàng chủ yếu để đưa lên goòng chuyển vào Quảng Bình. Đường Truông Đao, Truông Vắt là tuyến bộ đội hành quân từ Đức Thọ, Can Lộc lên Hương Khê an toàn và ngắn nhất để vào tiền tuyến.
Thời điểm Ngã ba Đồng Lộc bị bom Mỹ ngày đêm đánh phá liên tục hòng cắt đứt con đường tiếp viện vào chiến trường miền Nam bằng đường bộ của ta, Hà Tĩnh thành lập nhiều đại đội xe thồ ở các huyện để vận chuyển hàng hóa từ phía bắc Cầu Bùng (huyện Diễn Châu - Nghệ An) theo các trục đường giao liên vượt qua Đồng Lộc đưa hàng ra tiền tuyến. Huyện Hương Khê đã thành lập một đại đội xe thồ gồm 3 trung đội với 150 người, do một đồng chí ủy viên Ủy ban nhân dân huyện làm trưởng ban, trực tiếp đưa người ra tận Ga Si (tại Ngã ba Cầu Bùng - Diễn Châu) nhận xe và hàng chuyển về huyện giao cho quân đội để chuyển ra chiến trường. Ngoài ra, huyện đã thành lập đại đội chủ lực giao thông trên 400 người, trong đó có một trung đội phụ trách phà Địa Lợi (phối hợp với công binh của Đoàn 559) và một đội cầu, nhiệm vụ chủ yếu là tu sửa và bắc lại các cầu bị đánh hỏng. Nhiệm vụ của đại đội chủ lực giao thông Hương Khê là đảm bảo tuyến đường 15A từ km21 (cầu Khe Thờ nay) vào đến tận cầu Tân Đức (giáp Quảng Bình). Trọng điểm của đại đội là đảm bảo giao thông ở các điểm địch đánh phá ác liệt nhất như: phà Địa Lợi, ngầm Lộc Yên, ngầm Khe Ác, cầu Bãi Cháy, ngầm La Khê. Khi có khối lượng lớn cần phải lấp hố bom mà đại đội chủ lực không làm kịp thì huy động lực lượng dân quân tự vệ cùng làm.
Bộ đội phòng không của tỉnh, của Quân khu, của Bộ đã cùng dân quân, tự vệ địa phương liên tục đánh máy bay địch để bảo vệ các trọng điểm giao thông qua Hương Khê. Nhiều trận chiến đấu quyết liệt, bắn cháy máy bay địch đã diễn ra cả ban ngày và ban đêm ở vùng bến phà Địa Lợi, doanh trại quân đội ở Hương Thu, Hương Hà, ở cầu Thanh Luyện, cầu Ba mươi thước, Chu Lễ, Lộc Yên, Phúc Trạch, Phú Lễ, Nông trường 20-4... Khẩu hiệu “xẻ núi mở đường”, “xe chưa qua nhà không tiếc”, “địch phá một thì ta làm mười”...thực sự là hành động trực tiếp, thường xuyên của quân dân Hương Khê.
Các tết Quang Trung 1966, 1967, 1968 (tên gọi các chiến dịch làm giao thông vận tải khi địch tạm ngừng ném bom) đều được Nhân dân Hương Khê tích cực tham gia, đóng góp hàng vạn ngày công. Với những cố gắng đó, nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trong thời kỳ đánh phá lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968) luôn luôn được quân dân Hương Khê hoàn thành xuất sắc.
Thiệt hại về người và của do đế quốc Mỹ gây ra cho Hương Khê thời kỳ 1965 - 1968 rất lớn và nặng nề. Riêng về sinh mạng Nhân dân có 477 người bị chết vì bom đạn của Mỹ, trong đó năm 1966 là 142 người, 1967 là 52 người, năm 1968 là 283 người, gồm 257 nam, 220 nữ; số bị thương là 653 người, trong đó năm 1965 - 1966 là 142 người, năm 1967 là 96 người, năm 1968 là 415 người. Tính từ tháng 4 đến tháng 11/1968, địch đã ném bom hạn chế làm 368 người bị thương trong tổng số 415 người bị thương cả năm 1968. Thiệt hại 331 con trâu, 295 con bò; phá hỏng 254,9 ha lúa, bằng 1.581 tấn; 73,6 ha màu, bằng 2.142 tấn; 8,9 ha lạc, bằng 24,4 tấn, 86 ha sắn, bằng 2.609,8 tấn, 146 ha ngô, bằng 734 tấn; phá 30 cái nhà kho, 1.093 cái nhà ở...
Nhìn chung, đến cuối năm 1968, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện giành được những thắng lợi lớn. Thành công trước hết là Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo đưa mọi hoạt động của huyện đi vào thế trận của chiến tranh Nhân dân, vững vàng đối phó với mọi tình huống, hoàn thành mọi nhiệm vụ của một huyện tuyến đầu của tỉnh, tuyến đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc. Đảng bộ đã lãnh đạo chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến, tăng cường tiềm lực quốc phòng, thực hiện vừa sản xuất, vừa chiến đấu và làm nhiệm vụ hậu phương.
Trong lãnh đạo kinh tế, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đưa hợp tác xã nông nghiệp lên bậc cao, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chú ý thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, ra sức khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện cách mạng kỹ thuật, lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính để phát triển nông nghiệp.
Qua 4 năm chiến tranh, hợp tác xã tiếp tục khẳng định vai trò của mình, đứng vững và phát triển, thật sự là hình mẫu cho mô hình kinh tế thời chiến, bảo đảm các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, điều mà kinh tế cá thể không thể thực hiện được. Các hợp tác xã đã thực hiện tốt nhất khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu 1 người”, lớp lớp thanh niên nông thôn đã vào quân đội, Thanh niên xung phong, hàng ngàn lao động xã viên phục vụ nhiệm vụ quốc phòng tại chỗ, trung tuyến, hoả tuyến.
Tỷ lệ hộ nông dân đã vào hợp tác xã đạt 96,1% (năm 1965), lên 97,2% (năm 1968). Toàn huyện có 100% hợp tác xã bậc cao. Số hợp tác xã năm 1965 là 95, năm 1968 là 76, trong đó có 11 hợp tác xã toàn thôn. Về quy mô số hộ dân, năm 1965 bình quân có 130 hộ, năm 1968 tăng lên 171 hộ. Diện tích bình quân mỗi hợp tác xã năm 1965 là 91 ha, năm 1968 là 107 ha. Hệ thống kho tàng, sân bãi, lò ủ từng bước được củng cố, nâng cấp và xây dựng mới. Đã có một số hợp tác xã có sân phơi bằng xi măng như: Bình Minh, Hương Mai, Phú Xuân, có hố xí hai ngăn bằng xi măng như: Hương Lạc, Bình Minh, Hương Mai, Thượng Hải, Hương Phố.
Nét nổi bật thời kỳ này là thâm canh lúa và cây màu đạt kết quả lớn. Đây là thời kỳ đưa giống lúa mới vào sản xuất đại trà ở Hương Khê. Với quy trình kỹ thuật phức tạp, huyện phân công cán bộ về từng hợp tác xã bám sát ngày đêm xây lò thúc mầm theo phương pháp 2 sôi 3 lạnh. Do đó, diện tích gieo trồng giống mới được mở rộng và cho năng suất cao. Công nghệ trồng khoai theo cách làm của Cẩm Xuyên để nâng cao năng suất, sản lượng được thực hiện. Phong trào trồng sắn đồi, sắn bãi, nhà nhà trồng sắn, người người trồng sắn, đâu đâu cũng thấy màu xanh bạt ngàn của sắn. Đây cũng là thời kỳ thực sự sôi nổi của việc làm bèo dâu phủ kín ruộng lúa, đã xuất hiện nhiều kiện tướng trong các phong trào tiến quân vào thâm canh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Lần đầu tiên trên đất Hương Khê các loại rau màu, thực phẩm, rau xanh cao cấp như: bắp cải, su hào đã có chỗ đứng chân cùng các tổ đội trồng rau ở nhiều nơi phục vụ đời sống xã viên và nhiệm vụ quốc phòng cho quân đội. Năng suất lúa cũng có tăng ở nhiều hợp tác xã, nhất là những nơi đưa giống mới vào. Các loại cây công nghiệp mía, lạc, vừng giữ vững kế hoạch và có tăng vừa phải, dâu tằm các năm 1966 - 1967 vẫn duy trì 15 ha dâu bãi ven sông.
Về chăn nuôi, mặc dù bị địch đánh phá ác liệt cũng như thói quen chăn thả, thiếu chăm sóc, song các trại nuôi trâu, bò tập thể vẫn tiếp tục phát triển, phục vụ yêu cầu nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước, cho quốc phòng. Năm 1965, huyện có 13 trại, 610 con; năm 1968 có 18 trại, 763 con. Một số trại quy mô như: Hương Lĩnh, Hương Điền, Hương Luyện phát triển khá. Tổng đàn lợn phát triển đáp ứng yêu cầu làm nghĩa vụ thực phẩm hàng năm. Năm 1965, chăn nuôi lợn ở gia đình có 11.456 con, trong đó nái là 846 con. Năm 1968, có 12.823 con, trong đó nái là 2.108 con. Chăn nuôi lợn tập thể vẫn duy trì và phát triển mạnh. Năm 1965, có 8 trại, 120 con. Năm 1968, có 16 trại, 320 con.
Công tác phát triển ngành nghề gắn với phân công lại lao động trong hợp tác xã được chú trọng. Theo phương hướng Nghị quyết Đại hội năm 1965 - 1967, Đảng bộ đã tổ chức nhiều ngành nghề nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất, nông sản hàng hoá phục vụ công nghiệp, nâng cao đời sống cho Nhân dân. Có 41 hợp tác xã tổ chức thành công việc ươm cây giống, trong mấy năm chiến tranh đã trồng mới 2.159.000 cây lưu niên, nhiều hợp tác xã có thu nhập khá về ươm trồng cây như: Bình Minh, Hương Mai, Hương Lĩnh, Hương Châu. Có 12 hợp tác xã đã tổ chức 12 đội Sơn Tràng thu hút 222 lao động. Khai thác trong 4 năm được 28.980 m3 gỗ, 1.140 tấn than củi, cùng hàng triệu cây nứa, mây, giang, cùng các lâm sản khác phục vụ yêu cầu quốc phòng và xây dựng trên địa bàn tỉnh. Có 15 hợp tác xã tổ chức được 44 lò vôi, sản xuất được 3.329 tấn vôi để cải tạo đất và xây dựng cơ bản. Thành lập 14 tổ rèn, 12 tổ mộc, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa công cụ sản xuất trên cả hai ngành. Các nghề phụ khác như: làm nón, đan lát, thu gom lâm sản đã huy động được hàng ngàn lao động nông nhàn.
Với phương châm lấy thuỷ lợi làm phương hướng chính, kết hợp đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật, công tác xây dựng cơ sở vật chất trong hợp tác xã được Đảng bộ chú trọng. Trong hoàn cảnh khó khăn đủ cả thiên tai, địch hoạ, suốt 4 năm Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân tích cực xây dựng, sửa chữa, khai thác sử dụng 265 hồ, đập lớn, nhỏ trên địa bàn huyện. Đào đắp 208 con mương dẫn nước dài 89.929m. Đắp 197 đường bờ vùng, nhiều đường bờ ô, bờ thửa, san ủi 1.021 ha. Đồng tiêu chuẩn cấp 2 có 575 ha, đồng tiêu chuẩn cấp 3 có 346 ha. Đã đầu tư lao động sống với 2.950.100 ngày công, đào đắp 2.359.786 m3 đất đá, gấp 2 lần so với trước chiến tranh cộng lại.
Hiệu quả của công tác thuỷ lợi rất to lớn. Đến năm 1968, huyện đã đảm bảo tưới nước cho 3.230 ha lúa vụ chiêm, 3.140 ha lúa vụ mùa. Nhiều hợp tác xã đã chủ động được nước tưới hai vụ như: Hương Vĩnh, Hương Minh, Thống Nhất, Hương Hoà, Hương Luyện, Hương Hải, Hương Bình, Hương Thuỷ, Hương Phố, Hương Mai, Hương Lĩnh, Hương Lạc. Toàn huyện đã được đầu tư 34 máy bơm dầu, 23 máy công tác, 6 máy tuốt lúa, 17 máy xay xát tạo thành nhiều điểm cơ khí trong hợp tác xã gắn với các xưởng rèn, mộc, tạo nên những nét biến đổi lớn trong nông nghiệp và nông thôn. Trong 10 năm (1958 - 1968) về thuỷ lợi, Hương Khê đã đào đắp 4.619.572 m3đất đá, chưa kể các công trình trung thuỷ nông Nhà nước làm bằng cơ giới.
Mặc dù nhiều nơi bị địch đánh đi đánh lại, song với khẩu hiệu “địch đánh ta sửa ta đi”, sau đó là khẩu hiệu “địch đánh ta cứ đi”, phong trào làm giao thông phát triển mạnh. Hương Khê đã làm được 222 km đường liên huyện, liên xã, 276 km đường liên xã - hợp tác xã, 248 km đường vùng, đường khoảnh, về phương tiện vận chuyển, giải phóng sức lao động trong những năm 1965 - 1968 đã phát triển 2.929 xe các loại, nhiều xã và hợp tác xã cơ bản giải phóng đôi vai trong nông nghiệp, thay bằng công cụ cải tiến. Đây là một bước tiến đáng kể trong lộ trình cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, giải phóng sức lao động. Nhờ các yếu tố đó nên huyện có điều kiện rút một số lượng lao động lớn ngành nông nghiệp đi bộ đội, dân công và cho nhiệm vụ xây dựng các công nông trường, xí nghiệp của Nhà nước.
Với hàng triệu ngày công, hàng triệu mét khối đất, đá đào đắp, hàng trăm hồ, đập lớn, nhỏ, hàng trăm kilômét đường mới các loại, hàng chục đội ngành nghề đốt vôi, sơn tràng, trồng cây cùng với hàng ngàn thanh niên lên đường đánh giặc, hàng ngàn dân công trung hoả tuyến đã nói lên sức vóc to lớn của hợp tác xã nông nghiệp trên quê hương ta dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ. Có thể nói, không có hợp tác xã nông nghiệp, người nông dân không thể làm được những gì như đã làm ở thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có bước tiến mới. Huyện đã đào tạo được 991 cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp, từ đội trưởng trở lên, trong đó có 97 cán bộ được đào tạo ở tỉnh trong thời gian 2 - 3 tháng.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật được gửi đào tạo ở tỉnh có 291 người, trong đó 127 người đạt trình độ trung cấp. Qua hai lần cải tiến quản lý trong hợp tác xã, nhất là theo Nghị quyết 22 Tỉnh ủy, mặc dù đã chi viện cho quốc phòng trên 4.600 người, nhưng nhìn chung mọi hoạt động sản xuất, chiến đấu, bảo đảm trị an tại chỗ, các mặt văn hoá, xã hội vẫn đảm bảo các yêu cầu đặt ra. Toàn huyện có 544 đội sản xuất, bình quân mỗi đội có 24 hộ, 43,7 lao động.
Năm 1966, huyện có 47 hợp tác xã lập được kế hoạch tài vụ, công tác huy động sử dụng vốn có nhiều tiến bộ. Tổng dư nợ hợp tác xã năm 1968 so với năm 1965 tăng 34.466 đồng, bình quân mỗi hợp tác xã tăng 1.496 đồng. Thực hiện việc phân phối theo giá trị lao động và phân phối theo định suất một cách rộng rãi nhằm bảo đảm yêu cầu cơ bản đời sống thời chiến, vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm yêu cầu của thời chiến, bảo đảm chính sách hậu phương quân đội.
Đảng bộ cũng đã chú ý lãnh đạo việc hoàn thành các chỉ tiêu nghĩa vụ đối với Nhà nước về lương thực, thực phẩm, nông sản hàng hoá. Các năm 1965 – 1966, huyện vượt chỉ tiêu một số mặt và đã chỉ đạo dành 2% sản lượng lúa và ngô, 30 - 50% màu cho chăn nuôi. Đây là một cố gắng lớn, do đó nên 2 năm 1966 - 1967 đàn trâu bò, đàn lợn phát triển mạnh.
Sang năm 1968, địch đánh phá ác liệt suốt ngày đêm nên nhiều ngành nghề không phát triển được, nhiều cơ sở sản xuất bị phá hoại. Diện tích lúa năm 1968 hụt so với năm 1965 là 7%, năm 1965 có 13.685 ha, năm 1968 giảm xuống còn 12.548 ha, đã dẫn đến sản lượng hụt 30%. Cây công nghiệp phát triển chậm, lạc hàng năm chỉ đạt 49% diện tích theo kế hoạch. Nhu cầu lương thực trên địa bàn chưa đáp ứng được, trong 2 năm 1966 - 1967 phải xin cân đối 2.300 tấn.
Đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng nhưng nhìn chung vẫn còn bất cập với yêu cầu thực tiễn, thiếu cán bộ quản lý giỏi lại thường xuyên phải thay đổi; công tác quản lý hợp tác xã còn gặp khó khăn. Việc quản lý ruộng đất thực hiện còn lỏng lẻo, một số diện tích nhỏ lẻ, vùng xa, nơi địch đánh phá ác liệt bị bỏ hoang. Năm 1967, toàn huyện sụt 1.763 ha gieo trồng, trong đó có 143,3 ha ruộng chuyên canh. Công tác khoán còn lỏng lẻo, nhiều nơi có tình trạng rong công phóng điểm, công ngoại khoán nhiều hơn công nội khoán, làm ảnh hưởng đến tâm lý xã viên trong xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Giá trị thu nhập của xã viên qua ngày công thấp, nhiều nơi chỉ đạt 207 - 231 ngày lao động/năm. Thời gian lao động không bảo đảm, có khi chỉ đạt 4 - 5 giờ lao động/ngày. Có nơi ngày chỉ làm 1 buổi, thời gian còn lại để xã viên tự chạy ngoài. Công tác nhà trẻ, phúc lợi nhiều bất cập, cả huyện chỉ có 67 tổ trông trẻ, đảm bảo 10% nhu cầu nên phần lớn chị em có con nhỏ ngày công đóng góp cho hợp tác xã hạn chế. Việc quản lý chi phí sản xuất chưa hợp lý, khoán chi phí giống, phân bón bình quân, vì thế có nơi thừa phân, thừa giống, gây lãng phí, cũng có nơi phân không bón cho ruộng nhưng vẫn được thanh toán theo kế hoạch. Có lao động làm 1 ngày được 4 - 5 công, lại có lao động làm 1 ngày chỉ được tính 7 - 8 điểm, làm cho xã viên thiếu tích cực sản xuất. Công tác quản lý tài vụ nhiều bất cập, dẫn đến thất thoát, lãng phí, nhiều nơi hàng năm không lên được phương án ăn chia phân phối. Ở hợp tác xã Thống Nhất (Hương Lộc), có cá nhân tham ô 3.372 đồng, xã viên nợ hợp tác xã 7.252 đồng; ở Hương Thanh chi phí cho ăn uống tới 370kg gạo và các khoản thực phẩm đi kèm, xã viên nợ hợp tác xã 19.000 đồng; ở Long Giang, Phúc Đồng, xã viên nợ hợp tác xã 10.800 đồng, chi tiêu cho ăn uống tới 1.500 đồng; ở Tân Trung, riêng năm 1968 chi tiền ngoài kế hoạch 1.500 đồng. Những hạn chế trên đã làm cho xã viên thiếu phấn khởi trong lao động sản xuất, thiếu sự tận tâm vì hợp tác xã, có nơi nảy sinh mâu thuẫn giữa cán bộ quản lý với xã viên. Kinh tế tập thể chỉ bảo đảm khoảng 50% yêu cầu của đời sống Nhân dân, có nơi rất thấp như Thống Nhất (Hoà Hải) chỉ chiếm 32%, Bình Phúc (Hương Bình) 30%, Hương Lĩnh 32%.
Tóm lại, trong bốn năm chống chiến tranh phá hoại ác liệt của địch, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ hậu phương, đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, phát triển văn hoá, giáo dục. Tuy nhiên, về kinh tế, đời sống, đây cũng là thời kỳ Hương Khê gặp nhiều khó khăn, sản lượng lương thực sụt giảm, hiện tượng tiêu cực nảy sinh, hợp tác xã bị biến dạng, những vấn đề đó đã làm mất dần động lực của sự phát triển.
II. LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ, CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN GIÀNH TOÀN THẮNG (1969 - 1975)
Bị thua đau trên cả hai miền Nam - Bắc của nước ta, từ ngày 01/11/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc. Vì vậy, Hương Khê lại có thời gian hòa bình để khẩn trương chuyển sang khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển lực lượng về mọi mặt, tiếp tục chi viện tiền tuyến.
Cùng với các lực lượng chuyên trách của cấp trên chi viện, quân dân Hương Khê đã khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trước hết là về giao thông vận tải. Chiến dịch VT5 (vận tải tranh thủ tụt thang)[76] được Đảng bộ lãnh đạo quân dân ngày đêm thực hiện. Mọi lực lượng có thể huy động được đều tiến ra mặt đường làm giao thông, vận chuyển hàng hoá. Đường 15A, đường sông Ngàn Sâu, đường sắt được khẩn trương thông suốt. Cán bộ, Nhân dân bằng các ca kíp luân phiên nhau đi đắp đường, bốc vác hàng hoá, chạy xe, goòng, xe đạp thồ để vận chuyển hàng hoá ứ đọng, dồn vào chiến trường. Đường ra trận thông suốt, nhộn nhịp trên mọi tuyến và chuyển dần sang hoạt động ban ngày.
Cùng với công tác giao thông vận tải, hoạt động củng cố cơ quan, xí nghiệp, trường sở, bệnh viện cũng được Đảng bộ tập trung chỉ đạo, được cán bộ, Nhân dân phấn khởi, khẩn trương tiến hành. Phong trào “ba mũi tiến công”: giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác và đào đắp thuỷ lợi nội đồng được các hợp tác xã và toàn dân tham gia. Được sự chi viện của bộ đội công binh, từ kinh nghiệm ở Đập Làng (Hương Thuỷ), phong trào toàn dân phát hiện, rà phá bom nổ chậm, bom từ trường được dân quân, tự vệ thực hiện bằng mọi phương tiện sẵn có. Việc thu gom bom đạn vương vãi được tiến hành khắp các nơi trong huyện. Ruộng đất bị bom đạn phá hoại được san lấp, phục hoá mở rộng diện tích canh tác, nhất là vùng dọc đường giao thông, các trọng điểm đánh phá của địch. Các công trình thuỷ lợi được sửa sang, việc làm phân bón được chú trọng. Các hợp tác xã đã hướng mạnh vào phát triển hoa màu, khôi phục đàn trâu bò, làm cho sản lượng lương thực, thực phẩm được duy trì. Các vùng có đồng bào dân tộc sinh sống được quan tâm, giúp đỡ góp phần cải thiện đời sống vật chất, nâng cao đời sống văn hóa.
Nhằm kịp thời biểu dương, động viên quân dân toàn huyện bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ chủ trương mở cuộc “Báo công, bình công”, tổng kết phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước trong tất cả các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở các cuộc báo công, bình công ở cơ sở, tháng 01/1969, tại Hương Xuân, Đại hội Công Nông Binh toàn huyện được khai mạc, với nhiều đại biểu xuất sắc của các ngành, các lĩnh vực tham dự. Đại hội long trọng tuyên dương thành tích sản xuất, chiến đấu, công tác, học tập của quân dân Hương Khê trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại 1965 - 1968, đồng thời phát động phong trào khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, ra sức xây dựng tiềm lực mọi mặt, tiếp tục chi viện quân dân miền Nam chiến đấu giành thắng lợi cuối cùng, Tết năm 1969, tết hoà bình sau bốn năm chiến tranh được Nhân dân Hương Khê chào đón trong niềm vui háo hức, được nghe Thơ chúc mừng năm mới của Bác Hồ, quyết tâm thực hiện Chỉ thị của Người “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”.
Trên cơ sở kinh tế, văn hoá ngày càng ổn định và phát triển, hệ thống chính trị Hương Khê được củng cố. Bộ máy chính quyền các cấp được chấn chỉnh qua cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân (tháng 4/1969). Công tác quản lý vật tư, chống tham ô, lãng phí, lấy cắp của công, đầu cơ buôn lậu được tiến hành. Phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, học tập, đón nhận Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức rầm rộ. Theo sự chỉ đạo chung, các hợp tác xã đã mở rộng dần quy mô, thành hợp tác xã cấp xã.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng và toàn dân ta. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân Hương Khê đã biến đau thương thành hành động cách mạng trên tất cả các lĩnh vực, nêu cao khẩu hiệu “ Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại ”. Nhờ đó đã tạo nên một phong trào thi đua sôi nổi trên nhiều lĩnh vực trong toàn huyện và đạt được kết quả cao nhất là trong lĩnh vực sản xuất. Đến cuối năm 1969, cơ bản kinh tế nông nghiệp Hương Khê được khôi phục và có bước phát triển. Diện tích ruộng đất có 17.145,6 ha, trong đó có 14.763,9 ha được tổ chức canh tác ổn định. Trâu bò có 16.547 con, trong đó có 11.200 con cày kéo. Ngoại trừ một số diện tích thuộc đất 5% và trâu bò của hộ xã viên, một số cơ quan, đơn vị thì phần lớn ruộng đất, trâu bò thuộc các hợp tác xã quản lý. Ruộng đất của các hợp tác xã có 14.587,8 ha, trong đó đất canh tác là 14.489,4 ha, đã tập thể hóa được 13.956,7 ha. Đàn trâu bò có 12.448 con. Đất mới khai hoang được 2.764 ha. Công cụ sản xuất có 10.255 cày cải tiến, 11.600 bừa (có 2.752 bừa sắt), 196 xe ba gác, 23 quạt lúa, 418 trục lúa, 61 xe đạp nước, 1.866 nhà kho, 49 lò vôi, 43 bể ngâm ủ giống.
Ngày 19/12/1969, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ XIV tại Hương Bình. Nhiệm vụ trọng tâm về kinh tế được Đại hội xác định vẫn là xây dựng, củng cố hợp tác xã, phát triển nông nghiệp.
Đại hội chủ trương phải học tập đầy đủ hơn Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp nhằm tăng cường quan hệ sản xuất ở nông thôn. Các xã phải tổ chức tổng kết phong trào hợp tác xã 10 năm để tạo ra thế và lực mới nhằm phát triển kinh tế, xây dựng hợp tác xã, xử lý ngay những trường hợp vi phạm quản lý kinh tế, xâm lấn ruộng đất, thu hồi đất bị thất thoát dưới mọi hình thức, phục hồi hết diện tích đã bị bỏ hoang. Về Ba khoán cần xem xét lại chế độ lao động trong từng ngành, coi trọng thưởng và phạt, phải xây dựng các kế hoạch sản xuất, kế hoạch lao động, thực hiện khoán, giao khoán định mức lao động, xếp bậc công việc, xây dựng tiêu chuẩn để tính công. Chấn chỉnh ngay tình trạng buông lỏng trong sản xuất màu, từ Đông Xuân 1969 - 1970, hợp tác xã phải thu sản lượng trên cơ sở hợp tác xã giao cố định cho đội, đội giao tạm thời cho nhóm, không khoán trôi, khoán trắng.
Công tác tài vụ cần có thái độ đúng đắn trong xem xét đánh giá tài sản hợp tác xã. Hợp tác xã phải thống nhất kinh doanh, thống nhất phân phối. Đội sản xuất không được tự tổ chức ăn chia phân phối một loại sản phẩm nào. Phải kiểm kê tài sản, hạch toán lỗ, lãi trong hợp tác xã nông nghiệp. Thu hồi tài sản nợ nần cả phần tham ô, chiếm dụng. Chấm dứt việc liên hoan ăn uống sai chế độ, biếu xén làm ảnh hưởng kinh tế tập thể, mất dân chủ với xã viên. Thực hiện hình thức ăn chia phân phối từng vụ, từng năm.
Huyện ủy nhiệm kỳ 1969 - 1971 có 21 ủy viên, đồng chí Đặng Tỵ - Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Đinh Duyệt, ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng ủy; đồng chí Lê Hữu Kính làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí: Trần Khoa, Phan Văn Đệ, Nguyễn Thị Liễu; các ủy viên Ban Thường vụ khác bao gồm: Phan Xuân Bằng, Đặng Đình Lai, Nguyễn Văn Miên.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, tình hình kinh tế - xã hội Hương Khê những năm 1970 - 1971 tiếp tục phát triển về nhiều mặt, tạo được tiềm lực mới cho huyện. Các đợt tuyển bộ đội, tuyển Thanh niên xung phong liên tục đạt và vượt chỉ tiêu. Hàng ngàn con em Hương Khê đã hăng hái lên đường nhập ngũ, đi Thanh niên xung phong, đi dân công hoả tuyến ở Trị Thiên, Lào. Đồng bào Công giáo cũng đã tích cực tham gia các hoạt động chung nhiều hơn trước, tích cực thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Các cơ quan của huyện vẫn tiếp tục đóng tại các địa điểm sơ tán ở Hương Bình, Hương Long, song đã chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng phù hợp với điều kiện mới, có hoà bình. Các phong trào như: học tập, làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện phát triển đảng viên lớp Hồ Chí Minh, chào đón các ngày lễ lớn năm 1970 như: 40 năm thành lập Đảng, 80 năm sinh nhật Bác, 25 năm Quốc khánh, 100 năm sinh V.I.Lênin được cán bộ, đảng viên, quân dân toàn huyện sôi nổi tham gia. Vụ chiêm năm 1971, cùng với các huyện trong tỉnh, Hương Khê giành được thắng lợi lớn trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều hàng hoá thiết yếu cho Nhân dân được cung cấp khá ổn định. Nghề rừng có nhiều tiến bộ.
Điểm nổi bật được Đảng bộ Hương Khê lãnh đạo thực hiện thời kỳ này là công tác thuỷ lợi. Huyện vừa đẩy mạnh tu bổ, nâng cấp các công trình đã có, vừa làm thêm các công trình mới như: Khe Hồ (Hương Trạch), Hà Thông (Hương Xuân), đập Làng (Hương Phú), Khe Chồn (Hương Bình), Khe Nác, Khe Nậy (Hương Hoà), Khe Voi (Hương Tân), Bàu Tép (Hương Thịnh), đập Thia (Hương Thái), đập Đá Nhám (Hương Thọ), đập Bàu Nậy (Hương Thanh), Cây Chanh (Hương Phúc), đập Úc (Hương Vĩnh), Bình Định (Hương Long), đập Bản (Hương Hải), Làng Vàng, Ông Đọn (Hương Đồng), đập Làng (Hương Thuỷ), đập Đồi Cỏ (Hương Trung), đập Cây Ươi (Hương Đại), Khe Soong (Hương Lạc)...
Từ năm 1971, công tác thuỷ lợi có sự chuyển hướng, tập trung xây dựng các đập lớn, trung thuỷ nông trên cơ sở mở rộng, nâng cấp các đập tiểu thuỷ nông đã có từ trước và đắp mới. Các đội thuỷ lợi được thành lập và tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi, có nơi còn được hỗ trợ của các đội cơ giới - thuỷ lợi II của tỉnh. Nhiều xã đã nâng cấp đập cũ hoặc làm thêm công trình mới như: đập Làng (Hương Thuỷ), đập Cây Trồi (Phúc Trạch), đập Lũ (Gia Phố), đập Hội (Hương Phúc), đập Khe Trai (Hương Thanh), đập Hóp (Hà Linh), đập Khe Con (Hương Long), đập Khe Ngang (Hương Minh), đập Mưng (Thanh Luyện), đập Xóm (Long Giang), đập Quan, đập sông Tiêm (Hương Vĩnh),... Các công trình này đã phát huy tác dụng, phục vụ tưới, tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Hương Khê là huyện dẫn đầu tỉnh về phong trào làm thủy lợi thời kỳ này.
Công tác thể dục thể thao được đẩy mạnh. Lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ được chú trọng củng cố, phát triển. Hoạt động của các đoàn thể như: thanh niên, phụ nữ, phụ lão, thiếu niên tiếp tục sôi nổi. Tổ chức Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh và dân quân tự vệ thực sự là lực lượng nòng cốt trong mọi hoạt động sản xuất, công tác của các địa phương.
Ngày 16/10/1971, Đảng bộ Hương Khê đã tiến hành Đại hội lần thứ XV tại xã Hương Bình để kiểm điểm sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ địa phương và làm nhiệm vụ chi viện tiền tuyến những năm 1969 - 1971. Dự Đại hội có 95 đại biểu chính thức, 10 đại biểu là đảng viên lão thành, một số chủ trì cơ sở điển hình, đại biểu các ban, ngành cấp tỉnh do đồng chí Nguyễn Tiến Chương, Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu.
Về những thành tích và tiến bộ trong thời kỳ 1969 - 1971, Đại hội nhấn mạnh: Năm 1970 là năm đầu Hương Khê thực hiện nghị quyết của Đảng bộ Hà Tĩnh về phát triển kinh tế ba năm 1970 - 1972 trong bối cảnh có nhiều chuyển biến trên các chiến trường và phong trào địa phương có những mặt thuận lợi và khó khăn mới. Thuận lợi là có phong trào thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ, phong trào 3-9 tiếp tục được đẩy mạnh, các cuộc vận động xây dựng Đảng, sản xuất Đông Xuân, giao thông vận tải,... có tác dụng thúc đẩy các hoạt động của huyện ngày càng lên cao. Khó khăn là hậu quả chiến tranh nặng nề chưa khắc phục được là bao, dịch cúm đầu năm ảnh hưởng sức khỏe Nhân dân, cuối năm thời tiết khó khăn do lụt sớm làm hư hại mùa màng của 19 xã với 35 hợp tác xã, đội ngũ cán bộ cốt cán nhiều nơi không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ...
Trên cơ sở chủ trương của tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội ba năm 1970 - 1972, trên cơ sở thế mạnh của huyện là phát triển toàn diện nông nghiệp và rừng, năm 1970, Đảng bộ huyện vẫn tập trung vào sản xuất trọng điểm là lương thực để giải quyết nhu cầu cho Nhân dân và xuất khẩu để nhập hàng tiêu dùng. Kết quả cụ thể là:
Về chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, đã thực hiện tốt nhiệm vụ tuyển quân, bảo đảm đúng và vượt chỉ tiêu trên giao. Những vùng trước đây có khó khăn nay đều có chuyển biến. Lực lượng dân quân, công an tiếp tục được củng cố. Công tác sẵn sàng chiến đấu được thực hiện tốt, mà cụ thể là đã kịp thời nổ súng đánh địch khi chúng đến gây tội ác, tiêu biểu là dân quân xã Anh hùng Hương Trạch, đã giữ vững biên giới, phát hiện và đánh lui các cuộc thâm nhập của biệt kích do kẻ địch ở Miền Nam tung ra. Trật tự, an ninh địa phương nói chung được ổn định.
Về sản xuất nông nghiệp, diện tích lúa Đông Xuân giữ vững, vụ mùa có nhiều cố gắng, diện tích lạc tăng nhanh, đưa giống mới vào tuy chưa nhiều nhưng đã tạo ra những tiềm năng mới, mở ra khả năng thâm canh tăng năng suất. Chăn nuôi đàn trâu bò đạt 107% kế hoạch, đàn lợn tăng 117% so với năm 1969. Lâm nghiệp có 18 xã có kế hoạch khai thác rừng đạt 108%, gỗ tròn 112% so với năm 1969, nứa 116%, song mây 134%. Phong trào trồng cây đạt 18 ha đồi trọc, 515.000 cây phân tán. Về sản xuất thủ công nghiệp, giá trị sản lượng đạt 107%, có 12/28 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch. Toàn huyện có 45 lò vôi, 2 lò liên hoàn.
Công tác y tế, giáo dục, lưu thông phân phối, tài chính tiền tệ đều có cố gắng, có đóng góp vào phong trào chung.
Ngoài những kết quả trên, thời gian này Hương Khê còn hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng khác là làm nhà cho Đoàn 70 Quân khu IV ở Sơn Tiến, Hương Sơn. Khi nhận được yêu cầu của Đoàn 70 về xây dựng 32 ngôi nhà nghỉ dưỡng cho bộ đội, thương binh, bệnh binh, một phong trào làm nhà đã được phát động trong Nhân dân Hương Khê. Với tinh thần quân dân như cá với nước, với tấm lòng hậu phương rộng mở, Nhân dân Hương Khê không tiếc công sức, của cải, đã tự nguyện đóng góp nguyên vật liệu, phân công nhau làm khung, đánh tranh và chuyển tất cả đi hàng trăm cây số đến xây dựng được 32 nhà từ 3 đến 5 gian bàn giao đúng hạn cho bộ đội. Tại huyện, Nhân dân đã đóng góp xây dựng 5 nhà cho Xí nghiệp mộc thương binh để đón các thương bệnh binh về nuôi dưỡng, tạo công ăn việc làm, ổn định cuộc sống để họ hoà nhập cộng đồng với tinh thần “tàn nhưng không phế”.
Trong chiến tranh ác liệt và khó khăn về đời sống vật chất, được Đảng giáo dục và với truyền thống hậu phương sẵn có, cán bộ, đảng viên, Nhân dân Hương Khê đều vươn lên về mọi mặt, trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, thấm đậm tinh thần của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, đoàn kết lao động, sản xuất, học tập, ra sức chi viện tiền tuyến. Nhân dân Hương Khê đã làm đường, bắc cầu, kéo pháo vào trận địa, đào công sự, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản tập thể. Họ là lực lượng trực chiến đánh máy bay địch ở các trận địa phòng không, là lực lượng truy bắt quân gián điệp, biệt kích và giặc lái. Tiêu biểu như 10 cô gái cầu Tân, 10 cô gái Hương Mai, các chiến sĩ bảo vệ phà Địa Lợi.
Trên mặt trận sản xuất, Nhân dân Hương Khê đã bám ruộng đồng, tiếp thu kỹ thuật và giống cây, con mới để phát triển sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “hạt gạo chia ba”, vừa để nuôi sống mình vừa góp phần đóng góp cho chiến trường xa và cho quân dân nước bạn. Khi máy bay địch ngớt đánh phá, Nhân dân lại khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống, tiếp tục duy trì mọi hoạt động của một vùng hậu phương, làm yên lòng người ra trận.
Tuy nhiên đối chiếu với nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thì phong trào còn nhiều thiếu sót và yếu kém.
Một là, nhận thức về âm mưu thâm độc của địch chưa sâu sắc. Tư tưởng chủ quan, xem nhẹ công tác phòng không Nhân dân, công tác tuyển quân vùng Công giáo, thực hiện chính sách hậu phương chưa triệt để.
Hai là, kinh tế nhiều mặt sa sút nghiêm trọng, kéo dài. Sản lượng lương thực từ 19.060 tấn (năm 1965) sụt xuống chỉ còn 12.200 tấn (năm 1970), trong đó sản lượng màu sụt gần một nửa. Nạn thiếu lương thực, đói giáp hạt chưa được khắc phục. Đàn lợn nhỡ sụt nghiêm trọng, trọng lượng xuất chuồng thấp. Đàn trâu bò tuy số lượng tăng nhưng chất lượng lại đang bị thoái hóa, sức cày kéo yếu. Đàn gia cầm chưa có gì chuyển biến.
Ba là, sản xuất thủ công nghiệp còn non yếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và đời sống, vôi vẫn chưa đủ bón ruộng, ngành nghề bị mai một...Trồng cây bảo vệ rừng chưa đặt ra tích cực, nạn đốt phá rừng, khai thác bừa bãi chưa được ngăn chặn.
Bốn là, công tác lưu thông phân phối, quản lý thị trường còn nhiều thiếu sót, chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống Nhân dân.
Những tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, như: kiến thức về cuộc đấu tranh giữa hai con đường, vận dụng 3 cuộc cách mạng còn yếu; công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém trên nhiều mặt, chưa gắn liền xây dựng Đảng với nhiệm vụ chính trị. Ý chí chiến đấu, tinh thần xung phong gương mẫu của một bộ phận đảng viên chưa cao, tư tưởng bảo thủ, tư lợi cá nhân còn nặng, ý thức kỷ luật lỏng lẻo. Nội bộ Đảng mà trước hết là cấp ủy một số nơi vẫn còn hiện tượng thiếu đoàn kết nhất trí. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện chưa tốt, trách nhiệm của cán bộ chưa cao, số cán bộ cốt cán thiếu ổn định. Nhiều cán bộ trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý còn kém nhưng không chịu học tập. Vai trò của chính quyền và các đoàn thể quần chúng chưa phát huy tốt tác dụng. Phong trào hợp tác hoá tiếp tục sa sút. Ban chấp hành đã tự nhận kỷ luật khiển trách trước Đảng bộ.
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới được Đại hội xác định là: Ra sức chi viện cho chiến trường, đảm bảo giao thông vận tải. Làm tốt công tác tuyển quân, dân công phục vụ chiến trường, củng cố dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu, tăng cường phòng không Nhân dân, đảm bảo trật tự trị an, an ninh biên giới, sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích xâm nhập của địch. Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thương binh, gia đình liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội.
Tiếp tục xây dựng kinh tế nông nghiệp và rừng, phấn đấu đạt mục tiêu 1 lao động, 3,5 tấn thóc, 1,5 con lợn trên 1 ha gieo trồng. Phát triển nhanh diện tích lạc, bước đầu tạo ra một số vùng chè tập trung. Tiếp tục phát triển vùng cây ăn quả, cây dược liệu. Đưa chăn nuôi lên thành ngành chính, phát triển vững chắc đàn bò, lợn, áp dụng tiến bộ kỹ thuật nuôi lợn lai quy mô lớn và của hộ xã viên. Đẩy mạnh hoạt động nghề rừng cả trồng và bảo vệ, khai thác gỗ lâm thổ sản khác.
Các chỉ tiêu lớn của năm 1972 là: lương thực 23.000 tấn, trong đó 900 tấn màu quy thóc; tổng đàn trâu bò có 18.000 đến 20.000 con, lợn 18.000 đến 20.000 con; diện tích lạc 900 ha; khai thác gỗ 750 đến 900 m3, trồng cây đồi trọc 200 ha.
Biện pháp là củng cố hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng. Quản lý tốt ruộng đất kể cả vườn và đất 5%. Giao chỉ tiêu thu mua nông sản hàng hóa, ngày công, phân bón, chăn nuôi... thu hồi vốn, trả nợ Nhà nước, cân đối lao động trồng trọt, chăn nuôi, rừng, ngành nghề, giải quyết tốt Ba khoán. Đẩy mạnh kỹ thuật nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh, thâm canh, xây dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ... Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng tinh thần xung phong gương mẫu, tinh thần cách mạng tiến công, ý thức trách nhiệm, tự lực cánh sinh, chống bảo thủ ngại khó, ỷ lại, tùy tiện của cán bộ, đảng viên. Củng cố khối đoàn kết, phê bình và tự phê bình, xây dựng nền nếp làm việc, sinh hoạt, thống nhất ngày sinh hoạt chi bộ là ngày 5 hàng tháng trong toàn huyện...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 19 đồng chí chính thức, 2 dự khuyết. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Văn Cung. Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính là đồng chí Phan Văn Đệ. Đồng chí Trần Khoa là ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Đảng. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Miên, Đặng Dụ. Các ủy viên Ban Thường vụ bao gồm: Phan Xuân Bằng, Đinh Duyệt, Trần Đường.
Tiếp tục coi lãnh đạo phát triển lương thực là nhiệm vụ trọng tâm, Đảng bộ Hương Khê đã có nhiều biện pháp củng cố hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1972, huyện có 69 hợp tác xã với 14.366 hộ, chiếm 97% số hộ trong huyện, trong đó có 2.370 hộ giáo dân. Hợp tác xã bậc cao chiếm 100%, quy mô mỗi hợp tác xã có 208 hộ, bình quân diện tích là 119 ha. Về phân công lao động, có 87,1% lao động nông nghiệp, 1,8% lao động chăn nuôi, 4,1% lao động ngành nghề. Trong số hợp tác xã đó có 452 đội sản xuất, trong đó có 44 đội ngành nghề. Cơ cấu sản phẩm năm 1970 từ trồng trọt là 88,8%, chăn nuôi là 0,9%, ngành nghề 7%, lĩnh vực khác 3,3%. Năm 1972, trồng trọt là 87,5%, ngành nghề là 7,7%, lĩnh vực khác 4,8%.
Trong khi quân dân Hương Khê đang ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thì tháng 4/1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Lần này chúng không đánh phá leo thang từng bước mà dùng ngay các phương tiện chiến tranh hiện đại, kể cả B52, đánh phá với quy mô, cường độ lớn trên các tuyến đường sắt, đường bộ, phong tỏa tuyến đường sông Ngàn Sâu, chặn các bến phà, gây ách tắc giao thông vận tải nhiều nơi trên địa bàn huyện. Máy bay B52 đã ném bom rải thảm nhiều nơi trong huyện, kể cả vào các khu dân thường, cả ruộng đồng, đê đập, nhất là vùng dọc các tuyến giao thông như: ven đường goòng ở Yên Duệ, Trúc, Tân Ấp, Hương Phong; đường bộ từ Truông Bát, Động Đỏ lên Lộc Yên... Những hành động tội ác đó của đế quốc Mỹ đã gây nên bao cảnh đau thương cho Nhân dân Hương Khê. Trước hành động chiến tranh mới của địch, ngày 16/4/1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi quân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi nêu rõ: Mỗi công dân phải là một chiến sĩ kiên cường chống Mỹ, cứu nước; mỗi xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã, cơ quan, trường học... phải là một pháo đài, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự của giặc Mỹ và tay sai.
Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý thức cộng đồng đã được tôi luyện, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và theo công điện khẩn của Tỉnh ủy, Đảng bộ Hương Khê đã nhanh chóng lãnh đạo quân dân bước vào cuộc chiến đấu mới. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ (đầu tháng 4/1972) và các hội nghị bất thường của Ban Thường vụ Huyện ủy đã đề ra chủ trương nhanh chóng chuyển mọi hoạt động của quân dân trong huyện sang trạng thái chiến tranh. Công tác phòng không sơ tán được kiên quyết thực hiện, nhiệm vụ kết hợp với chiến đấu tiếp tục được đẩy mạnh. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng bộ và quân dân địa phương được chú trọng, nhất là việc nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tàn bạo mới của Mỹ dùng máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm xuống các vùng dân cư trong huyện. Các chốt giao thông, các chòi phòng không, các trận địa trực chiến được tăng cường lực lượng. Các bệnh viện, trường học được sơ tán nhanh chóng.
Lại một lần nữa quân dân Hương Khê phải vươn lên đương đầu với các hành động chiến tranh tàn bạo của địch. Với kinh nghiệm đã có và tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, Hương Khê đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động trở lại thời chiến. Khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến chiến thắng”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” lại được đề cao hơn bao giờ hết. Toàn huyện trong thời gian ngắn đã hình thành hàng trăm cụm trận địa chiến đấu, hàng trăm tổ công binh, cứu sập, cứu thương... Công tác chính trị tư tưởng nhằm nêu cao tinh thần chiến đấu, nhận rõ bản chất hiếu chiến, lật lọng của địch được tăng cường với nhiều hình thức, đến tận cơ sở. Việc sơ tán được thực hiện khẩn trương, nhanh gọn, giảm được nhiều tổn thất về tính mạng và tài sản cho Nhân dân và Nhà nước. Bệnh viện, bệnh xá được tăng cường thuốc men, dụng cụ y tế và y bác sĩ. Các đội rà phá bom được thành lập sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có tình huống xảy ra. Lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ được tăng cường cả số lượng và chất lượng với nhiều vũ khí trang bị mới hiện đại. Các tiểu đoàn bộ binh, dân quân được thành lập ở các Lâm trường Trại Trụ, Chúc A, Nông trường 20-4. Các trận địa trực chiến được bố trí mạnh ở các vùng trọng điểm. Ngày 23/6/1972, quân dân Hương Lộc đã bắn rơi một chiếc F.4 của Mỹ. Các đợt giao quân năm 1972 của Hương Khê có gần 1.000 tân binh, trong đó có 137 thanh niên Công giáo, cao nhất tỉnh. Trong những ngày địch tập trung lực lượng mở cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội 12 ngày đêm (cuối tháng 12/1972), Đảng bộ đã chỉ đạo quân dân tranh thủ khi địch giảm cường độ đánh phá để khôi phục giao thông, đưa nhanh hàng hoá vào tiền tuyến.
Sau thất bại nặng nề ở trận tập kích bằng không quân ở Thủ đô Hà Nội kéo dài 12 ngày đêm buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari (27/01/1973), cam kết rút hết quân khỏi Việt Nam. Với sự kiện này, miền Bắc nói chung, Hương Khê nói riêng bước sang thời kỳ hòa bình. Trước tình hình đó, Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ thời chiến sang thời bình, đẩy mạnh khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng tiềm lực, làm tròn nhiệm vụ hậu phương.
Quân dân Hương Khê đã có sự đóng góp xứng đáng vào thắng lợi to lớn của cả nước, song cũng chịu những tổn thất nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của địch, nhất là những nơi bị B52 ném bom huỷ diệt. Từ ngày 30/3/1972 đến ngày 16/01/1973 toàn huyện có 248 người chết. Tính cả đợt thứ nhất, tổng số dân thường của Hương Khê bị chết do bom đạn Mỹ là 727 người, chưa tính số bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, cán bộ và Nhân dân đi công tác, chiến đấu hy sinh ở nơi khác và số cán bộ, bộ đội, dân công, thanh niên xung phong các nơi khác hy sinh tại địa bàn huyện.
Ngay sau khi Hiệp định Paris được công bố cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền chiến thắng, phát động phong trào học tập, quán triệt lời kêu gọi của Trung ương Đảng, đề cao cảnh giác, đề phòng tư tưởng chủ quan, quá tin vào Hiệp định Pari, tư tưởng “xả hơi”, Đảng bộ Hương Khê đã khẩn trương huy động mọi nguồn lực vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, công tác để hoàn thành nhiệm vụ hậu phương trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ trước tiên được Đảng bộ lãnh đạo quân dân Hương Khê tập trung thực hiện là tham gia chiến dịch vận tải đặc biệt ĐB3. Do sự đánh phá của địch, cuối năm 1972, hàng hoá đưa vào tiền tuyến qua tuyến Hương Khê bị ách tắc lớn, vì vậy khi có ngừng bắn, vấn đề khôi phục giao thông, bảo đảm vận tải, đưa gấp khối lượng lớn hàng hoá qua địa bàn của huyện trở thành nhu cầu cấp thiết. Toàn dân Hương Khê, nhất là các xã ven các tuyến đường bộ, dọc đường sắt, dọc sông Ngàn Sâu, kể cả học sinh, cán bộ, luân phiên nhau đi đắp đường, sửa cầu, bốc dỡ hàng hoá, bảo đảm thông xe, thông goòng, thông thuyền nhanh nhất. Nhiệm vụ vận tải chuyển sang ban ngày là chính và dần dần được lực lượng cơ giới, chuyên trách đảm nhiệm là chủ yếu.
Song song với khôi phục giao thông vận tải, Huyện ủy đã chỉ đạo các địa phương, các ngành nhanh chóng ổn định đời sống cho cán bộ, Nhân dân, dồn sức khôi phục và phát triển sản xuất, đẩy mạnh công tác, học tập.
Được cổ vũ bởi thắng lợi chung của cả nước và với điều kiện hoà bình, Đảng bộ huyện Hương Khê lãnh đạo quân, dân thừa thắng xông lên, quyết tâm thực hiện mục tiêu xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện cho chiến trường miền Nam “đánh cho nguỵ nhào” như lời Bác Hồ đã căn dặn. Bằng nhiều phong trào lao động, công tác sôi nổi, tình hình của huyện nhanh chóng có bước phát triển mới. Các cơ quan, trường học, công trường, nông lâm trường không chỉ nhanh chóng trở lại hoạt động bình thường mà còn đạt được nhiều kết quả mới. Nông nghiệp tiếp tục phát triển, nhất là diện tích và sản lượng do đồng ruộng được cải tạo, và đưa vào sản xuất nhiều vùng trước đây là trọng điểm đánh phá của địch. Các công trình thuỷ lợi, giao thông nội đồng, sân phơi, nhà kho được tu bổ. Chăn nuôi gia súc, gia cầm tập thể và gia đình phát triển mạnh.
Đội chủ lực giao thông của huyện đã tập trung làm đường Đồng - Đại, cầu treo Phúc Đồng được khởi công, bảo đảm cho ôtô đi lại đến Hói Trí[77]. Đường 15B qua Địa Lợi được làm từ những năm 1968 - 1969, huyện giao các địa phương tiếp tục được nâng cấp trong thời kỳ 1972 - 1973. Khu vực Truông Bồng phải bạt núi rất công phu, được giao cho lực lượng chủ lực giao thông của huyện cùng với công ty cơ giới giao thông của tỉnh đảm nhiệm chính.
Đến cuối năm 1973, hầu như mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở Hương Khê đã trở lại trạng thái bình thường và có thêm sức sống mới, vui tươi, lạc quan hơn hẳn trước. Trong hoàn cảnh đó, tháng 12/1973, tại Hương Bình Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ XVI được tổ chức. Dự Đại hội có 141 đại biểu chính thức, thay mặt cho hơn 5.200 đảng viên toàn Đảng bộ. Đại hội đã khẳng định những thành tích vẻ vang của quân dân huyện Hương Khê trong cuộc chiến đấu năm 1972 ; biểu dương các điển hình tiên tiến trong sản xuất, chiến đấu, công tác, tinh thần chiến đấu, lao động sản xuất cần cù, sáng tạo, đóng góp vô tư, to lớn của cán bộ, đảng viên và Nhân dân toàn huyện. Đồng thời Đại hội cũng chỉ ra những thiếu sót, hạn chế của Đảng bộ và phong trào quần chúng, nhất là việc có nơi chưa triệt để thực hiện phòng không, sơ tán để tổn thất lớn tính mạng và tài sản của Nhân dân, Nhà nước, chậm áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất, năng suất, chất lượng các mặt công tác còn thấp so với yêu cầu.
Xác định nhiệm vụ cho thời kỳ mới, Đại hội nhấn mạnh trọng tâm công tác lãnh đạo trước mắt của Đảng bộ là phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục xây dựng lực lượng về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giao thông vận tải,... để ổn định đời sống Nhân dân, phát triển sản xuất, làm tròn nhiệm vụ hậu phương, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đại hội quyết định đẩy mạnh phong trào xây dựng các hợp tác xã quy mô liên thôn, tiến tới quy mô xã theo chủ trương chung. Biện pháp là mở hội nghị các hợp tác xã tiên tiến để rút ra những bài học của phong trào và nhân rộng ra toàn huyện...
Đại hội đã bầu Huyện ủy mới gồm 21 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Văn Cung, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính là đồng chí Phan Văn Đệ, Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Đinh Duyệt. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí: Nguyễn Văn Miên, Trần Khoa, Đặng Dụ. Các Ủy viên Ban Thường vụ là: Phan Xuân Bằng, Nguyễn Xuân Hương, Trần Đường.
Theo phương hướng được Đại hội Đảng bộ xác định, năm 1974, các cấp ủy địa phương, ban ngành, cơ quan, công trường, xí nghiệp đã lãnh đạo quần chúng đẩy mạnh mọi mặt hoạt động. Thu hoạch lúa các vụ trong năm tăng hơn trước, đời sống Nhân dân được cải thiện. Đàn gia súc, gia cầm đều tăng, việc đóng góp nghĩa vụ về lương thực, thực phẩm được bảo đảm đầy đủ. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, lương thực, thực phẩm vừa tranh thủ sự chu cấp của cấp trên, vừa tận dụng nguyên vật liệu, nông lâm sản tại chỗ, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hoá phục vụ đời sống, sản xuất.
Hoạt động văn hóa, y tế có thuận lợi hơn trước, chất lượng hoạt động đã được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu trước mắt và có phương hướng phát triển lâu dài. Tháng phim Việt Nam đầu năm 1974 được thực hiện, bưu điện, truyền thanh, báo chí được đưa tới cơ sở, phục vụ Nhân dân. Các trường phổ thông tăng cường số lượng học sinh chuyển cấp, hầu hết con em được đến trường. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, được kiện toàn với các đại hội, các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Công tác hậu phương quân đội, chăm lo vật chất, động viên tinh thần với thương bệnh binh, gia đình bộ đội, thân nhân liệt sĩ được thực hiện.
Thực hiện Nghị quyết 225-NQ/TW, ngày 20/2/1973 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng cán bộ trong thời kỳ mới, Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo cán bộ, đảng viên đã nghiêm khắc kiểm điểm các mặt hạn chế, nêu quyết tâm phấn đấu khắc phục thiếu sót trở thành những cán bộ, đảng viên tốt. Cuộc vận động đã làm cho Đảng bộ Hương Khê thêm vững mạnh, trong sạch, nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo, được Nhân dân thêm tin tưởng. Khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” được thực hiện trên thực tế phong trào lao động, sản xuất, đóng góp nghĩa vụ, đi bộ đội, dân công...
Cùng với nâng cao chất lượng đảng viên, Đảng bộ cũng thực hiện Chỉ thị 192-CT/TW của Trung ương Đảng về rà soát, đưa những đảng viên không đủ tư cách, phẩm chất ra khỏi Đảng, đưa việc lựa chọn, kết nạp đảng viên vào nền nếp thường xuyên. Huyện ủy đã chú trọng xem xét đội ngũ cấp ủy, đánh giá toàn diện, thực chất những thành công và hạn chế của các tổ chức cơ sở Đảng, để có kế hoạch thực hiện thích hợp.
Đầu năm 1975, trong không khí chiến thắng của đồng bào chiến sĩ miền Nam, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã phát động phong trào khai hoang, mở rộng diện tích, làm phân bón, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp. Hơn 16.000 người đã được huy động vào nhiệm vụ khai hoang mở rộng diện tích, đưa thêm 450 ha ruộng đất vào canh tác. Mỗi xã viên được các hợp tác xã giao làm từ 3 đến 5 tạ phân xanh để bón ruộng. Hàng vạn người, chủ yếu là chị em, đã được huy động đi làm các công trình thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng. Có 1.630 nhóm làm phân bón do chị em đảm nhiệm.
Nhìn chung, tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm thời kỳ 1970 - 1975 ở Hương Khê ổn định, có phần tăng trưởng:
Năm
|
Lúa
(ha)
|
Màu
(ha)
|
Sản lượng
Quy thóc (tấn)
|
Trâu
(con)
|
Bò
(con)
|
Lợn
(con)
|
Nghĩa vụ lương thực (tấn)
|
1970
|
13.360
|
2.631
|
12.593
|
10.176
|
8.919
|
18.458
|
1.229
|
1971
|
13.931
|
2.821
|
12.976
|
9.153
|
8.238
|
14.728
|
1.094
|
1972
|
14.142
|
3.096
|
14.126
|
9.663
|
8.261
|
16.097
|
1.657
|
1973
|
13.777
|
3.090
|
14.020
|
9.221
|
8.326
|
16.216
|
1.650
|
1974
|
13.376
|
3.371
|
12.760
|
9.830
|
8.834
|
20.044
|
1.750
|
1975
|
13.900
|
3.650
|
16.500
|
9.795
|
9.347
|
18.188
|
2.076
|
Phong trào quần chúng tiếp tục được phát động và duy trì, nhất là trong thanh niên. Tiêu biểu nhất là tổ chức Thanh niên: Đoàn Lâm trường Chúc A, các Đoàn xã Hương Thuỷ, Hương Thanh, Phúc Trạch, Hương Bình, Hương Đồng, Hương Xuân... Hàng vạn thiếu niên được công nhận “Cháu ngoan Bác Hồ”. Hàng trăm tổ, đội lao động được công nhận tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa trong các cơ quan, trường học, bệnh viện, công trường, nông và lâm trường, xí nghiệp. Riêng Đội khai thác Lâm trường Chúc A được Nhà nước phong danh hiệu đơn vị Anh hùng Lao động và tổ chức Đoàn Đội 5 của Lâm trường được Trung ương Đoàn tặng cờ Nguyễn Văn Trỗi...
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, với sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trong chiến tranh ác liệt, mặc dù có nhiều khó khăn, thiếu thốn về đời sống, dân cư Hương Khê vẫn có sự tăng trưởng, nguồn nhân lực vẫn được tăng cường, nhất là lao động nông nghiệp.
Năm
|
Số hộ
|
Lao động nông nghiệp
|
1971
|
14.571
|
24.173
|
1972
|
14.716
|
24.950
|
1973
|
15.296
|
25.441
|
1974
|
15.289
|
26.332
|
1975
|
15.971
|
26.601
|
Về quân sự, lực lượng dân quân tự vệ vẫn tiếp tục luyện tập, có lực lượng trực chiến sẵn sàng chiến đấu, các phương án chống đổ bộ, tập kích, biệt kích được dự kiến và diễn tập.
Trong thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở miền Nam, cả vùng hậu phương Hương Khê lại sôi sục không khí hướng về tiền tuyến. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trẻ già, nam nữ, đã ngày đêm thao thức theo dõi, lan truyền tin thắng trận của tiền tuyến. Trên khuôn mặt rạng rỡ của mọi người, ai ai cũng muốn làm được một việc gì đó để góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.
Hàng ngàn thanh niên, cán bộ dân chính đảng, bộ đội địa phương, Công an nhân dân Hương Khê lại lên đường ra tiền tuyến với sự tiễn đưa chu đáo của cơ quan, đơn vị, Nhân dân. Cùng với quân dân cả nước, cán bộ, chiến sĩ con em người Hương Khê đã lớp lớp hoà vào đoàn quân giải phóng, tham gia các chiến dịch của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ của dân tộc Việt Nam, lập lại hoà bình cho Tổ quốc, thu giang sơn về lại một mối, Nam Bắc sum họp một nhà. Đây là chiến thắng vĩ đại, tô thắm thêm những trang sử hào hùng của dân tộc; một thắng lợi có ý nghĩa thời đại và mang tầm vóc quốc tế. Trong thắng lợi to lớn chung của cả dân tộc, Đảng bộ, quân dân Hương Khê đã có một phần đóng góp xứng đáng.
Trong suốt 10 năm 1965 - 1975, theo đường lối, chủ trương đúng đắn của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân, dân trong huyện xây dựng địa phương phát triển về mọi mặt, bảo vệ vững chắc địa bàn, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, dốc sức chi viện tiền tuyến, làm tròn nhiệm vụ hậu phương. Về xây dựng hậu phương, phát triển kinh tế, bảo đảm giao thông vận tải, Đảng bộ đã chú trọng xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp để vừa tăng năng suất, sản lượng lương thực, thực phẩm bảo đảm đời sống Nhân dân, đóng góp cho Nhà nước vừa tạo điều kiện rút bớt một phần nhân lực cho nhiệm vụ quốc phòng. Theo đà phát triển chung của tỉnh, của cả nước, Đảng bộ đã từng bước đưa hợp tác xã tiến lên bậc cao, mở rộng quy mô liên thôn và cấp xã. Cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp được tăng cường, nhất là thuỷ lợi. Sản xuất, kinh doanh hợp tác xã ngày càng được phát triển, mở rộng ngành nghề thâm canh toàn diện lúa màu, cây công nghiệp, phong trào khai hoang mở rộng diện tích, mở ra triển vọng đảm bảo tính ổn định của đời sống Nhân dân.
Sức mạnh tập thể của hợp tác xã nông nghiệp đã làm được nhiều công trình mà trước đây sản xuất nhỏ lẻ cá thể không thể nào làm được. Điều đó đã giúp cho Hương Khê đủ sức sản xuất, chiến đấu đáp ứng chống chiến tranh phá hoại và phục vụ mọi yêu cầu của quốc phòng về sức người, sức của. Mặc dầu thiên tai, địch họa nhưng đời sống của người dân vẫn giữ mức trung bình, con người sống có trách nhiệm với nhau, tính cộng đồng được nâng cao.
Các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, lâm nghiệp đều có bước phát triển khá, tận dụng các nguồn nguyên, vật liệu tại chỗ, làm ra được nhiều sản phẩm thiết yếu cung cấp cho sản xuất và đời sống Nhân dân. Đặc biệt, hệ thống giao thông phát triển mạnh hơn bao giờ hết. Cùng với lực lượng của cấp trên, Hương Khê đã làm được 4.987 km đường giao thông các loại trong toàn huyện, như 22 km đường cơ động từ Đức Hương lên Hương Thọ, đường Đức Bồng lên Hương Minh, Can Lộc qua Truông vắt lên Hà Linh, nhiều đường giao liên dọc huyện vào Tuyên Hoá (Quảng Bình), đường 15B tránh Hương Phong, Gia Phố đi thẳng lên Lộc Yên,...
Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố, tạo nên chế độ xã hội ưu việt, tốt đẹp. Những giá trị chân chính của con người, của cộng đồng như đoàn kết, yêu nước, lao động, trung thực, hiếu học... được vun đắp, cổ vũ, tôn vinh. Văn hoá xã hội ngày càng phát triển, mọi người dân đều được học tập, chữa bệnh không mất tiền, tất cả trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường, làng quê chan hoà không khí lao động, sinh hoạt tập thể. An ninh, trật tự được bảo đảm, không có rối loạn xã hội, dịch bệnh, nạn đói, mặc dù chiến tranh hết sức căng thẳng, ác liệt.
Về chiến đấu, tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên đất Hương Khê là 46 chiếc. Riêng lực lượng tự vệ dân quân Hương Khê bắn rơi 9 chiếc, bắt sống 11 giặc lái. Tiêu biểu cho cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Hương Khê thời kỳ 1965 - 1972 là:
- Lúc 10 giờ 30 phút ngày 31/3/1965, máy bay Mỹ đã ném bom phá hủy bệnh viện, sát hại một sản phụ sắp sinh con không thể chạy ra hầm trú ẩn được. Song, các cán bộ của bệnh viện mà chiến công đầu là của những người thầy thuốc xã hội chủ nghĩa, đã khẩn cấp thực hiện ca mổ trong khói đạn, đưa thai nhi ra khỏi bụng mẹ, cứu sống em bé.
- Ngày 20/9/1965, dân quân Hương Khê và bộ đội Trung đoàn Phòng không 230 bắn rơi chiếc máy bay phản lực F.4, giặc lái nhảy dù xuống địa phận Nông trường 20- 4. Bất chấp hiểm nguy, tự vệ Nông trường với 10 tay súng do đồng chí Trần Văn Thái chỉ huy đã làm một việc mà mọi người kính phục là trèo lên cây cao để quan sát và bắn máy bay trực thăng khi chúng thả thang cứu giặc lái. Quân dân ta đã bắn rơi 02 máy bay (01 F.4 và 01 trực thăng H43), bắt sống 6 giặc lái. Đây là trận bắt sống nhiều giặc lái nhất ở miền Bắc.
- Ngày 18/10/1965, tự vệ Xí nghiệp đá Phú Lễ, với 2 viên đạn súng trường đã bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ khi nó bổ nhào vào trận địa đánh phá. Chiếc máy bay rơi tại chỗ, tên giặc lái bị bắt sống. Với chiến công này, quân dân Hương Khê đã mở đầu cho phong trào dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay phản lực Hoa Kỳ.
- Ngày 15/7/1967, bọn gián điệp, biệt kích chính quyền Sài Gòn đột nhập khu vực Vũ Quang thu thập tài liệu để chỉ điểm cho máy bay Mỹ đánh phá, hòng ngăn chặn con đường từ Hương Khê sang Lào, chi viện chiến trường miền Nam và Lào của hậu phương miền Bắc. Quân dân Hương Khê đã phối hợp với quân dân Hương Sơn và của cách mạng Lào truy quét, vây bắt gọn cả toán 11 tên.
- Ngày 02/8/1967, 10 cô gái dân quân xã Hương Thuỷ đã chiến đấu anh dũng, phối hợp cùng dân quân du kích xã Hương thủy đồng loạt nổ súng bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ (FR47C) khi lao xuống ném bom cầu Tân (Chu Lễ), được mệnh danh là 10 cô gái cầu Tân[78].
- Ngày 28/8/1968, trận chiến đấu phối hợp giữa tự vệ Lâm trường Trại Trụ và bộ đội phòng không bắn rơi chiếc máy bay cánh cụp, cánh xoè F.111A của Mỹ. Đây là chiếc máy bay cánh cụp, cánh xoè đầu tiên bị bắn rơi trên miền Bắc.
- Ngày 15/01/1970 và 25/01/1970, bộ đội biên phòng Đồn 97, tự vệ Lâm trường Chúc A và quân dân cách mạng Lào ở vùng Naxarốc phối hợp đánh đuổi nhiều toán biệt kích ngụy.
- Ngày 26/5/1971, các chiến sĩ biên phòng và tự vệ Lâm trường Chúc A và quân dân Hương Lâm, Hương Liên, Hương Xuân, Hương Vĩnh, Phú Gia bao vây tiêu diệt gọn toán biệt kích nhảy dù, diệt 18 tên.
- Ngày 13/10/1970, dân quân Hương Trạch và bộ đội cao xạ Đoàn 250 bắn rơi 1 máy bay F.4 tại khu vực La Khê. Giặc lái nhảy dù xuống lèn đá, bị thiệt mạng.
- Ngày 23/6/1972, dân quân Hương Lộc bắn rơi 1 máy bay F.4.
- Ngày 04/7/1972, tự vệ Nông trường 20-4 và bộ đội phòng không bắn rơi 1 máy bay E.30[79].
- Ngày 20/7/1972, Đại đội 12ly7, quân dự nhiệm, bộ đội địa phương huyện và dân quân Hương Long đã bắn rơi 1 máy bay Mỹ.
Những chiến công trên cho chúng ta thấy Hương Khê đã có nhiều thành tích nổi bật như: là nơi bắt sống nhiều giặc lái nhất trong một trận: 6 tên; là nơi đầu tiên bắn rơi máy bay trực thăng Mỹ trên miền Bắc; là nơi lần đầu tiên bắn rơi máy bay cánh cụp, cánh xoè của Mỹ ở miền Bắc; là nơi bắn rơi máy bay Mỹ lần đầu bằng súng trường bộ binh chỉ hết hai viên đạn. Đồng thời, Hương Khê đã bảo vệ an toàn tuyến biên giới Việt - Lào qua địa bàn huyện với hàng chục ha rừng và đảm bảo an toàn cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Về nhiệm vụ hậu phương, chi viện tiền tuyến, sự đóng góp của Hương Khê chủ yếu là về bảo đảm địa bàn đứng chân, bảo đảm giao thông vận tải. Đại đa số các đơn vị, các phương tiện của miền Bắc chi viện tiền tuyến và từ tiền tuyến miền Nam ra miền Bắc đều đã dừng chân, huấn luyện, củng cố, chiến đấu, đi qua địa bàn Hương Khê, được Đảng bộ, quân dân Hương Khê giúp đỡ, phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi nhất trong khả năng có thể của mình.
Trên mọi nẻo đường ra Bắc, vào Nam, liên tục ngày đêm, suốt mấy chục năm liền, bộ đội, cán bộ, thanh niên xung phong, dân công cả nước đã nhận được ở địa bàn Hương Khê một tình cảm hậu phương chân thành, tốt đẹp, không thể nào quên. Nhân dân đã san sẻ từ nhà cửa, hầm hào, đến củ khoai, củ sắn, bát nước chè xanh, quả bưởi cho bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, thể hiện “nghĩa Đảng, tình dân”, “quân dân một ý chí”, “Bắc Nam một nhà”, “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Khẩu hiệu “xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tất cả cho chiến thắng”, “Tất cả vì tiền tuyến, vì miền Nam ruột thịt” đã trở thành hành động thực tế, thường ngày của Đảng bộ, Nhân dân Hương Khê.
Một trong những đóng góp quan trọng của Đảng bộ, Nhân dân Hương Khê cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc là về nhân lực. Toàn huyện có hơn 6.500 người đi bộ đội, 9.786 người đi thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến dài ngày. Dân công hoả tuyến làm được gần 3 triệu công. Điều động Nhân dân đào đắp được 198.000m3 đất, 576m3 đá, đóng nộp 31.200 cây tre làm cọc chống lầy...
Thống kê đóng góp về nhân lực của quân dân Hương Khê thời kỳ 1965 - 1975:
Năm
|
Bộ đội
|
Thanh niên xung phong
|
Công
nhân quốc phòng
|
Tuyển
sinh và lao động
|
Dân công
trung, hỏa tuyến (công)
|
1965
|
324
|
194
|
195
|
….[80]
|
152.852
|
1966
|
434
|
510
|
120
|
-
|
252.967
|
1967
|
449
|
250
|
392
|
577
|
287.876
|
1968
|
1.049
|
145
|
324
|
599
|
241.600
|
1969
|
268
|
109
|
156
|
548
|
138.900
|
1970
|
170
|
-
|
183
|
25
|
109.896
|
1971
|
555
|
163
|
120
|
30
|
120.500
|
1972
|
1.088
|
198
|
416
|
48
|
534.810
|
1973
|
474
|
-
|
528
|
40
|
154.212
|
1974
|
412
|
-
|
231
|
-
|
987.950
|
1975
|
1.327
|
-
|
-
|
|
6.550
|
1.569
|
2.665
|
1.867
|
2.981.563 công
|
Tuy nhiên, trong thời kỳ 1965 - 1975, Đảng bộ Hương Khê cũng có những hạn chế, thiếu sót trong lãnh đạo, tổ chức phong trào cách mạng của quân dân địa phương.
Thiếu sót, hạn chế cơ bản của Hương Khê thời kỳ chống Mỹ, cứu nước là sản xuất tăng không đáng kể, nhất là lương thực. Tuy huyện có trích được một phần lương thực, thực phẩm (thóc, ngô, sắn khô, đậu, lạc, vừng, trâu, bò, lợn) đóng góp nghĩa vụ cho kháng chiến, song nhiều lúc giáp hạt, mất mùa lại phải nhờ sự cân đối, chi viện của Nhà nước. Số lương thực Nhà nước cân đối cho Hương Khê, cả cho cơ quan hành chính, sự nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, là khá lớn, nếu quy ra thóc lớn hơn số huyện đóng góp cho Nhà nước.
Năm
|
Đóng góp cho Nhà nước (tấn màu)
|
Nhà nước cung cấp
cho Hương Khê
|
1965
|
2.175 tấn, có 723
|
1.210 tấn, trong đó cho Nh.dân 362 tấn
|
1966
|
1.235 có 531
|
1.242 tấn, trong đó cho Nh.dân 814 tấn
|
1967
|
926 có 381
|
1.080 tấn, trong đó cho Nh.dân 940 tấn
|
1968
|
763 có 362
|
1.704 tấn, trong đó cho Nh.dân 855 tấn
|
1969
|
665 có 282
|
1.588 tấn, trong đó cho Nh.dân 971 tấn
|
1970
|
1.229 có 531
|
1.669 tấn, trong đó cho Nh.dân 806 tấn
|
1971
|
1.094 có 432
|
1.884 tấn, trong đó cho Nh.dân 792 tấn
|
1972
|
1.657 có 567
|
880 tấn, trong đó cho Nh.dân 706 tấn
|
1973
|
1.650 có 621
|
1.018 tấn, trong đó cho Nh.dân 806 tấn
|
1974
|
1.750 có 628
|
1.062 tấn, trong đó cho Nh.dân 796 tấn
|
1975
|
2.076 có 621
|
937 tấn, trong đó cho Nh.dân 706 tấn
|
|
15.220 có 5.679
|
14.274 tấn, trong đó cho Nh.dân 8.554 tấn
|
Trong phát triển văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ có lúc bị cuốn vào các vấn đề trước mắt, chưa có được chủ trương, chiến lược lâu dài. Điều đó tuy đáp ứng được kịp thời các đòi hỏi của thời chiến vốn rất khẩn trương, cụ thể, song làm cho các hoạt động thiên về bề nổi, theo đà tiến triển chung, tính chiều sâu, bản địa, sát với thực tế con người, đất đai, thế mạnh, mặt yếu của Hương Khê chưa cao, nên thiếu sự vững chắc, nhất là trong phát triển kinh tế, các phong trào lao động, sản xuất, xây dựng hợp tác xã...
Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, chi viện tiền tuyến, có lúc còn bị động đối phó với tình hình. Sự kết hợp sản xuất với chiến đấu, bồi dưỡng sức dân với động viên cho tiền tuyến, trước mắt và lâu dài, động viên tinh thần với bồi dưỡng vật chất, dân chủ với tập trung,... còn nhiều thiếu sót. Tư tưởng dựa vào bộ đội chủ lực trong chiến đấu, vào lực lượng cơ giới của cấp trên trong bảo đảm giao thông vận tải, vào bao cấp của Nhà nước trong vấn đề lương thực, hàng tiêu dùng còn khá nặng...
Nguyên nhân của các hạn chế đó về khách quan là do địch có nhiều âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt, tàn bạo, vũ khí, khí tài tinh xảo, do thiên tai liên tiếp nặng nề, do có nhiều vấn đề về quản lý kinh tế, quản lý hợp tác xã còn mới mẻ, chưa có cơ sở thực tiễn hình mẫu nào, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Về chủ quan, là do chưa vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương chung của Đảng, Nhà nước, của cấp trên vào thực tiễn Hương Khê, chưa phát huy được tối đa hai thế mạnh của địa phương là đất đai và nhân lực.
Sự lãnh đạo, tổ chức thực hiện của các ban Đảng, các cấp ủy cấp dưới, của đội ngũ cán bộ còn lúng túng, thiếu thống nhất chặt chẽ. Việc tập trung lực lượng, trí tuệ thực hiện nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ đạt kết quả là đóng góp to lớn, niềm tự hào của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê, nhưng từ đó đã dẫn tới có lúc, có nơi Đảng bộ thiếu tập trung cho các vấn đề kinh tế, xã hội, còn quan niệm coi nhiệm vụ lãnh đạo sản xuất kinh doanh tốt xấu, được thua không thành vấn đề, chưa đi sâu nghiên cứu, giải quyết đúng các vấn đề về phát triển kinh tế tập thể, nặng về xây dựng quy mô hợp tác xã, hiệu quả đầu tư cho thuỷ lợi chưa cao, thực trạng cơ sở vật chất yếu, ngành nghề ít phát triển và mang tính mùa vụ, thiếu ổn định.
Dù còn một số hạn chế, song nhìn toàn diện, thắng lợi của Đảng bộ, quân dân Hương Khê trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cực kỳ to lớn, vẻ vang.
Cùng với quân dân toàn tỉnh, toàn miền Bắc và cả nước, Đảng bộ và quân dân Hương Khê đã đi tiếp và hoàn thành thêm một chặng đường lịch sử vẻ vang, chặng đường vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa chiến đấu bảo vệ địa bàn, bảo đảm giao thông vận tải, vừa dốc sức người, sức của cung cấp cho tiền tuyến. Đảng bộ, quân dân Hương Khê đã làm hết sức mình, đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhiều chiến công thầm lặng, chưa được biết đến, cần phải bổ sung, song những gì đã được ghi nhận cũng đã rất hào hùng, phong phú. Trong nhiều tập thể, nhiều cá nhân đã làm nên trang sử vẻ vang của Đảng bộ và quân dân Hương Khê thời kỳ này, có 17 đơn vị được công nhận Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Có thể kể đến một số đơn vị tiêu biểu như: dân quân xã Hương Trạch, Đại đội 401 tự vệ gái giao thông đường goòng, Đồn biên phòng 571 Trại Trụ, Nông trường 20-4, Tự vệ đường goòng Tĩnh - Bình đóng tại Hương Khê, Nhân dân và lực lượng vũ trang các xã Hương Thủy, Phúc Trạch, Hương Đô, Hương Long, Hà Linh, Phú Phong, Phúc Đồng... Về cá nhân, có các Anh hùng Lực lương vũ trang Nhân dân Võ Hồng Tuyên (Lộc Yên), Hán Duy Long (Hương Trạch), Hồ Đức Tự (Phương Mỹ), Phan Châu Mỹ (Phúc Đồng),...
Những trang sử vẻ vang đó được viết một phần bởi sự hy sinh xương máu của 1.734 liệt sĩ, 1.060 thương binh, sự đóng góp của 125 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 260 cán bộ lão thành cách mạng và 72 cán bộ tiền khởi nghĩa và Nhân dân Hương Khê mọi thời kỳ. Trong tiến trình lịch sử dài lâu của huyện Hương Khê, chặng đường chống Mỹ, cứu nước là một trong những chặng đường được ghi nhớ nhất, với niềm tự hào không bao giờ phai mờ về một thời nhiều gian khổ, hy sinh, song cũng hết sức hào hùng, oanh liệt. Với những đóng góp đó, Hương Khê vinh dự là huyện Anh hùng Lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
CHƯƠNG VI ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ TRONG 10 NĂM ĐẦU CÙNG CẢ NƯỚC ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1975 - 1985)
I. LÃNH ĐẠO CHUYỂN MỌI HOẠT ĐỘNG SANG THỜI KỲ MỚI, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ HAI (1975 - 1980)
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, trong điều kiện nước nhà hoà bình, thống nhất, cùng với các địa phương trong tỉnh, huyện Hương Khê bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách quy mô. Thực hiện sự nghiệp cách mạng mới, huyện vừa có những thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn rất cơ bản. Ngoài những khó khăn chung, tương tự các huyện khác, như: hậu quả chiến tranh nặng nề, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, không có cơ sở vật chất - kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm và vốn liếng... Hương Khê lại có thêm những khó khăn riêng của một huyện miền núi. Đó là địa lý cách trở, khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai, xa các trung tâm kinh tế, văn hoá của tỉnh và khu vực, trình độ và sự phân bổ dân cư phức tạp, không thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa…
Trước tình hình và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, trong không khí chiến thắng, từ ngày 26 đến ngày 29/8/1975, Đảng bộ Hương Khê đã tiến hành Đại hội lần thứ XVII tại Trường Đảng huyện, để tổng kết sự lãnh đạo những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ, quân dân toàn huyện. Đại hội có 147 đại biểu chính thức, thay mặt cho 5.347 đảng viên toàn Đảng bộ và 56 khách mời. Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh do đồng chí Nguyễn Tiến Chương, Bí thư Tỉnh ủy, Lê Thể, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh đã về dự Đại hội.
Các văn kiện của Đại hội đã khẳng định là mặc dù hàng năm huyện đều bị hạn hán, rét đậm, số thanh niên lên đường đi bộ đội hàng năm nhiều, 6 tháng đầu năm 1975 còn phải huy động 763 lao động cho các công trường, lâm trường, xí nghiệp của tỉnh và Trung ương, song do được chiến thắng miền Nam cổ vũ, động viên nên kết quả sản xuất của Hương Khê tiếp tục có những thành tựu mới. Năng suất lúa từ 12,76 tạ/ha lên 14,4 tạ/ha. Sản lượng màu quy thóc năm 1974 tăng 231 tấn so với năm 1973. Lương thực năm 1975 tăng hơn 1974 là 1.100 tấn. Chiết ghép 2 vạn cây bưởi Phúc Trạch cho 80 ha, sản phẩm hàng hoá năm 1975 là 100 tấn. Chăn nuôi đạt 98% kế hoạch, về trâu, bò với gần 19.000 con. Các trại chăn nuôi gia súc tập thể có 1.000 con, khá nhất là xã Hương Trạch có 240 con. Đàn Lợn đạt hơn 20.000 con, tăng 23% so với năm 1973. Đàn vịt tập thể ở Đại Đồng, Phú Hương có 800 con, 3 vạn quả trứng, 8 hợp tác xã có tổ trồng, ươm cây, trồng rừng. Thuỷ lợi năm 1974 đào đắp 90 vạn m3 đất: Đập Làng, Cây Trồi, Rú Mão, Động Dài,... Các hợp tác xã có đội chuyên làm thuỷ lợi, trong đó có 21 đội được công nhận là đội 202 (Nghị định 202). Làm mới, tu bổ 100 km đường, có 2 cầu treo dài 140 mét. Phần lớn hợp tác xã đã tiến hành Ba khoán có thưởng, phạt. Một số nơi thực hiện khoán cho nhóm hoặc người lao động.
Tuyển quân đạt 102,3%, tuyển lao động đạt 103%. Giáo dục, văn hoá phát triển, nhất là xã Hương Minh. Mặt trận, đoàn thể củng cố, làm tốt công tác hậu phương quân đội. Thực hiện tốt việc học tập các chỉ thị, nghị quyết, thi hành Chỉ thị 192 về củng cố Đảng, kết nạp được 45 đảng viên... Đại hội đánh giá, mặc dù những kết quả đạt được trong giai đoạn này là rất to lớn nhưng nhìn chung, sản xuất nông nghiệp vẫn không đạt mục tiêu đề ra, tổng đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng chậm, nghĩa vụ không đạt chỉ tiêu, lương thực và hàng hoá thiếu thốn, tiêu cực phát triển...
Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm kỳ 1975 - 1976 là phát triển kinh tế, văn hoá, bảo đảm quốc phòng, cải thiện đời sống Nhân dân trong tình hình mới, theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đại hội chủ trương phát huy tinh thần chiến thắng, ra sức ổn định tình hình, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, tăng cường công tác quân sự địa phương, cải thiện đời sống Nhân dân. Đại hội nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới, phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể của Nhân dân, đưa phong trào Hương Khê vượt qua những khó khăn sau chiến tranh, bước sang giai đoạn cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVII có 27 ủy viên chính thức, 2 dự khuyết. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Phan Văn Đệ; Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Nguyễn Xuân Hương; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện là đồng chí Phan Xuân Bằng. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí: Trần Khoa, Trịnh Lưu. Ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Phan Văn Quý, Trần Văn Yên, Trần Đường, Trần Hữu Gia.
Sau Đại hội, với quyết tâm của cán bộ, đảng viên, Nhân dân, năm 1975, Hương Khê đã đạt được một số kết quả tích cực. Toàn huyện có 65 hợp tác xã nông nghiệp với 15.649 hộ xã viên. Trong đó có 39 hợp tác xã dưới 100 ha, 13 hợp tác xã từ 100 - 150 ha, 7 hợp tác xã từ 150 - 200 ha, 2 hợp tác xã từ 200 - 250 ha, 4 hợp tác xã từ 300 - 350 ha.
Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng (cả năm) của Hương Khê thời kỳ 1964 - 1975[81] dù không thay đổi lớn nhưng có phát triển:
Năm
|
Diện tích (ha)
|
Sản lượng (tấn)
|
Lúa: 1964
|
8.934
|
10.463
|
1971
|
9.254
|
9.720
|
1974
|
9.227
|
10.109
|
1975
|
9.115
|
11.658
|
Ngô: 1964
|
849
|
1.207
|
1971
|
645
|
691
|
1974
|
938
|
1.006
|
1975
|
916
|
1.012
|
Khoai lang 1964
|
1.276
|
4.326
|
1971
|
1.363
|
3.015
|
1974
|
1.676
|
5.752
|
1975
|
1.897
|
7.021
|
Sắn 1964
|
748
|
3.852
|
1971
|
746
|
2.661
|
1974
|
596
|
2.359
|
1975
|
615
|
2.966
|
Lạc 1964
|
815
|
205
|
1971
|
678
|
447
|
1974
|
54
|
51
|
1975
|
32
|
28
|
Mía 1964
|
86
|
1.290
|
1971
|
62
|
1.880
|
1974
|
15
|
376
|
1975
|
40
|
992
|
Rau các loại 1971
|
250
|
1.250
|
1974
|
152
|
1.032
|
1975
|
232
|
1.624
|
Đậu các loại 1964
|
614
|
150
|
1971
|
158
|
19
|
1974
|
512
|
46
|
1975
|
415
|
114
|
Đàn trâu, bò ở Hương Khê thời kỳ 1964 - 1975 nhìn chung có sự phát triển. Số lượng trâu năm 1964: 9.557 con, năm 1971: 9.299 con, năm 1974: 10.025 con, năm 1975: 9.812 con. Số lượng bò năm 1964: 7.650 con, năm 1971: 7.581 con, năm 1974: 9.073 con, năm 1975: 9.522 con
Một thay đổi lớn là từ cuối năm 1975, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã được sáp nhập lại thành tỉnh Nghệ - Tĩnh. Từ đây, Hương Khê trở thành một huyện trung du miền núi của Nghệ - Tĩnh, phạm vi hành chính vẫn được giữ nguyên như cũ. Trong các tháng cuối năm 1975 đầu năm 1976, Đảng bộ huyện đã tổ chức nhiều hội nghị, hội họp trong Đảng bộ, tổ chức nhiều đợt sinh hoạt trong Nhân dân phổ biến chủ trương của cấp trên, phân tích thuận lợi, khó khăn của cục diện mới, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện chủ trương chung của Trung ương, của tỉnh, tăng cường mối đoàn kết truyền thống vốn có của hai tỉnh, nhất là niềm tự hào chung về phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh năm 1930 - 1931.
Mặc dù có không ít ý kiến nêu lên những khó khăn sau khi nhập hai tỉnh, do địa lý quá lớn, giao thông trở ngại, không đồng đều về kinh tế... sẽ hạn chế cho sự phát triển của Hương Khê, song trong đà tiến triển chung và tinh thần phấn khởi lạc quan của Nhân dân, việc hợp nhất Nghệ - Tĩnh đã hoàn thành nhanh gọn, không có xáo động lớn đối với Hương Khê. Trong một số năm đầu, với thế và lực của một tỉnh vào loại lớn nhất nước cả về diện tích và dân số, tỉnh Nghệ - Tĩnh đã phát huy vai trò của mình trong xây dựng và bảo vệ địa phương, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cùng với sản xuất và không khí sáp nhập tỉnh, đầu năm 1976, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo cuộc bầu cử Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Với tinh thần biến cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thành “ngày hội thống nhất non sông”, các cấp, các ngành trong huyện đã có nhiều hoạt động tuyên truyền cổ vũ cho ngày bầu cử, gây không khí vui tươi, phấn khởi, thu hút mọi tầng lớp Nhân dân tham gia. Ngày 25/4/1976, gần 100% cử tri toàn huyện đã nô nức đi bầu cử Quốc hội chung, Quốc hội khoá VI, thể hiện ý thức làm chủ cao và sự tin tưởng vào chế độ mới của Nhân dân Hương Khê. Đồng thời cũng là huyện có tỷ lệ cử tri đi bầu cao nhất tỉnh Nghệ - Tĩnh.
Nhìn chung, đến cuối năm 1976, cơ bản Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo quân dân trong huyện chuyển các mặt hoạt động thời chiến sang thời bình, trong mối quan hệ chung thuộc tỉnh Nghệ - Tĩnh. Mặc dù việc huy động nhân tài, vật lực không mang tính khẩn cấp, đột xuất như trong thời chiến, song huyện cũng đã có nhiều đợt huy động dân công thực hiện một số nhiệm vụ của tỉnh, như huy động nhân công tham gia xây dựng công trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ - Bộc Nguyên. Đối với Hương Khê lúc này là một huyện trung du, miền núi, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, chậm phát triển ... nên sự chỉ đạo, đầu tư của tỉnh cũng có những lúc, những việc không được sâu sát, kịp thời như trước. Sự giao lưu với các địa phương vùng Hà Tĩnh cũ có phần giảm sút mà hướng mạnh ra trung tâm của tỉnh là thành phố Vinh. Vì vậy, giao thông trở thành vấn đề bức xúc, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của Nhân dân trong huyện.
Thực hiện chủ trương chung hướng tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ - Tĩnh lần thứ IX và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, từ ngày 27/5 đến ngày 31/5/1976, Đảng bộ Hương Khê đã tiến hành Đại hội lần thứ XVIII tại Trường Đảng huyện. Dự Đại hội có 150 đại biểu chính thức, 23 đại biểu khách mời.
Đánh giá ưu, khuyết điểm về lãnh đạo xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá thời kỳ 1975 - 1976, Nghị quyết Đại hội nêu rõ:
Về ưu điểm: Trong sản xuất nông nghiệp, bước đầu huyện đã phân vùng kinh tế, xác định phương hướng sản xuất và cơ cấu cây trồng theo hướng tập trung chuyên canh, thâm canh. Kết quả là lúa tăng 2,4%, diện tích màu tăng 6,8% so với năm 1974. Tổng sản lượng lương thực đạt 16.600 tấn, tăng hơn năm 1974 là 4.590 tấn, cũng là năm có tổng sản lượng lương thực cao nhất từ năm 1966 về sau. Trong vụ sản xuất Đông Xuân 1976, tuy bước đầu gặp nhiều khó khăn chưa từng có do giá rét và hạn hán, nhưng Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân vượt qua và giành một vụ chiêm Xuân có triển vọng được mùa. Một thắng lợi lớn của ngành nông nghiệp Hương khê trong năm 1976 là khai hoang được hơn 1.000ha đất sản xuất trồng cây ngô lai 5 cho năng suất 5 - 6 tấn/ha. Kết quả này góp phần tăng sản lượng lương thực và giải quyết yêu cầu đời sống cho Nhân dân. Đây là thắng lợi lớn của ngành nông nghiệp Hương Khê sau kháng chiến chống Mỹ.
So với năm 1975, đàn trâu bò tăng hơn 960 con, đàn lợn tăng 3,2%; một số hợp tác xã đã tổ chức nuôi vịt đàn và nuôi cá; trồng cây đạt 108%, khai thác gỗ tròn trong khu vực hợp tác xã đạt 120%, thủ công nghiệp có một số mặt cố gắng như đốt vôi, đốt gạch. Công tác thuỷ lợi và giao thông đạt một số thành tích, xây dựng được một số trường học, trạm xá, cửa hàng. Việc điều phối và huy động lao động có nhiều cố gắng, điều hơn 2.000 người đi làm nghĩa vụ thuỷ lợi dài hạn.
Bên cạnh đó, Hương Khê còn nhiều mặt yếu kém chưa khắc phục được, nhiều chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng lương thực chỉ đạt 16.600 tấn trên chỉ tiêu 19.000 tấn, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất còn chậm, vị trí màu còn yếu, chăn nuôi phát triển chậm, nghĩa vụ cho Nhà nước không hoàn thành. Công tác văn hoá, đời sống phát triển chậm, quản lý hợp tác xã còn lúng túng và buông lỏng quản lý. Trong xây dựng Đảng, nhận thức của cán bộ, đảng viên không kịp với tình hình và nhiệm vụ mới, lập trường giai cấp, quan điểm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; nhận thức về vị trí của ba cuộc cách mạng chưa đầy đủ, chưa nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chưa gắn xây dựng Đảng với nhiệm vụ chính trị. Vai trò của chính quyền và các tổ chức quần chúng chưa được chú trọng, việc tổ chức lại sản xuất thực hiện chậm từ huyện đến cơ sở.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 1976 - 1977 là: Quán triệt sâu sắc chủ trương chung tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và khẩu hiệu “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của Nhân dân”; nắm vững đặc điểm của huyện là một huyện trung du miền núi, có tiềm lực kinh tế ba thế mạnh là trồng trọt, chăn nuôi và nghề rừng; tập trung cao độ sự lãnh đạo cửa Đảng bộ, phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng, đảm bảo quyền làm chủ tập thể của Nhân dân, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, tăng cường công tác chính trị tư tưởng và tổ chức quản lý, xây dựng nền kinh tế mới, nông thôn mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, điều hành tốt 2 vạn lao động có năng suất lao động cao, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, chống ỷ lại, ra sức tranh thủ sự viện trợ vật tư tiền vốn, khoa học - kỹ thuật và cơ giới hoá nông nghiệp của Nhà nước; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, từng bước đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu được Đại hội nêu ra là năm 1977 phấn đấu đạt 25.000 tấn lương thực, trong đó 10.500 tấn màu quy thóc, 17.700 ha (chiếm 40% về diện tích gieo trồng cả năm), cây lương thực 14.550 ha, lúa chiêm Xuân 4.500 ha, năng suất 17 tạ, lúa mùa 500 ha, năng suất 15 tạ, ngô cả năm 2.900 ha, năng suất 18 tạ, khoai cả năm 1.500 ha, năng suất 60 tạ, vừng 300 ha, năng suất 2,5 tạ, chí xác 50 ha, bưởi Phúc Trạch 1.500 ha. Tổng đàn trâu lên 10.500 con, bò 11.500 con, lợn 22.500 con, nuôi 10.000 vịt. Trồng 500 ha rừng, khai thác 2 vạn m3gỗ, 1 vạn tấn củi, 3,5 triệu cây nứa, 300 tấn than, 150 tấn song mây, 3.000 tấn vôi, 3 triệu viên gạch, phát triển ngành đan lát, may mặc, chế biến gỗ, thảm xuất khẩu, củng cố nghề rèn sản xuất công cụ cầm tay, củng cố Xí nghiệp cơ khí Trường Sơn thành trung tâm công nghiệp cơ khí của huyện. Làm nghĩa vụ với Nhà nước 1.450 tấn lương thực, 200 tấn thịt lợn, 170 tấn thịt trâu bò, 500 con trâu bò cày kéo, 150 tấn đậu, 50 tấn dược liệu, 10 vạn cây tre, 1,5 triệu lá tro. Giá trị tổng sản lượng là 13,5 triệu đồng. Bảo đảm 1 lao động, 1 ha gieo trồng, 3,5 tấn thóc, 1,6 con lợn. Mức ăn bình quân 19 kg lương thực mỗi tháng, trong đó 40% là màu quy thóc.
Theo chủ trương tổ chức lại sản xuất, Đại hội quyết định chia huyện thành 4 vùng kinh tế là:
Vùng 1 gồm 5 xã: Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Hương Lâm, Hương Liên. Hướng cây trồng là thâm canh lúa 2 vụ, mở rộng ngô, sắn, bưởi Phúc Trạch. Chăn nuôi là trâu bò đàn, cải tạo đồng cỏ, quy hoạch một số trại chăn nuôi lợn, nuôi cá, ong, vịt đàn. Phối hợp cân đối giữa kinh tế nông nghiệp và lâm nghiệp, phát triển đốt vôi, gạch, ngói.
Vùng 2 gồm 12 xã: Phúc Đồng, Hoà Hải, Hương Bình, Hương Long, Phú Gia, Phú Phong, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Lộc Yên, Gia Phố, Hương Thuỷ, Hương Giang. Hướng sản xuất là thâm canh, chuyên canh lúa 2 vụ, ngô, sắn, khoai lang. Đưa năng suất lúa từ 3,1 tấn lên 3,5 tấn/ha cả năm. Phát triển cây công nghiệp như: vừng, chè xanh, mở rộng chăn nuôi lợn tập thể, vịt đàn, cá ao hồ, đốt vôi, gạch, ngói, mở rộng xưởng mộc, cơ khí Trường Sơn. Phân bố hợp lý lao động và cân đối kinh tế nông nghiệp và lâm nghiệp, trồng cây đồi trọc, trồng cây vùng rừng đã khai thác ở Lâm trường Hương Khê, Chúc A và khai thác lâm sản.
Vùng 3 gồm 3 xã: Phương Mỹ, Phương Điền, Hà Linh. Hướng sản xuất cả vùng thấp lụt này là thâm canh lúa chiêm xuân có năng suất 20 tạ/ha, vụ Thu phải làm sớm, bỏ bớt diện tích bấp bênh không ăn chắc. Đưa dân lên đồi lấy diện tích phát triển hoa màu, trọng tâm là ngô Đông, ngô Xuân và cây thực phẩm. Chăn nuôi trâu bò đàn, nuôi lợn, vịt đàn. Phối hợp cân đối nông nghiệp và lâm nghiệp, trồng cây đồi trọc, khai thác lâm sản phụ.
Vùng 4 gồm 5 xã: Vũ Quang, Hương Minh, Hương Điền, Hương Thọ. Hướng sản xuất là thâm canh hai vụ lúa, mở rộng trồng ngô Đông, Xuân, Thu, trồng mía, vừng, đậu. Chăn nuôi lợn, trâu bò đàn, nuôi cá, trồng cây và khai thác lâm sản.
Ngoài ra, Đại hội cũng nêu lên các biện pháp về khai hoang mở rộng diện tích, luân canh cây trồng, tổ chức đội chuyên làm phân bón, nghiêm cấm sử dụng ruộng đất trái phép. Các hợp tác xã phải tổ chức đội chuyên sản xuất giống lúa mới, ngô lai, củng cố trại lợn giống của huyện, của Nông trường 20-4. Phải hoàn chỉnh thuỷ nông, xây dựng đồng ruộng, làm giao thông vận tải và cải tiến công cụ. Củng cố hoàn chỉnh các công trình thuỷ nông Đá Bạc, Khe Con, đập Làng, Khe Trồi. Hoàn thành đường trục đi Vũ Quang, khảo sát đường bắc Địa Lợi đi Hương Đô, gấp rút xây dựng các tuyến đường ngang huyện nối liền với đường sắt, đường 71, đường 15 của Trung ương, phát triển đường lâm nghiệp. Bảo đảm công cụ thường, một phần công cụ cải tiến, máy thủ công chế biến hoa màu, xe cải tiến nông thôn 60 - 70%.
Bảo đảm nghĩa vụ lao động với Nhà nước về xây dựng cơ bản và quân sự, tuyển sinh. Số lao động còn lại sử dụng 63% cho trồng trọt và chăn nuôi, 10% cho ngành, nghề rừng, 20% cho xây dựng cơ bản, 5% cho sản xuất thủ công, 6% cho dự phòng. Mỗi lao động trong độ tuổi bảo đảm 30 ngày công nghĩa vụ dân công cho Nhà nưóc và 15 - 30 công cho xây dựng kinh tế địa phương, xây dựng phúc lợi trong xã, huyện.
Trong văn hoá, phải chú trọng tuyên truyền giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng gia đình văn hoá mới, chăm sóc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, sinh đẻ có kế hoạch, quan tâm lao động nữ. Thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc gia đình có công với cách mạng, tai nạn chiến tranh. Nâng cao chất lượng giáo viên và học sinh, tăng cường xây dựng trường, lớp, phát triển văn hoá, văn nghệ quần chúng đảm bảo nội dung chính trị, phát triển thể dục thể thao, rèn luyện thân thể. Bảo đảm bưu điện truyền thanh, phát hành báo chí phục vụ tốt sản xuất, đời sống tinh thần quần chúng.
Quán triệt xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ tài sản Nhà nước và tập thể. Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân, tự vệ, công an, làm tròn nghĩa vụ tuyển quân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố các ngành nội chính phát huy hiệu lực là công cụ bảo vệ chế độ mới.
Trong xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương tăng cường học tập chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần Nghị quyết 23 của Trung ương Đảng, phấn đấu năm 1977 mọi đảng viên học xong chương trình cơ sở. Trường Đảng huyện thường xuyên mở lớp cho cán bộ chủ chốt các xã, cơ quan, nông lâm trường, xí nghiệp. Phát huy kết quả đợt thực hiện Nghị quyết 195 và Chỉ thị 192 và Thông tri 315 về bảo vệ nội bộ của Trung ương Đảng. Mỗi năm tổ chức hai lần phê bình, tự phê bình cho đảng viên toàn Đảng bộ, bảo đảm năm 1977 có 90% đảng viên đạt tích cực. Chú trọng phát huy vai trò làm chủ tập thể của Nhân dân lao động, củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, tăng cường xây dựng các đoàn thể quần chúng như: Đoàn Thanh niên Lao động, Hội Phụ nữ, Mặt trận, Công đoàn. Đặc biệt phải ra sức xây dựng chính quyền, đề cao vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1976 - 1977 với 32 ủy viên (cả dự khuyết). Bí thư Huyện ủy là đồng chí Phan Văn Đệ; Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Nguyễn Xuân Hương; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là đồng chí Phan Xuân Bằng. Các ủy viên Ban Thường vụ là: Trần Hữu Gia, Trịnh Lưu, Trần Khoa, Phan Văn Quý, Trần Văn Yên, Trần Văn Đường.
Trong những năm sau 1976 - 1977, phong trào đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong huyện vẫn duy trì và lên cao. Hàng ngàn cựu chiến binh lại tái ngũ, hàng ngàn thanh niên Hương Khê lại tiếp tục lên đường tòng quân khi chiến tranh biên giới xảy ra. Số lượng học sinh đến trường, đội ngũ cán bộ cơ quan tiếp tục tăng. Nhiều công nông, lâm trường, trạm, trại được thành lập, mở rộng quy mô sản xuất. Các công trình lớn xây dựng thị trấn được xúc tiến. Lớp lớp dân công đã thay nhau đi xây dựng các công trình thủy lợi lớn trong tỉnh như: công trình đại thuỷ nông Kẻ Gỗ, kênh mương ở Can Lộc, đê La Giang...
Tại công trường đại thuỷ nông hồ Kẻ Gỗ, dân công, thanh niên Hương Khê đã đảm nhiệm đào kênh, đoạn K12+700 đến K13, bắt đầu từ ngày 1/7 và hoàn thành vào ngày 30/9/1976. Thi công kênh cấp I đoạn K3 + 350 đến K6 + 096 từ ngày 28/2 đến ngày 30/6/1976. Dân công Hương Thuỷ, Hương Trạch làm cầu đường bộ, cống tiêu nước ở K5 + 450, từ ngày 1/7 đến ngày 30/7/1976, ở K5 + 394, từ ngày 1/5 đến 30/5/1976, ở K4 + 920 từ ngày 1/9 đến ngày 30/9/1976, ở K8+310 và ở K8 + 500 từ ngày 15/11 đến ngày 15/12/1976,... “Tổng đội Hương Khê từ ngày khởi công đến hết năm, đơn vị đã giữ vững quân số trên hiện trường, nhất là những tháng ngày mưa, đơn vị di chuyển nhiều lần, khắc phục khó khăn, giải quyết nhà cửa nhanh gọn, tự túc công cụ và sử dụng công cụ cải tiến 100%, làm với chất lượng tốt. Hương Thuỷ là đơn vị đầu tiên làm công trình bê tông tốt. Công tác Đảng, Đoàn gắn chặt nhiệm vụ chính trị”[82].
Từ ngày 28 đến ngày 31/5/1977, Hương Khê đã tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX. Dự Đại hội có 150 đại biểu chính thức, 23 khách mời. Đồng chí Nguyễn Tiến Chương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trần Quang Đạt, Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh dự và chỉ đạo Đại hội. Ban Chấp hành do Đại hội bầu ra có 29 ủy viên.
Bí thư Huyện ủy là đồng chí Phan Văn Đệ, Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Nguyễn Xuân Hương, Phó Bí thư, Chủ tịch là đồng chí Phan Xuân Bằng. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí: Trần Khoa, Trịnh Lưu. Ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Trần Hữu Gia, Trần Văn Yên, Trần Đường, Phan Văn Tích.
Về đánh giá tình hình năm 1976 và 6 tháng đầu năm 1977, Đại hội nhận định: Năm 1976, Đảng bộ đã quán triệt các Nghị quyết 23, 24, 61, Chỉ thị 208 của Trung ương, Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy, thấy được tiềm năng kinh tế của huyện. Đã tranh thủ được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân nên tạo được nhiều phong trào lao động sản xuất, công tác, học tập sôi nổi trong toàn huyện.
Tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai nặng nề, cơ sở vật chất yếu kém, đời sống ở một số vùng giảm sút mạnh, song sản xuất nông nghiệp tăng về diện tích, nhất là các loại cây màu, khoai lang, vừng đen xuất khẩu, bưởi Phúc Trạch. Sản xuất lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cơ khí Trường Sơn đều vượt kế hoạch. Một số hợp tác xã đi vào chuyên canh, chăn nuôi trâu, bò, lợn tập thể và hộ xã viên đều tăng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật hợp tác xã có tăng, sự điều hành lao động đảm bảo yêu cầu đặt ra vừa hoàn thành nghĩa vụ Nhà nước, vừa thực hiện việc di dời dân, cất bốc mồ mả, khai hoang phục hoá mở rộng diện tích 1.000 ha, hoàn thành dứt điểm một số công trình về thuỷ lợi, giao thông, phúc lợi tập thể. Việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo Chỉ thị 208 của Trung ương đạt kết quả tốt. Văn hoá - xã hội tiếp tục có nhiều tiến bộ. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, kiểm tra có chuyển biến rõ nét, tiến bộ trên một số mặt.
Bên cạnh các kết quả đã đạt được, Đại hội cũng thẳng thắn thừa nhận một số hạn chế trong thời kỳ này. Trong nông nghiệp, chỉ tiêu một số cây trồng và tổng sản lượng chưa đạt kế hoạch, các hợp tác xã chưa đi sâu vào thâm canh, năng suất lúa và màu đạt thấp, tiếp thu cách mạng khoa học - kỹ thuật yếu, chăn nuôi, tiểu thủ công, vôi bón ruộng, vật liệu xây dựng phát triển chậm, nghề rừng còn yếu. Công tác trật tự trị an xã hội, quản lý kinh tế, kỹ thuật lúng túng. Năng lực vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng vào địa bàn huyện còn yếu, vai trò các đoàn thể quần chúng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tư tưởng bảo thủ, sản xuất nhỏ tồn tại ở nhiều nơi, cản trở phong trào chung.
Đại hội đã nêu lên phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu cho thời kỳ 1977 - 1980, nhất là cho hai năm 1977 - 1978 là: Tập trung cao độ sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng, đảm bảo quyền làm chủ tập thể của Nhân dân, tăng cường hệ thống chuyên chính vô sản, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó lấy cách mạng khoa học - kỹ thuật làm then chốt. Tiến hành phân bổ, điều hành tốt 2,7 vạn lao động, 1,6 vạn con trâu bò cày kéo, kết hợp một phần cơ giới hoá nông nghiệp có trọng điểm, từng bước đưa kinh tế tập thể và toàn dân đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, mở rộng diện tích đi đôi với thâm canh cả lúa và màu. Phát triển chăn nuôi, phát triển mạnh nghề rừng, không ngừng phát triển công nghiệp cơ khí, tiểu thủ công nghiệp, chế biến, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp và phúc lợi tập thể, tăng nhanh mặt hàng xuất khẩu, cải tiến một bước về tổ chức quản lý, lưu thông phân phối, không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân về mọi mặt. Tập trung giải quyết bằng được mục tiêu lương thực, thực phẩm.
Chỉ tiêu một số lĩnh vực đến năm 1978 là 31.000 tấn lương thực, trong đó có 13.000 tấn màu quy thóc, bình quân đầu người là 330 kg. Trâu 11.100 con, bò 11.500 con, lợn 24.000 con, vịt 15.000 con. Trồng 1.200 ha rừng, 200 ha bưởi Phúc Trạch, khai thác 45.000 m3gỗ, 3,5 triệu cây nứa. Hoàn thành nghĩa vụ cho Nhà nước với 2.000 tấn lương thực. Tổng giá trị sản lượng các mặt đạt 23 triệu đồng, trong đó hàng xuất khẩu đạt 4,5 triệụ đồng...
Thực hiện nghị quyết của Đại hội, cuối năm 1977, Hương Khê đạt được nhiều kết quả quan trọng, giữ vững vị trí là huyện trung bình khá của khu vực các huyện trung du của Nghệ - Tĩnh[83].
Nội dung
|
Năm 1977
|
So với năm 1976 (%)
|
Mức chung 6 huyện trung du Nghệ - Tĩnh (%)
|
Tổng diện tích gieo trồng (ha)
|
12.909
|
112,13
|
110,00
|
Diện tích cây lương thực (ha)
|
12.198
|
108,31
|
109,81
|
Diện tích lúa (ha)
|
8.770
|
94,99
|
91,30
|
Diện tích lúa Đông Xuân (ha)
|
4.096
|
102,3
|
99,3
|
Diện tích lúa vụ Thu (ha)
|
689
|
72,56
|
62,89
|
Diện tích lúa mùa (ha)
|
4.194
|
86,81
|
87,65
|
Diện tích màu (ha)
|
3.244
|
151,39
|
149,29
|
Diện tích ngô (ha)
|
975
|
218,15
|
154,45
|
Diện tích khoai lang (ha)
|
1.453
|
125,32
|
137,61
|
Diện tích sắn (ha)
|
752
|
96,14
|
166,43
|
Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày (ha)
|
285
|
107,71
|
104,08
|
Diện tích lạc (ha)
|
35
|
40,00
|
75,25
|
Diện tích cây thực phẩm (ha)
|
373
|
241,28
|
125,71
|
Diện tích cây thức ăn gia súc (ha)
|
3
|
133,33
|
104,34
|
Sản lượng lương thực (tấn)
|
16.474
|
102,81
|
90,99
|
Sản lượng lúa cả năm (tấn)
|
10.695
|
100,02
|
84,59
|
Sản lượng lúa Đông Xuân (tấn)
|
6.504
|
100,36
|
79,07
|
Sản lượng lúa Thu (tấn)
|
593
|
27,82
|
34,34
|
Sản lượng lúa vụ mùa (tấn)
|
3.598
|
111,31
|
101,50
|
Năng suất lúa mùa (tạ/ha)
|
18,58
|
59,20
|
115,67
|
Sản lượng màu quy thóc (tấn)
|
5.779
|
107,95
|
103,45
|
Sản lượng khoai lang (tấn)
|
6.805
|
101,54
|
106,27
|
Sản lượng sắn (tấn)
|
3.609
|
110,11
|
136,56
|
Sản lượng ngô (tấn)
|
1.211
|
180,51
|
85,23
|
Sản lượng lạc (tấn)
|
24
|
37,50
|
61,11
|
Tổng đàn trâu (1/10/77) (con)
|
9.781
|
94,44
|
99,14
|
Tổng đàn bò (con)
|
10.466
|
104,80
|
105,04
|
Tổng đàn lợn (con)
|
19.734
|
95,00
|
91,50
|
Hai năm 1977 - 1978, trên địa bàn huyện xảy ra rét đậm, rét hại làm trâu, bò chết nhiều, Ban Thường vụ Huyện ủy đã đưa ra chính sách hỗ trợ kích thích phát triển chăn nuôi: hộ gia đình nuôi 2 con trâu, bò đẻ thì được nhận 1 con, hợp tác xã 1 con… Từ đó, bà con tích cực chăm sóc, số trâu, bò chết rét giảm rất nhiều. Bên cạnh đó, khuyến khích gia đình xã viên khoai hoang đất đồi trồng sắn: đất khai hoang hộ gia đình được sử dụng trong 5 năm, sau 5 năm chuyển về cho hợp tác xã quản lý, còn đất phục hóa thì sau 3 năm hợp tác xã thu lại. Vì vậy, phong trào khai hoang phục hóa, trồng sắn trở thành phong trào phát triển rầm rộ khắp nơi trong huyện.
Giai đoạn này, đội ngũ cán bộ huyện được tăng cường: cán bộ khoa học - kỹ thuật tháng 7/1977 có: 188 người (29 nữ), trong đó 91 người tốt nghiệp trung học (12 nữ), 97 người tốt nghiệp sơ học (17 nữ), vào loại thấp của Hà Tĩnh và Nghệ Tĩnh. Số cán bộ này chủ yếu được đào tạo ngành trồng trọt, chăn nuôi, thú y, ít cán bộ quản lý kinh tế, ít thuỷ lợi, không có thuỷ sản. Cán bộ hợp tác xã có 178 người (27 nữ), trong đó trung học 87 (12 nữ), sơ học 91 (15 nữ) vào loại trung bình ở Hà Tĩnh và Nghệ - Tĩnh.
Thực hiện chủ trương chung của Đảng về tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mở rộng diện tích và quy mô hộ của hợp tác xã, sau Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX (5/1977), việc di dân, cất bốc mồ mả từ vùng ven sông, ngoài đồng lên vùng đồi núi được đẩy mạnh. Đây là một biến động to lớn, có tính cách mạng sâu rộng ở Hương Khê với mục đích biến các làng xóm ven sông, các vườn tược gia đình thành ruộng đồng để tăng diện tích canh tác.
Các xã ven sông Ngàn Sâu như Hương Phố, Hương Thịnh, Hương Giang, Hương Thuỷ, Hương Tân, Hương Hà, Hương Thanh, Hương Thu, Hương Thái,... là trọng điểm của cuộc di dời này. Trong năm 1978, không khí đào chặt cây cối, cất bốc mồ mả, di chuyển nhà cửa, đình chùa, nhà thờ, trường học, trạm xá... lên đồi “thượng sơn hạ hương” diễn ra một cách rầm rộ. Các xã không thuộc diện di dời đã cử lao động đến trợ giúp các xã phải di dời.
Cuộc di chuyển dân cư, mồ mả đã giải phóng được hàng trăm ha đất vườn, nghĩa địa thành ruộng đồng sản xuất hai, ba vụ. Dân cư được quy tụ trên những vùng đồi cao, thoát cảnh lũ lụt hàng năm. Nhiều khu dân cư mới được hình thành, càng về sau càng khang trang, có nhiều nơi trở nên trù phú.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn tổng thể, đến năm 1978, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp đã không còn phù hợp, làm giảm sút động lực của sản xuất, kinh doanh, nảy sinh tâm lý trông chờ, ỷ lại. Kế hoạch hoá chủ quan, duy ý chí, cứng nhắc đã dẫn tới việc đề ra các kế hoạch, chỉ tiêu, lập các báo cáo không đúng thực tế... Tình hình kinh tế, xã hội của Hương Khê ngày càng lâm vào khủng hoảng, sản xuất sút kém, đời sống Nhân dân khó khăn thêm, nhiều tiêu cực nảy sinh.
Từ ngày 23 đến ngày 26/8/1979, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ thứ XX, tại Thị trấn Hương Khê, có 154 đại biểu tham dự, thay mặt cho 5.300 đảng viên và 20 khách mời. Đồng chí Nguyễn Tiến Chương, Phó Bí thư và nhiều ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh đã về dự. Ban Chấp hành do Đại hội bầu ra có 33 ủy viên. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Phan Văn Đệ (Tỉnh ủy viên), Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Nguyễn Xuân Hương; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân là đồng chí Trần Khoa. Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là các đồng chí Phan Văn Quý, Từ Toàn. Ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí Lê Văn Trọng, Trần Hữu Gia, Trần Văn Yên, Trần Đường.
Qua 3 ngày trù bị và 3 ngày chính thức, Đại hội đã khẳng định tình hình Hương Khê mấy năm qua tuy có những thuận lợi, song cũng có nhiều khó khăn lớn, nhất là trận lụt kỷ lục năm 1978, gây cho huyện nhiều thiệt hại về nông nghiệp. Trong khi đó, huyện vẫn liên tục tuyển quân phục vụ các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, đồng thời ra sức đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch... Do đó, đời sống Nhân dân tiếp tục khó khăn, thiếu thốn. Khắc phục khó khăn, Đảng bộ đã phát huy ba thế mạnh là lao động, đất đai, tài nguyên, đã từng bước tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, đưa màu lên đồi... Vì vậy đã tăng diện tích canh tác từ 9.500 ha năm 1975 lên 10.500 ha năm 1978, diện tích gieo trồng từ 14.000 ha năm 1977 lên 15.700 ha năm 1978...
Tuy nhiên, Đại hội đánh giá, chuyển biến của Hương Khê trong giai đoạn này còn chậm, chưa toàn diện, vững chắc. Thâm canh yếu, cơ cấu cây con chưa đổi mới hợp lý, màu phát triển chậm, xây dựng công trình thiếu đồng bộ. Công tác quản lý bị buông lỏng trên nhiều mặt. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, củng cố quan hệ sản xuất còn nhiều tồn tại... Ngoài nguyên nhân khách quan, thì chủ quan là do buông lỏng quản lý kinh tế, kế hoạch không cân đối, hình thức phân phối bình quân không khuyến khích tinh thần người lao động, chưa có đội ngũ cán bộ, đảng viên biết làm ăn trong hoàn cảnh mới...
Sau Đại hội lần thứ XX, trong xu hướng chung của toàn tỉnh và cả nước, Đảng bộ đã tiếp tục tập trung xây dựng kinh tế tập thể, mở rộng quy mô hợp tác xã theo hướng đi lên quy mô lớn. Và đây cũng chính là thiếu sót quan trọng của Hương Khê về mặt xây dựng kinh tế, càng ngày càng sa vào tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí.
Quy mô hợp tác xã ở Hương Khê thời kỳ 1975 - 1979[84]
Nội dung
|
Số hợp
tác xã 1975
|
Bình quân diện tích
1975
|
Số hợp
tác xã
1977
|
Số hợp
tác xã
1979
|
Bình
quân
diện tích 1979
|
Số lao
động
1979
|
Hương Khê
|
65
|
120
|
42
|
35
|
235
|
692
|
13 huyện đồng bằng
|
721
|
237
|
451
|
435
|
393
|
1102
|
6 huyện trung du
|
329
|
156
|
229
|
188
|
274
|
825
|
6 huyện miền núi
|
257
|
28
|
378
|
363
|
28,4
|
170
|
Toàn Nghệ - Tĩnh
|
1407
|
165
|
1058
|
986
|
236
|
706
|
Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo xây dựng mô hình cấp huyện, tiếp tục đầu tư nhiều kinh phí, công sức cho việc xây dựng trung tâm mới của huyện tại vùng giáp ranh giữa Hương Phong, Hương Phố, Hương Long. Cùng với khu vực Thị trấn, nhiều xã cũng đã đẩy mạnh xây dựng trụ sở, trường học, trạm xá, nhà trẻ, đường giao thông nội bộ, làm cho bộ mặt nông thôn có những khởi sắc. Phong trào di dân lên đồi được thi hành ở nhiều nơi, nhất là các làng xóm ven sông Ngàn Sâu.
Trên mặt trận thuỷ lợi, nhiều đập lớn được nâng cấp, xây dựng. Ngoài các công trình do tỉnh quản lý, thời kỳ này Hương Khê được Nhà nước đầu tư 2.305.000 đồng để làm thuỷ lợi. Toàn huyện đã đào đắp được gần 2 triệu m3, với 2,7 triệu ngày công. Xã Hương Bình có công trình Đá Bạc, chủ động tưới tiêu cho 150 ha. Xã Hương Giang có đập Khe Con, tưới cho 194 ha. Xã Phúc Trạch có đập Cây Trồi, tưới cho 155 ha. Xã Gia Phố có đập Động Dài, tưới cho 60 ha, đập Rú Mạo tưới cho 20 ha, Ông Đọn tưới cho 10 ha, Đá Hàn tưới cho 160 ha. Phúc Đồng có La Giang, tưới cho 50 ha, đập Mưng tưới cho 20 ha. Hương Long có đập Họ, tưới cho 80 ha, đập Bượm tưới cho 70 ha. Vùng dân tộc thiểu số ở xã Hương Vĩnh có đập Bản Giàng, đảm bảo tưới, tiêu cho 50 ha. Ngoài ra còn có các đập, như đập Ma Ca tưới cho 50 ha, đập Hội tưới cho 50 ha, đập Tráng tưới cho 40 ha, đập Thuộc tưới cho 8 ha,...
Do được tăng thêm diện tích tưới tiêu, có thêm một số diện tích canh tác sau khi di dân lên đồi, sản lượng, năng suất lương thực ở nhiều xã và cả huyện có tăng lên, có thêm sản phẩm nông sản làm nghĩa vụ và trao đổi hai chiều với Nhà nước.
Về sản xuất hàng xuất khẩu, Hương Khê là một huyện có nhiều tiềm năng. Hương Khê có diện tích 1.850 km2 và 92.200 nhân khẩu, trong đó có 39.650 lao động; diện tích canh tác 8.500 ha, trong đó ruộng lúa hai vụ là 5.200 ha, rừng 110.300 ha chiếm 60 % diện tích tự nhiên, trữ lượng gỗ là 8.480.000 m3, nứa có 13.945.000 cây, đất có độ dốc 12/20° để chăn nuôi có 25.980 ha. Với nhiều cố gắng, cơ cấu cây trồng của huyện đã hình thành khá rõ, thế mạnh là cam, chanh, bưởi, vừng. Hương Khê có một số nguyên liệu cung cấp cho các ngành thủ công nghiệp của các huyện khác, bảo đảm 75% tổng giá trị xuất khẩu của huyện. Riêng về nghĩa vụ xuất khẩu, trong 3 năm 1976 - 1978, huyện đã thực hiện được một khối lượng khá lớn, song có xu hướng giảm sút hoặc tăng chậm:
Nội dung
|
1976
|
1977
|
1978
|
Tổng giá trị (đ)
|
477.450
|
338.840
|
269.400
|
Bình quân đầu người (đ)
|
5,18
|
3,67
|
2,92
|
Bưởi quả (tấn)
|
93
|
28
|
50
|
Cam chanh (tấn)
|
293
|
360
|
189
|
Vừng (tấn)
|
40
|
20
|
44
|
Còng cọ
|
234
|
298
|
250
|
Mây sợi (ngàn sợi)
|
4.538
|
1.231
|
270
|
Nhằm phát huy thế mạnh của địa phương, Tỉnh ủy Hà Tĩnh có chủ trương chỉ đạo huyện Hương Khê đẩy mạnh khoanh vùng trồng chè tập trung với 1.000 ha sát với Hương Sơn, để ổn định sản xuất chè đen 1,5 tấn/ha, sản lượng 1.500 tấn/năm, trị giá 9 triệu đồng. Bên cạnh đó, huyện cũng mạnh dạn mở rộng diện tích trồng bưởi lên 2.000 ha với các đội chuyên để sau 3 năm có năng suất 16 tấn/ha, sản lượng hàng vạn tấn. Khoanh vùng đồng cỏ, chăn nuôi thả 500.000 con trâu bò, đồng thời chú trọng phát triển các loại cây khác như: vừng, còng cọ, mây sợi, đót chổi...
Với truyền thống hậu phương vốn có, Đảng bộ đã tiếp tục lãnh đạo quân dân hướng về các chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo. Phong trào luyện tập quân sự được duy trì trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học. Công tác tuyển quân được bảo đảm và vượt chỉ tiêu trên giao. An ninh, trật tự được tăng cường, làm thất bại âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ địch.
Các hoạt động văn hoá, y tế, giáo dục được chú ý hơn trước. Có nhiều hình thức tuyên truyền cổ động lôi cuốn các tầng lớp Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào chung. Hệ thống giáo dục được củng cố, phát triển, thu hút đại bộ phận tuổi trẻ đến trường. Hai trường cấp III Hương Khê và Vũ Quang đã trở thành các trung tâm văn hoá lớn của huyện. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, công trường, nông lâm trường, làng xã có sân bóng đá, bóng chuyền.
Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ chú trọng. Trong bảng phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng của Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh, Đảng bộ Hương Khê có số cơ sở khá không cao, song số tương đối khá là phổ biến, số yếu kém ít so với các huyện và toàn tỉnh.
Tổng số xã đã phân tích
|
Loại khá
|
Loại tương đối khá
|
Yếu kém
|
Hương Khê: 25
|
8 (32,0%)
|
14 (56,0%)
|
3 (9%)
|
6 huyện trung du: 151
|
65 (43,0%)
|
67 (44,5%)
|
19 (12%)
|
14 huyện đồng bằng: 415
|
166 (40,0%)
|
202 (48,6%)
|
47 (11,4%)
|
Toàn tỉnh Nghệ - Tĩnh: 566
|
231 (40,8%)
|
269 (47,5%)
|
66 (11,7%)
|
Trình độ văn hoá của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê nhiệm kỳ 1979 - 1980 vào loại khá, nhưng tuổi đời cao hơn mức trung bình của khu vực huyện trung du và toàn tỉnh.
Nội dung
|
Tổng
số
|
Nữ
|
Cấp II
|
Cấp III
|
Tuổi đời
bình quân
|
Hương Khê
|
33
|
3 (9%)
|
18 (54,5%)
|
15 (45,4%)
|
39,9
|
6 huyện trung du
|
203
|
21(10,3%)
|
96 (47,2%)
|
107 (52,7%)
|
38,7
|
6 huyện miền núi
|
194
|
12 (6,1%)
|
105(51,1%)
|
72 (37,1%)
|
38,4
|
13 huyện đồng bằng
|
447
|
55 (12,3%)
|
217 (48,5%)
|
230 (51,4%)
|
38,9
|
Toàn tỉnh
|
865
|
91(10,5%)
|
423(48,9%)
|
425 (49,1%)
|
38,8
|
Năm 1980, Đảng bộ Lâm trường trồng rừng Hương Khê là một trong số 41 đơn vị được Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh biểu dương là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, có nhiều thành tích xuất sắc nhất tỉnh, được nhận cờ của Tỉnh ủy.
Tuy nhiên, thời kỳ này, Đảng bộ vẫn chưa lãnh đạo Nhân dân thực hiện được mục tiêu ổn định lương thực. Việc mở rộng quy mô hợp tác xã, di dân lên đồi, coi nhẹ các ngành nghề tiểu thủ công, đã tỏ ra kém hiệu quả về kinh tế, gây lãng phí lớn công sức và tiền của đầu tư, gây nên những khó khăn cho đời sống xã viên. Diện thiếu đói, thời gian thiếu đói ngày càng lớn, không riêng của địa phương nào. Lương thực, hàng tiêu dùng trở thành vấn đề thời sự hàng ngày. Đảng bộ, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tìm mọi biện pháp; các tầng lớp Nhân dân chủ động tự lực cánh sinh, bươn chải tìm cách giải quyết nhu cầu cuộc sống, song không mang lại kết quả đáng kể. Hiện tượng tham ô, móc ngoặc, bòn rút của công xuất hiện trong cán bộ, công nhân viên, nhất là ở ngành lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm. Tệ nạn trộm cắp, móc túi, lừa đảo, cướp giật xuất hiện ở bến xe, bến tàu, chợ búa.
Do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, khi có chủ trương “bung ra trong sản xuất”, thực hiện “ba lợi ích”[85] trong kinh tế của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (8/1979), Hương Khê vẫn không tiếp cận và thực hiện được bao nhiêu tư tưởng đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Trong khi kinh tế, đời sống ngày một khó khăn, công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình vẫn chưa được Đảng bộ, chính quyền các cấp chú trọng đúng mức. Dân số Hương Khê vẫn tiếp tục tăng lên, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, kinh tế, văn hoá kém phát triển. Năm 1980, toàn huyện có 20.726 hộ, 96.591 nhân khẩu, trong đó nông thôn có 81.715 khẩu, nữ có 50.821 người.
Tình trạng sản xuất phát triển chậm chạp, lưu thông phân phối rối ren, đời sống khó khăn, xã viên nợ hợp tác xã, các phong trào nặng về hình thức, các hiện tượng tiêu cực phát triển, cộng với những thiệt hại do lũ lụt, hạn hán gây ra đã làm suy giảm khí thế cách mạng của các tầng lớp Nhân dân trong huyện. Đến năm 1981, cũng như ở các địa phương khác, tình hình kinh tế - xã hội Hương Khê bắt đầu có sự giảm sút mạnh mà chưa có cách khắc phục.
Nhìn chung, sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976), Hương Khê đã sôi nổi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980). Hàng loạt chủ trương, biện pháp đã được lãnh đạo huyện triển khai thực hiện. Nhân dân Hương Khê với khí thế hồ hởi sau chiến thắng giặc Mỹ đã hăng hái tham gia liên tục các phong trào lao động, sản xuất, công tác, học tập. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn về bảo vệ an ninh trật tự, về tuyển quân, đóng góp nhân lực xây dựng các công trình lớn của tỉnh và một số kết quả đáng kể về kinh tế, trong điều kiện chung của đất nước, huyện vẫn còn những hạn chế, khó khăn lớn. Đó là chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, tiếp tục mở rộng quy mô tổ chức sản xuất, muốn đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa khi chưa đủ điều kiện. Việc chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới với hai hình thức sở hữu là quốc doanh và tập thể một cách tuyệt đối đã loại bỏ những thành phần kinh tế khác, kể cả những loại hình đang có tác dụng tích cực cho nền sản xuất, đời sống của huyện. Trong nông nghiệp, phong trào xây dựng hợp tác xã quy mô toàn xã, phát triển nông nghiệp sản xuất lớn dẫn đến nhiều khó khăn, bất cập, làm ăn sa sút vì không quản lý nổi và không đủ điều kiện máy móc, kỹ thuật.
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ BA (1981 - 1985)
Đến vụ Đông Xuân 1980 - 1981, Hương Khê đã có 13 trong tổng số 45 hợp tác xã thực hiện khoán 100% diện tích lúa cho hộ xã viên, đạt 29% số hợp tác xã toàn huyện.
Sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân 1980, năm 1981 của Hương Khê giảm sút và vào loại thấp của tỉnh.
Nội dung
|
Sản lượng quy thóc năm 1980 (tấn)
|
Sản lượng quy thóc năm 1981 (tấn)
|
So sánh năm 1981 - 1980
|
Hương Khê
|
9.945
|
9.716
|
97,6%
|
6 huyện trung du
|
58.468
|
70.120
|
119,9%
|
6 huyện miền núi
|
13.448
|
15.437
|
114,7%
|
13 huyện đồng bằng
|
245.040
|
284.358
|
116,7%
|
Diện tích lúa Đông Xuân năm 1981 của Hương Khê là 3.956 ha, năng suất 11,77 tạ/ha, sản lượng 4.387 tấn, trong đó năng suất hộ xã viên đạt 12,80 tạ/ha, còn hợp tác xã chỉ đạt 11,05 tạ/ha. Diện tích vụ mùa năm 1982 có 4.023 ha, năng suất 12,10 tạ/ha, sản lượng đạt 4.867 tấn, trong đó năng suất của xã viên đạt 12,50 tạ/ha, của hợp tác xã là 12,05 tạ/ha
Tháng 12/1982, Đảng bộ Hương Khê họp Đại hội lần thứ XXI tại Thị trấn Hương Khê với sự có mặt của 157 đại biểu chính thức, 76 khách mời và dự thính. Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận, góp ý cho Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng và Văn kiện Đại hội lần thứ X Đảng bộ Nghệ - Tĩnh. Đồng thời, phân tích những thuận lợi và khó khăn của Hương Khê để đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 1982 - 1986. Đại hội xác định phương hướng chung của Đảng bộ trong nhiệm kỳ tới là: Quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng, của Đảng bộ Nghệ - Tĩnh, nắm vững thực tế của Hương Khê, trước hết là ruộng đất, lao động, cơ sở vật chất đã có, phát huy tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tự lực tự cường, phấn đấu dũng cảm để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, đời sống, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nông nghiệp - lâm nghiệp với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng huyện gắn với cơ sở, xây dựng Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, thực hiện nhiệm vụ thâm canh cây trồng, phát triển chăn nuôi, ngành nghề, làm cho Hương Khê thành một huyện nông, lâm nghiệp phát triển, có cuộc sống văn minh, hạnh phúc.
Mục tiêu chung của huyện trong thời kỳ mới về kinh tế - xã hội là: Tập trung sức vào mặt trận hàng đầu là sản xuất nông nghiệp mà trọng tâm là lương thực, thực phẩm, nông sản, phấn đấu đủ ăn và có một phần dự trữ. Bảo đảm đủ lương thực cho nhu cầu phi nông nghiệp và căn bản giải quyết nạn thiếu lương thực trong các vụ giáp hạt, thương nghiệp bảo đảm các nhu cầu tối thiểu về các mặt hàng thiết yếu là vải mặc, dầu thắp sáng, thuốc chữa bệnh, giấy và dụng cụ học sinh. Cải thiện điều kiện ăn, ở và không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, đời sống tinh thần cho Nhân dân.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhất là nâng cao chất lượng kế hoạch hoá, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần Nghị quyết 28 của Thường vụ Tỉnh ủy. Bảo đảm hoàn thành kế hoạch một (trong kế hoạch ba phần) ở các nông, lâm trường và hợp tác xã thủ công nghiệp. Khuyến khích kinh tế gia đình phát triển theo hướng tăng nguồn rau quả, thực phẩm. Thu hồi và nắm chắc sản phẩm hàng hoá, nhất là lương thực, thực phẩm, lâm sản. Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, mua bán phá giá.
Ra sức xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống, nhất là hoàn chỉnh dứt điểm, đồng bộ các công trình thuỷ lợi, khai thác, sử dụng nguồn nước hợp lý. Phát động phong trào làm thuỷ lợi nhỏ trên tất cả các vùng, cải tạo đồng ruộng, xây dựng các cơ sở phục vụ nông nghiệp và chế biến, củng cố hệ thống đường sá, cầu cống và các công trình phúc lợi và phương tiện giao thông vận tải. Từng bước hình thành mạng lưới tiểu thủ công nghiệp gắn với nông nghiệp trên địa bàn huyện.
Xây dựng huyện vững mạnh, phát huy vai trò của ngành kinh tế, kỹ thuật của huyện phục vụ đắc lực cho cơ sở. Tăng cường công tác trị an, quốc phòng, bảo vệ tốt biên giới, đảm bảo trong sạch địa bàn, chống gây rối, gây bạo loạn, chống chiến tranh tâm lý và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong bất cứ tình huống nào.
Đối với công tác xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Nghị quyết Đại hội V của Đảng.
Cụ thể là thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong huyện thấu hiểu quan điểm, đường lối của Đảng cả về kinh tế và quốc phòng, nâng cao năng lực vận dụng, cụ thể hoá chỉ thị, nghị quyết của Đảng nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của huyện để phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống Nhân dân. Phải tăng cường hơn nữa việc giáo dục phẩm chất cho cán bộ và đảng viên. Mọi đảng viên, bất cứ ở cương vị nào đều phải rèn luyện thành những người cộng sản có lý tưởng và hành động đúng đường lối của Đảng. Chống tư tưởng bảo thủ, tự do tuỳ tiện, tư lợi, cục bộ, hẹp hòi, không mạnh dạn tiếp thu cái mới và những biểu hiện thoái hoá về phẩm chất, sa đoạ, mê tín, dị đoan, những hủ tục phong kiến lạc hậu.
Cải tiến nội dung sinh hoạt Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên cả về nhận thức, tư tưởng và hành động, nhất là chất lượng hoạt động thực tiễn. Thông qua hành động cách mạng thiết thực để lựa chọn kết nạp thêm nhiều đảng viên mới có chất lượng, kiên quyết đưa hết ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách. Củng cố tổ chức cơ sở Đảng đủ mạnh để lãnh đạo phát triển kinh tế và ổn định đời sống, giữ vững an ninh và quốc phòng, cải tiến phong cách chỉ đạo và lề lối làm việc, thực sự sâu sát, cụ thể, giải quyết kịp thời những vướng mắc cho cơ sở. Phân công, phân nhiệm, phân vùng chỉ đạo, sơ kết, tổng kết và đúc rút kinh nghiệm kịp thời, vừa nắm vững nhiệm vụ công tác trung tâm, đồng thời phải chú ý toàn diện. Kết hợp công tác tư tưởng và công tác tổ chức theo hướng bám sát và phục vụ cho kinh tế, đời sống và an ninh, quốc phòng, trên cơ sở đó mà xây dựng tư tưởng và củng cố tổ chức...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1982 - 1986 theo Điều lệ mới của Đảng. Ban Chấp hành gồm 36 đồng chí (cả ủy viên dự khuyết), Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí, đồng chí Phan Văn Đệ được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phan Xuân Bằng được bầu Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; đồng chí Nguyễn Xuân Hương được bầu Phó Bí thư Thường trực; Phó Bí thư phụ trách kinh tế là đồng chí Trần Khoa; Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí Từ Toàn, Phan Văn Tích; Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Trần Đường, Lê Văn Trọng, Nguyễn Kim Kiệm, Trần Văn Thuyết, Nguyễn Xuân Tường, Trần Văn Yên[86].
Đại hội đã bầu đoàn đại biểu của Đảng bộ Hương Khê gồm 20 đồng chí đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ - Tĩnh do đồng chí Phan Văn Đệ, Bí thư Huyện ủy làm trưởng đoàn.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI có ý nghĩa rất quan trọng, những nhiệm vụ do Đại hội đề ra được triển khai thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao.
Trong xây dựng Đảng, Hương Khê có một số đảng bộ cơ sở được Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh tặng cờ Đảng bộ vững mạnh: Năm 1982 có Đảng bộ xã Hương Thủy, Đảng bộ xã Hương Đô; Năm 1980, 1982 có Đảng bộ Lâm trường Trồng rừng Hương Khê, Lâm trường Trại Trụ, Cơ quan Công đoàn huyện, Cơ quan Viện Kiểm sát Nhân dân huyện.
Trong xây dựng quan hệ sản xuất, Đảng bộ đẩy mạnh củng cố hợp tác xã theo hướng mở rộng quy mô, đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đến tháng 7/1984, số hợp tác xã quy mô xã ở Hương Khê đã chiếm gần 25%.
Nội dung
|
Tổng số
hợp tác xã
|
Hợp tác xã toàn xã
|
Hợp tác xã bậc cao
|
Đất
canh tác
|
Đất hợp
tác xã
|
Hương Khê
|
46
|
10 (25%)
|
46
|
9.245
|
9.056
|
6 huyện Trung du
|
250
|
92 (36%)
|
250
|
64.134
|
57.658
|
6 huyện miền núi
|
542
|
0 (0%)
|
160
|
16.126
|
12.102
|
15 huyện đồng bằng
|
679
|
227 (33%)
|
679
|
187.106
|
176.115
|
Toàn tỉnh Nghệ - Tĩnh
|
1.471
|
319 (21%)
|
1.089
|
267.366
|
245.879
|
Trong công tác quân sự địa phương, đợt diễn tập động viên và huấn luyện động viên quân dự bị năm 1985 Hương Khê đạt kết quả tốt. Đợt diễn tập này do Quân khu tổ chức, diễn ra trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ - Tĩnh, chia làm ba đợt: Đợt 1 từ ngày 24/9 đến ngày 25/9/1985, đợt 2 từ ngày 28/9 đến ngày 29/9/ 1985[87], đợt 3 từ ngày 25 đến ngày 28/10/1985. Hương Khê và 15 huyện khác thuộc đợt 2. Trong đợt 2, 16 huyện, thị, thành đã giao 17.644/18.400 quân dự bị, trong đó có 829/860 sĩ quan và 16.815/17.540 hạ sĩ quan, đạt tỷ lệ 95,8%. Hương Khê giao 966/997 quân nhân, đạt 96,9% (Can Lộc 83,4%, Nam Đàn 79,3%, Anh Sơn 96,1%, Thạch Hà 98%, Hương Sơn, Đức Thọ 100%...). Đảng bộ Hương Khê đã chỉ đạo các cấp chính quyền, các hợp tác xã huy động được 3 tấn gạo, 2 tấn thực phẩm, 40.000 đồng tiền mặt phục vụ đợt diễn tập[88].
Do những khó khăn về kinh tế, đời sống, nhất là tác động xấu của vấn đề giá - lương - tiền và một số nơi chưa giải quyết tốt các vấn đề nội bộ sau khi tiến hành đợt kiểm điểm đảng viên theo Chỉ thị 79 của Trung ương, nên tình hình của Hương Khê cũng còn một số mặt hạn chế. Nông nghiệp thâm canh chưa đồng đều, năng suất các loại cây trồng còn thấp. Ruộng cao sản, đổi mới mùa vụ chưa rộng, chăn nuôi phát triển chậm, chưa đều, ao hồ bỏ hoang, đồi trọc còn nhiều, đốt phá rừng xảy ra phổ biến, việc giao đất, giao rừng cho hộ xã viên làm chậm. Tiểu thủ công còn yếu, chưa có chính sách khuyến khích tạo nguyên liệu tại chỗ, tay nghề ít được bồi dưỡng, đào tạo, nên không cạnh tranh, phát triển được ngành nghề, như mặt hàng mây xuất khẩu, nón lá. Huyện vẫn còn thiếu việc làm, nhất là cho số học sinh tốt nghiệp phổ thông, bộ đội phục viên. Có 20% lao động nông, lâm và 25/30% cán bộ, công nhân viên biên chế không đủ việc làm. Không nhanh chóng tạo cơ hội đưa nhanh điện vào địa bàn huyện. Trang thiết bị giao thông vận tải yếu nên giao thông ách tắc.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, mặc dù huyện có tiềm năng về nông, lâm sản và hàng thủ công, song sản phẩm đạt thấp. Thu mua chưa đạt yêu cầu, chỉ đủ nộp cho tỉnh, không có tích luỹ cho huyện. Từ đó dẫn đến ngân sách mất cân đối thu chi, tình hình tài chính căng thẳng. Giá cả tăng, đời sống Nhân dân khó khăn, nhất là số hưu trí, các đối tượng chính sách.
Tình hình an ninh, quốc phòng diễn biến phức tạp, xảy ra nhiều vụ trộm cắp trên các phương tiện giao thông, tham ô trong các cửa hàng lương thực, thực phẩm, một số người ở địa phương khác đến khai thác lâm thổ sản vô tổ chức. Tệ nạn mê tín dị đoan, lừa đảo, cờ bạc nảy nở. Việc gọi thanh niên nhập ngũ nhiều nơi có khó khăn, một số xã nhiều năm không hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự, số quân nhân đào ngũ, đào nhiệm vẫn còn. Một số cán bộ trong lực lượng vũ trang, an ninh bị thoái hóa, biến chất, gây mất lòng tin trong Nhân dân.
Nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó là Đảng bộ chưa quán triệt sâu sắc và cụ thể hoá đúng đắn các chủ trương của Trung ương, của tỉnh, nhất là chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ngay cả ở cơ sở chuyên nông nghiệp. Việc chỉ đạo kinh tế chưa bám sát chủ trương coi trọng thâm canh, ngành nghề, xuất khẩu để tổ chức lại sản xuất từ cơ sở theo từng hợp tác xã, từng vùng cho sát thực tế với cây con, mùa vụ, nhân lực, vốn. Sản phẩm hàng hoá còn thấp. Các cấp, các ngành chưa thật năng động đổi mới quản lý. Việc lập kế hoạch không sát, thường là để lấy vật tư, vay vốn cho cơ sở của mình. Thực hiện khoán sản phẩm nhiều nơi chưa tốt, ăn chia, thanh quyết toán mùa vụ còn chậm, thiếu sòng phẳng giữa xã viên với hợp tác xã và hợp tác xã với Nhà nước. Nhiều hợp tác xã không hoàn thành nghĩa vụ thuế và thủy lợi phí, nợ đọng kéo dài.
Mặt khác, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên còn hạn chế. Số lượng đảng viên đông nhưng chất lượng giảm sút, kỷ luật lỏng lẻo, tổ chức đảng chưa phát huy được vai trò. Đội ngũ cốt cán đổi mới chậm, nhất là tư duy kinh tế, nặng tư tưởng bảo thủ, ngại khó. Một số cán bộ, phẩm chất thoái hoá, nặng chủ nghĩa cá nhân, năng lực yếu. Một số cán bộ, đảng viên, đối tượng chính sách do đời sống còn nhiều khó khăn nên chủ yếu lo củng cố kinh tế gia đình, giảm khả năng lôi cuốn phong trào...
Nhìn chung, sau 10 năm cùng cả nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1975 - 1985), Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, đạt được một số thành tựu quan trọng. Song, thực trạng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Hương Khê trong thời kỳ này, nhất là những năm 1980 - 1985, cơ bản vẫn lúng túng, chậm chạp, sút kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hương Khê không phát triển được bao nhiêu, trái lại đời sống Nhân dân càng khó khăn, chật vật hơn, hàng hoá khan hiếm, lương thực thiếu hụt nghiêm trọng. Hậu quả kéo theo là sản xuất sút kém, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa vững chắc, kinh tế hợp tác xã, kinh tế quốc doanh thua lỗ liên tục. Tiêu cực trong phân phối lưu thông, giao thông, lương thực, thực phẩm tăng mạnh. Cũng từ đó, chất lượng giáo dục, y tế, văn hoá, sinh hoạt đoàn thể, văn nghệ, thể dục thể thao... kém phần sôi nổi, suy giảm chất lượng. Nghiêm trọng hơn là lòng tin của xã viên vào hợp tác xã, của cán bộ công nhân viên vào xí nghiệp quốc doanh, và nói chung là niềm tin của Nhân dân vào chủ nghĩa xã hội bị giảm sút ngày một nghiêm trọng. Cùng với cả nước, đến năm 1985, khi kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985), tình hình kinh tế - xã hội của Hương Khê đứng trước một cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
CHƯƠNG VII ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI QUÊ HƯƠNG (1986 - 2000)
I. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI THEO ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ TƯ (1986 - 1991)
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình, đổi mới quyết vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, trong không khí toàn Đảng chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VI, từ ngày 6 đến ngày 9/9/1986, tại Thị trấn Hương Khê, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ XXII. Tham dự Đại hội có 166 đại biểu chính thức. Khách mời là một số đảng viên lão thành, các đồng chí nguyên bí thư, chủ tịch huyện, đồng chí Phạm Thể, Thường vụ Tỉnh ủy và một số đồng chí phụ trách các ban ngành của tỉnh Nghệ - Tĩnh.
Đại hội đã thảo luận sôi nổi các vấn đề của toàn Đảng, toàn tỉnh và của Hương Khê. Đại hội đã quán triệt tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, kiên quyết đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Đại hội đã nghe báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của các đảng bộ cơ sở vào Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương sẽ trình bày tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, Dự thảo Báo cáo Chính trị của Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh sẽ trình bày tại Đại hội lần thứ XII sắp tới và thảo luận về các báo cáo đó. Đại hội nhất trí cơ bản với các báo cáo dự thảo và những nội dung góp ý của các cơ sở, lập bản ý kiến chung gửi lên Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ - Tĩnh.
Về những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ, Đại hội ghi nhận, diện tích gieo trồng toàn huyện đạt 15.600 ha, bằng 86% kế hoạch, sản lượng lương thực đạt 18.500 tấn, bằng 75% kế hoạch, khẳng định được bộ giống 1820 và CR203, huyện đã làm thêm được 14 hồ đập mới, làm cầu treo Địa Lợi. Đàn trâu có 9.081 con, bò 17.887 con, lợn 22.509 con. Diện tích rừng thông nhựa sau nhiều năm đã đạt tới 3.000 ha, giao được 20.000 ha rừng các loại cho 17 hợp tác xã. Lạc từ 500 ha năm 1980 lên 1.000 ha năm 1986. Trồng mới 200 ha dầu trẩu, 100 ha chè, thu mua 50 tấn dược liệu, 1 tấn trầm hương. Giá trị xuất khẩu đạt 180.000 rúp/đôla, bình quân đầu người 1,8 rúp/đôla. Làm nghĩa vụ lương thực bình quân từ 1.900 đến 2.000 tấn mỗi năm...
Tuy nhiên, kinh tế huyện Hương Khê vẫn còn nhiều yếu kém. Chỉ đạo nông nghiệp còn tuỳ tiện, nhất là về giống. Chăn nuôi sa sút, nhiều trại chăn nuôi tập thể của hợp tác xã bị giải thể. Khai thác rừng diễn ra bừa bãi, thủ công nghiệp yếu. Việc khai thác hàng hoá tại địa phương còn hạn chế, nhiều người bỏ sản xuất đi buôn. Lĩnh vực giáo dục, y tế còn nhiều bất cập, tỷ lệ tăng dân số cao, tới 2,12%. Trong nhiệm kỳ, tuy Đảng bộ đã phát triển thêm 381 đảng viên mới, song số đảng viên bị kỷ luật lại lên đến 241 đồng chí.
Về nhiệm vụ thời kỳ 1986 - 1988 và đến năm 1990, Đại hội đã nêu lên chủ trương và các chỉ tiêu phấn đấu về lương thực, chăn nuôi, giảm tỷ lệ tăng dân số... Đại hội nhấn mạnh: Huyện phải phát triển nông nghiệp toàn diện, tăng diện tích lạc, đậu các loại, ngô, mía. Trong Lâm nghiệp chú trọng bảo quản, khai thác thông nhựa, chống cháy rừng. Phát triển chăn nuôi bò, trâu, lợn, vịt. Phấn đấu bảo đảm nguồn thực phẩm cung cấp cho Nhân dân và làm nghĩa vụ Nhà nước.
Với thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, phải xây dựng cơ cấu ngành nghề và có bước đi thích hợp, tốc độ nhanh, hình thành huyện nông - lâm nghiệp phát triển, có 30% lao động ngành nghề, tỷ trọng lâm công nghiệp đạt 40%, bảo đảm đủ công cụ cầm tay, lưỡi, diệp cày, tăng lượng gạch, ngói, vôi, phát triển thêm một số trạm bơm điện. Tăng thêm hàng xuất khẩu, nắm hàng, nắm tiền, bảo đảm tiền lương, thực hiện các chính sách xã hội, cải tiến công tác lưu thông phân phối,...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ có 35 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết: đồng chí Nguyễn Xuân Hương được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Bá Bốn được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Trần Khoa được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; đồng chí Phan Văn Quý - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Ban Thường vụ còn có các đồng chí: Phan Xuân Bằng, Lê Văn Trọng, Nguyễn Kim Kiệm, Phạm Minh Trí, Phan Văn Đệ, Trần Văn Yên, Phan Văn Tích. Đoàn đại biểu của Đảng bộ Hương Khê đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ - Tĩnh lần thứ XII có 20 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Xuân Hương làm Trưởng đoàn.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng được khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, khẳng định thành tựu, nghiêm khắc với khuyết điểm, Đại hội đã quyết định đổi mới sâu sắc và toàn diện sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, nhấn mạnh quan điểm coi quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gồm nhiều thời kỳ, nhiều chặng đường, phải đề ra các mục tiêu, bước đi thích hợp với mỗi thời kỳ, theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đại hội nêu ra các bài học đổi mới cần quán triệt là cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội đề ra các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới kinh tế là ra sức thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất...
Đường lối đổi mới của Đảng phù hợp với thực tế và yêu cầu khách quan, được Nhân dân cả nước ta hưởng ứng. Đối với huyện Hương Khê, từ đây quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, theo chủ trương của Đại hội Đảng bộ Nghệ - Tĩnh lần thứ XII và của Đại hội Đảng bộ huyện, trong những năm 1986 - 1988, Đảng bộ Hương Khê đã ra sức phấn đấu, thực hiện nhiều biện pháp linh hoạt, năng động để đạt các mục tiêu đề ra.
Đảng bộ đã chỉ đạo các cấp, các ngành mạnh dạn đổi mới cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động, tận dụng thế mạnh đất đai, lao động của huyện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Nhiều lĩnh vực được tăng cường đầu tư, chú trọng kỹ thuật mới, hình thành lực lượng khoa học, kỹ thuật. Các hợp tác xã, các hộ xã viên đã ra sức cải tạo đất, tăng phân bón, sử dụng giống cây con mới. Cơ chế quản lý sản xuất được đổi mới và nâng cao chất lượng khoán, tháo gỡ các khó khăn, ách tắc để phát triển sản xuất.
Công tác giáo dục được chỉ đạo theo hướng toàn diện, gắn nhà trường với kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Cơ sở vật chất của giáo dục, đào tạo được tăng cường, đội ngũ giáo viên được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và điều kiện làm việc. Lĩnh vực văn hoá xã hội được quan tâm đúng mức, bám sát thực tế cuộc sống, phê phán mạnh mẽ tư tưởng bảo thủ trì trệ, đề cao cái mới, tiến bộ.
Ngành y tế đã chú trọng chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ Nhân dân, thực hiện y học phòng bệnh, xây dựng hệ thống y tế huyện xã, cơ sở. Ý thức kết hợp đông và tây y, trồng cây dược liệu được chú ý thực hiện. Các sân bãi thể dục thể thao được xây dựng ở nhiều nơi, các xã đều có sân bãi, có các đội bóng đá, bóng chuyền, có các đội thông tin cổ động. Thị trấn Hương Khê được mở rộng, tăng cường đầu tư xây dựng rạp hát, trường học, bệnh viện, trở thành trung tâm của huyện. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới, giáo dục tinh thần yêu quê hương, yêu lao động được đẩy mạnh, có tác dụng hạn chế các tiêu cực, các tập tục lạc hậu.
Các ban, ngành chức năng và Nhân dân đã có sự quan tâm, làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ, bảo đảm các chính sách xã hội, tìm cách tạo quỹ phúc lợi, thực hiện tương trợ, đoàn kết, đền ơn đáp nghĩa. Cơ chế khoán trong kinh tế đã không chỉ đưa lại hiệu quả vật chất mà còn có tác dụng tốt về văn hoá xã hội, làm cho con người Hương Khê phát huy được ý thức “tấc đất, tấc vàng”, “một nắng hai sương”, năng động, cần cù, đổi mởi cách nghĩ, cách làm.
Về an ninh, quốc phòng, Huyện ủy chỉ đạo cơ quan công an, quân sự nắm vững vị trí quan trọng của Hương Khê, tăng cường cảnh giác, phát huy sức mạnh của an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân, chống phản động, thâm nhập, gây rối, trộm cắp và vượt biên trái phép.
Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ, quản lý quân dự bị động viên, quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng được quán triệt và chấp hành đầy đủ. Công tác động viên thanh niên nhập ngũ, quản lý vũ khí, thực hiện chính sách hậu phương, các biện pháp loại trừ các tệ nạn, tiêu cực được chú trọng… Đảng bộ chú trọng công tác xây dựng Đảng theo các tiêu chuẩn của một đảng bộ trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thường vụ Huyện ủy đã có nhiều chủ trương chỉ đạo cải tiến sinh hoạt Đảng từ cấp huyện đến cơ sở chi bộ để nâng cao sức lãnh đạo, năng lực công tác của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên, phát triển đảng viên mới. Trong xây dựng hệ thống chính trị đổi mới, Đảng bộ đã coi trọng công tác dân vận, chú ý lãnh đạo xây dựng tổ chức Công đoàn, Thanh niên, Hội đồng nhân dân, Hội Phụ nữ. Một số chính sách mới đối với cán bộ đảng, chính quyền ở cơ sở được vận dụng, thực hiện.
Đặc biệt Đảng bộ đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền, tăng cường pháp chế, giáo dục cán bộ giữ các vị trí quản lý. Phát huy kinh nghiệm của thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ đã tìm nhiều biện pháp linh hoạt để phối hợp các cơ quan đoàn thể, các lực lượng của tỉnh, của Trung ương đóng trên địa bàn để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, xây dựng huyện.
Nhờ những cố gắng đó, đến năm 1988, về kinh tế, nhìn chung Hương Khê đã có chuyển biến, tiến bộ trên một số mặt, nhất là cơ cấu cây, con, mùa vụ. Diện tích, năng suất, sản lượng khoai lang, ngô, lạc đều tăng. Giống lúa mới được cấy ở 70% diện tích, nhiều xã có năng suất cao. Đàn trâu, bò, lợn lai kinh tế, trồng rừng... đều tăng hơn trước. Công tác khoán được triển khai nhanh ở các hợp tác xã nông nghiệp với nhiều cách thức năng động, sáng tạo. Các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản được giữ vững và tiếp tục phát triển. Có thêm nghề mới như: xay xát, chế biến thức ăn gia súc, sửa chữa cơ khí, mở rộng liên doanh liên kết, xuất khẩu. Phân phối lưu thông có nhiều cố gắng, mở rộng mạng lưới, chủ động khai thác hàng, nhiều xã có ngân sách từ 2 triệu đồng trở lên. Văn hoá, xã hội được ổn định, có thêm cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế. An ninh, quốc phòng, tuyển quân, dự bị động viên đều thực hiện tốt, là đơn vị Quyết thắng của tỉnh.
Tuy vậy, trong những năm đầu đổi mới này, Hương Khê vẫn còn nhiều nhược điểm, thiếu sót, phong trào chung chưa mạnh, chưa đều, có mặt bị sụt. Chỉ đạo đổi mới nông nghiệp còn chậm, bảo thủ quan liêu, không sát. Vụ mùa chậm đổi mới, chưa chú trọng vụ đông, thời vụ không sát, xác định giống không chu đáo, chưa chủ động tưới tiêu, năng suất, sản lượng thấp, mục tiêu lương thực chưa đạt. Chăn nuôi sụt, nhất là vịt, dịch bệnh còn nặng. Nhiều đồi trọc chưa được trồng cây, độ xói mòn cao. Tiểu thủ công nghiệp ít chuyển biến, chưa mở rộng, chưa quan tâm tháo gỡ khó khăn, ách tắc cho các nghề tiểu thủ công. Phân phối lưu thông còn nặng về kinh doanh, chưa chú trọng đúng mức phục vụ cho sản xuất phát triển, quản lý kém, thu ngân sách thấp, thiếu bình đẳng trong hoạt động kinh tế, làm cho người sản xuất thua thiệt, không năng động trong chính sách đối lưu. Chất lượng hàng xuất khẩu thấp, chỉ xoay quanh mấy mặt hàng cũ như mây, chè, bưởi...
Việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa chưa được coi trọng đúng mức, buông lỏng quản lý. Nạn mê tín, cờ bạc; ma chay, cưới hỏi linh đình có chiều hướng tăng. Chính sách sinh đẻ có kế hoạch chưa được thực hiện nghiêm túc, tỷ lệ tăng dân số còn cao. Lực lượng xung kích trong quốc phòng, an ninh tại chỗ còn yếu, trật tự an toàn diễn biến phức tạp, chưa xử lý nghiêm các vụ phá hoại kinh tế và ăn cắp, chưa phát huy được sức mạnh của Nhân dân trong phòng chống tội phạm.
Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm trên là do một mặt Đảng bộ thực hiện chủ trương đổi mới còn lúng túng, tư tưởng bảo thủ còn nặng, cán bộ chưa sâu sát, ý thức chấp hành không nghiêm, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, do hiện tượng địa phương cục bộ, tổ chức còn cồng kềnh, trình độ cán bộ yếu, nhất là tư duy phát triển về kinh tế.
Ngày 7/12/1988, Đảng bộ huyện Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ XXIII tại rạp chiếu bóng Thị trấn Hương Khê. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ về các mặt theo đường lối đổi mới của Đảng trong thời kỳ 1986 - 1988, ghi nhận Hương Khê đã đạt được một số thành tựu bước đầu, đáng khích lệ, song trên con đường đi lên, khó khăn còn rất lớn và phức tạp. Đại hội nhấn mạnh quan điểm tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tập trung cao độ cho lúa, màu, cây công nghiệp. Bảo đảm chắc vụ Đông Xuân, tăng diện tích vụ Hè Thu, mở rộng vụ Đông. Phải phát triển nông nghiệp toàn diện, mở rộng diện tích cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, mở mang ngành nghề, trồng cây, bảo vệ rừng. Phải phát triển kinh tế gia đình, khuyến khích các thành phần kinh tế để sử dụng, khai thác mọi tiềm năng hiện có, phân công hợp lý, đổi mới giống, bố trí lại mùa vụ. Mục tiêu cơ bản là bảo đảm trang trải lương thực cho huyện và có thêm hàng nông, lâm xuất khẩu.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ mới gồm 37 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Huyện ủy có 11 đồng chí. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Xuân Hương, phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là đồng chí Trần Khoa, Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Phan Văn Quý. Ủy viên Ban Thường vụ có các đồng chí: Nguyễn Kim Kiệm, Phan Văn Tích, Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Xuân Thai, Đặng Văn Sỹ, Phạm Minh Trí, Trần Văn Yên.
Sau Đại hội lần thứ XXIII, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân trong huyện đẩỵ mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội đề ra, tiếp tục đạt được những thành tựu mới.
Về nông nghiệp, Đảng bộ đã chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện. Nhiều hợp tác xã đã có ý thức cao trong đổi mới giống, năng suất khá. Vụ Hè Thu đã thành vụ chính ở nơi có nước. Dịch vụ sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh với nhiều chợ, thị tứ, điểm mua, bán hàng khá sầm uất với các chủng loại giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu thuận lợi cho sản xuất, đời sống Nhân dân. Khoán 10 đã phát huy được quyền làm chủ của người lao động, kinh tế hộ được hình thành. Đàn lợn ổn định, bình quân lợn xuất chuồng có trọng lượng 50 kg/con. Tồn tại trong nông nghiệp của Hương Khê là cơ cấu mùa vụ, giống mới chuyển đổi vẫn còn chậm, còn khoảng 40% giống phẩm chất kém. Ý thức sản xuất hàng hoá thấp, một số mặt hàng như: lạc, mây giảm sút. Tiềm năng đất đai của huyện chưa được khai thác hết, vẫn còn hàng ngàn ha đồi trọc, hàng chục ha mặt nước chưa sử dụng. Thực hiện điều chỉnh quỹ đất trong Khoán 10 còn chậm. Một số khâu dịch vụ không được chú ý, chất lượng kém hơn trước.
Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và ở các nông, lâm trường quốc doanh, có một số cơ sở đổi mới kinh doanh, tổ chức lại lao động, làm ăn khá. Hàng hóa cho yêu cầu sản xuất, đời sống phong phú, dịch vụ tốt cho nông nghiệp, nông thôn. Song, sản phẩm nội huyện không cạnh tranh nổi với thị trường bên ngoài, tiêu thụ khó. Từ khi có Khoán 10, các ngành nghề trong nông nghiệp bị thu hẹp, nhiều nông, lâm trường lúng túng, ách tắc trong sản xuất, kinh doanh, công nhân, xã viên không có việc làm.
Trong xây dựng cơ bản, với phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm, lại có sự đầu tư hỗ trợ của trên, Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng được một số công trình mới phục vụ sản xuất, đời sống. Giao thông đã tu sửa, nâng cấp hàng trăm kilômét đường liên thôn, liên xã, nâng cấp một số đường chính, xây dựng thêm cơ sở phúc lợi như: trường học, các trạm y tế đa khoa khu vực. Nhiều xã đã huy động thêm công sức, tiền của của dân để xây dựng, tu sửa trường học, trạm xá. Tuy nhiên, do còn nhiều công trình xây dựng dở dang, nên hiệu quả chưa cao, quản lý xây dựng cơ bản chưa chặt chẽ, bị thất thoát, kém chất lượng, thiếu quy hoạch tổng thể. Phân phối lưu thông phát triển hơn trước, đáp ứng hàng hoá cho Nhân dân.
Ngân hàng đã có đổi mới, tăng cường đầu tư phục vụ sản xuất thâm canh. Năm 1991 đã có hàng ngàn hộ được vay vốn phát triển chăn nuôi. Tồn tại chủ yếu về kinh tế, tài chính, thương mại của huyện là chế biến nông, lâm sản yếu; cung ứng, dịch vụ còn cứng nhắc, vẫn để thất thoát nhiều nguồn thu, nhất là các loại thuế sát sinh, thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp, vẫn còn nhiều người, nhiều cơ sở chưa nghiêm túc giao nộp thuế, dây dưa, nợ khê đọng còn nhiều, hiện tượng ỷ lại, trông chờ cấp trên còn nặng. Bội chi ngân sách còn lớn, mỗi năm trên 1 tỷ đồng.
Về văn hoá - xã hội và đời sống, tuy khó khăn, song huyện vẫn duy trì tốt phong trào học tập tốt. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp các cấp học cao, từ 90 đến 95%. Công tác phòng chống dịch bệnh phát huy được vai trò của các đa khoa khu vực. Tỷ lệ đặt vòng cao hơn trước, nhất là vùng giáo dân. Tiền lương và phụ cấp bảo đảm kịp thời, phong trào giúp nhau trong bão lụt có kết quả tốt.
Tuy vậy, vẫn còn nhiều cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa nhận rõ vai trò, vị trí chiến lược của con người, chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục mầm non. Khoán 10 có phần làm cho hoạt động văn hoá, xã hội khó khăn hơn, nhất là với nhà trẻ, mẫu giáo. Chất lượng giáo dục còn thấp, ý thức học tập giảm sút, tỷ lệ bỏ học tăng. Mạng lưới y tế yếu, phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao bị giảm. Bộ mặt nông thôn chậm đổi mới, cơ sở hạ tầng xuống cấp. Thiếu quy chế, quy ước hướng dẫn hôn nhân, tang lễ, lễ hội, nên tập tục lạc hậu, mê tín phục hồi. Đời sống Nhân dân còn thấp, giàu ít, nghèo nhiều, diện thiếu đói tới 40% lúc giáp hạt.
Đảng bộ tiếp tục coi trọng việc lãnh đạo công tác an ninh, quốc phòng. Công tác tuyển quân đạt yêu cầu, lực lượng dự bị động viên được quản lý, việc diễn tập khu vực phòng thủ, làng xã chiến đấu được triển khai, có cơ chế mới trong công tác quân sự địa phương. Trật tự, an ninh được giữ vững, không có vụ việc lớn, nghiêm trọng về an ninh, trật tự. Khối nội chính hoạt động khá hơn trước. Tuy vậy, lực lượng dân quân tự vệ chất lượng còn yếu, chưa đạt kế hoạch huấn luyện. Công tác khen thưởng thành tích chống Mỹ, cứu nước thực hiện chậm. Tệ nạn chống người thi hành công vụ tăng, một số vụ việc giải quyết không kịp thời, có vụ giải quyết không được quần chúng đồng tình. Nạn khai thác rừng bừa bãi, đánh bắt cá bằng mìn ở các sông Ngàn Sâu, Rào Nổ,... gia tăng.
Trong xu thế đổi mới chung, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể có tiến bộ. Nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm, đại hội Đảng các cấp, Đảng bộ đã tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị dưới hình thức cụm, câu lạc bộ. Qua bầu cử Hội đồng nhân dân, Đảng bộ đã chỉ đạo chỉnh đốn chính quyền các cấp, các đoàn thể, các chi bộ đội sản xuất đã được chuyển thành chi bộ xóm. Số lượng cấp ủy cơ sở đã giảm bớt, nhưng chất lượng tăng, giảm tuổi đời bình quân của cấp ủy cơ sở, tăng số có trình độ lý luận trung cấp. Biên chế gọn nhẹ hơn, các chức danh ở xã giảm 40%. Trong ba năm Đảng bộ đã xử lý hàng trăm đảng viên vi phạm kỷ luật. Chính quyền, đoàn thể đã chuyển đổi phương thức hoạt động, đi sâu, đi sát các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Nhiều đoàn thể, đơn vị được xếp loại khá của tỉnh. Phong trào quần chúng hoạt động thiết thực hơn, hướng vào trọng tâm phát triển nông nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, khắc phục bão lụt, đền ơn, đáp nghĩa.
Hạn chế trong công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện giai đoạn này là hình thức tuyên truyền thiếu phong phú, chưa rộng, chưa sâu, chưa theo kịp tình hình. Các cơ quan chức năng chưa sử dụng, quản lý tốt các binh chủng trong khối để cùng làm công tác tư tưởng. Hiện tượng bảo thủ, trì trệ, hẹp hòi, ỷ lại, bao cấp còn nặng. Tinh thần chịu đựng gian khổ cao, nhưng không chịu khó, chậm tiếp thu cái mới, một số thiếu ý thức làm nghĩa vụ với Nhà nước. Chỉ đạo thực hiện điều lệ, chế độ, nội quy còn yếu. Vai trò lãnh đạo của nhiều chi bộ yếu, chi bộ khối cơ quan không phát huy được tác dụng. Một bộ phận đảng viên, cán bộ sa sút, thực dụng, tuỳ tiện trong sinh hoạt, không gắn với tổ chức, nói không đi đôi với làm, tác dụng lãnh đạo thấp. Tuổi đời đảng viên cao, chỉ có 10% dưới 30 tuổi. Số đảng viên trẻ có biểu hiện ngại học tập, lẩn tránh sự phân công công tác, ý thức trách nhiệm thấp, số biết làm kinh tế ít. Công tác quy hoạch cán bộ yếu, nguồn cán bộ cạn, quan niệm thiếu thống nhất, chưa có chính sách khuyến khích sử dụng nhân tài. Bố trí, sắp xếp cán bộ chưa hợp lý, chưa sử dụng tốt sở trường, năng lực cán bộ. Nói chung, năng lực cán bộ, đảng viên chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Trong khi đó công tác kiểm tra chưa làm được nhiều, tác dụng lãnh đạo chưa cao. Chính quyền thể chế hoá nghị quyết của Đảng còn yếu, lúng túng, chức năng quản lý kinh tế yếu, tham mưu chưa kịp thời, chính xác. Các đoàn thể chưa tập hợp được rộng rãi hội viên, thiếu các hình thức hoạt động phù hợp. Các phong trào chưa sát nhiệm vụ, chưa giải quyết tốt quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, hình thức lúng túng, thiếu mô hình, ít chú ý nhân rộng các mô hình tiên tiến.
Nguyên nhân khách quan của những tồn tại đó là do tình hình thế giới và khu vực có diễn biến phức tạp, tác động xấu đến tư tưởng cán bộ, đảng viên, Nhân dân, như hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, các Đảng cộng sản ở Đông Âu mất quyền lãnh đạo. Trong nước thì khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, cơ chế quan liêu bao cấp để lại hậu quả nặng nề nhiều mặt. Các thế lực thù địch chống phá, bao vây cấm vận, mặt khác ta phải làm nhiệm vụ quốc tế với Campuchia, Lào. Thêm vào đó là liên tục có lụt nặng, nền kinh tế thấp kém, sản xuất nhỏ.
Nguyên nhân chủ quan là Đảng bộ chưa vận dụng tốt cơ chế kinh tế mới, việc điều hành yếu. Đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ít học hỏi, bộ máy không ổn định, năng lực yếu, nhiệt tình giảm, biểu hiện kèn cựa địa vị, hẹp hòi, thiếu lòng tin, thực dụng. Lề lối làm việc chưa bám sát ba chương trình, chất lượng hội họp thấp, chỉ đạo thiếu tập trung dứt điểm, bị cuốn hút vào những vấn đề sự vụ, hàng ngày, không chủ động và tập trung vào vấn đề chiến lược. Mặt khác, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm, xử lý tình huống chậm, chưa kiên quyết. Khâu tổ chức thực hiện yếu, quan hệ làm việc giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể chưa chặt chẽ. Quan điểm đánh giá một số vấn đề trong phương hướng, biện pháp phát triển kinh tế, xã hội chưa thống nhất, chậm phát hiện và nhân rộng điển hình tốt, uốn nắn sai trái không kịp thời.
II. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (1991 - 2000)
Thể theo nguyện vọng của Nhân dân Nghệ - Tĩnh, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã quyết định chia tách tỉnh Nghệ - Tĩnh, tái lập lại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh với địa giới hành chính như nguyên trạng. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, từ 01/9/1991, tỉnh Hà Tĩnh bắt đầu đi vào hoạt động với tư cách là một tỉnh độc lập. Thị xã Hà Tĩnh trở lại làm chức năng tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Hà Tĩnh. Các huyện trong tỉnh vẫn giữ nguyên phạm vi như trước, song có thêm một thị xã mới, Thị xã Hồng Lĩnh. Huyện Hương Khê không có gì thay đổi về địa lý hành chính.
Trong cơ cấu của tỉnh Hà Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, của chính quyền tỉnh, Hương Khê tiếp tục đi lên trên con đường đổi mới.
Hướng tới Đại hội lần thứ VII của Đảng, tháng 3/1991, Đảng bộ huyện Hương Khê tổ chức Đại hội lần thứ XXIV (vòng 1) tại Thị trấn Hương Khê. Đại hội đã thảo luận, góp ý cho Dự thảo Văn kiện Đại hội VII của Đảng và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ - Tĩnh. Thực hiện chủ trương chung và trong khí thế mới của việc tái lập tỉnh Hà Tĩnh, tháng 12/1991, Đảng bộ huyện Hương Khê họp Đại hội lần thứ XXIV (vòng 2). Đại hội đã quán triệt các văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng và đề ra phương hướng, biện pháp đưa Nghị quyết Đại hội VII của Đảng vào cuộc sống ở địa bàn Hương Khê. Đại hội đã bầu Huyện ủy mới gồm 37 đồng chí, do đồng chí Trần Khoa làm Bí thư; đồng chí Phan Văn Quý làm Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Nguyễn Văn Chung làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch là các đồng chí: Nguyễn Xuân Thai, Đặng Văn Sỹ, Phan Văn Tích, ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí Nguyễn Kim Kiệm, Trần Xuân Thanh, Lê Hồng Mão, Phạm Minh Trí, Trần Văn Yên[89].
Đại hội quyết nghị phương hướng chung về phát triển kinh tế của Hương Khê là tập trung thâm canh cây lương thực, mở rộng diện tích cây công nghiệp và rau màu. Phát triển kinh tế gia đình và kinh tế tư nhân. Khôi phục ngành nghề trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, mở thêm nghề mới, tổ chức chế biến, tiêu thụ nông, lâm sản, ổn định đời sống Nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ Nhà nước...
Sau Đại hội, Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa phong trào Hương Khê chuyển mạnh sang thời kỳ mới. Năm 1992, Hương Khê là huyện đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh được công nhận huyện miền núi, điều này đã tạo điều kiện cho huyện được thụ hưởng các chương trình, chính sách ưu đãi của Nhà nước. Năm 1992, Hương Khê cũng là huyện miền núi đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh đưa được lưới điện 35kv về huyện.
Ngày 2/5/1994, theo Điều lệ mới của Đảng, Đảng bộ Hương Khê mở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, đánh giá 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXIII và đề ra biện pháp tiếp tục hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1996. Đại hội đã cử đoàn đại biểu đi dự Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Hà Tĩnh.
Về kinh tế, nét nổi bật là Đảng bộ huyện Hương Khê đã tập trung lãnh đạo chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh, tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế VAC, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới, giải quyết cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm cho Nhân dân.
Tổng sản lượng lương thực từ 19.000 tấn năm 1991 tăng lên 24.000 tấn năm 1995. Bình quân mỗi năm tăng 1.000 tấn, đưa lương thực bình quân đầu người từ 153 kg năm 1991 lên 200 kg năm 1995. Sản lượng nông sản hàng hoá tăng: đậu xanh từ 900 tấn năm 1991 lên 1.500 tấn năm 1995, tăng 600 tấn. Lạc vỏ tăng từ 1.200 tấn lên 1.700 tấn, tăng 500 tấn. Giá trị tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân hàng năm 4%, bình quân đầu người năm 1995 là 120 USD. Kinh tế vườn và chăn nuôi có sự chuyển biến tích cực, đến năm 1995 đã có 8.900 vườn cây ăn quả với 150.000 cây bưởi Phúc Trạch, 10 vạn cây cam các loại.
Đàn gia súc, gia cầm tăng cả về số lượng và chất lượng. Tổng đàn trâu bò có 37.000 con, tăng bình quân 4% mỗi năm. Tổng đàn lợn có 32.000 con, tăng bình quân 3% mỗi năm. Có 8.000 hộ nuôi cá ao, hồ, nuôi cá lồng có hiệu quả. Lâm nghiệp có phát triển, công tác trồng rừng, bảo vệ, khoanh nuôi, phủ xanh đất trống đồi trọc đạt kết quả tốt, ngăn chặn được nạn đốt rừng làm rẫy, bảo vệ tốt rừng và tài nguyên rừng. Diện tích trồng rừng hàng năm tăng 200 ha, đã có 6.000 ha rừng tập trung, trong đó có 400 ha rừng nhựa thông, trồng 350.000 cây phân tán, khoanh nuôi 3.800 ha, bảo vệ 40.000 ha. Xây dựng xong quy hoạch khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang vởi 54.000 ha, khai thác bình quân 80 tấn nhựa thông mỗi năm. Giao rừng cho hộ xã viên đạt 60%. Tốc độ tăng giá trị lâm nghiệp 18,4% mỗi năm.
Giá trị công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng từ 8,3 tỷ đồng năm 1991 lên 17 tỷ đồng năm 1995, chiếm 12 % tổng giá trị sản phẩm toàn huyện. Các hoạt động dịch vụ và thương mại có bước phát triển, năm 1995 đạt 12 tỷ đồng, chiếm 6,85% GDP. Công tác tài chính có nhiều cố gắng, việc quản lý nguồn thu có tiến bộ, năm 1991 thu trên địa bàn đạt 1,95 tỷ đồng, năm 1995 lên tới 2,8 tỷ đồng.
Hệ thống cơ sở hạ tầng đã được nâng lên một bước, phục vụ tốt yêu cầu sản xuất và đời sống Nhân dân. Huyện đã xây dựng 74 km đường dây điện 35 KV, 46 km đường dây điện 10 KV, 20 trạm hạ thế, 15/27 xã có điện. Hệ thống giao thông nông thôn được tu sửa, nâng cấp, một số cầu kiên cố như Làng Vàng, Hói Đót, Rào Ga…. Toàn huyện có 607 km đường liên xã, 430 km đường liên thôn, 107 km đường cấp phối, hầu hết các xã đều có đường ô tô vào tận trung tâm.
Hệ thống kênh mương được củng cố, xây dựng thêm một số hồ, đập, kênh mương và trạm bơm điện, nâng khả năng tưới tiêu vụ Đông Xuân lên 2.000 ha. Công trình thuỷ lợi Sông Tiêm được Nhà nước phê duyệt cuối năm 1994 và tiến hành thi công năm 1995.
Hệ thống trạm xá gắn với Trung tâm dân số - kế hoạch hoá gia đình và trường học cao tầng như Trường Phổ thông Trung học Hương Khê, Trường Dân tộc nội trú, Phổ thông Trung học Gia Phố được xây dựng và đưa vào sử dụng, Trung tâm dạy nghề được củng cố. Trụ sở làm việc của các cơ quan, các ngành và đoàn thể cấp huyện và của một số xã, thị trấn được xây dựng khang trang hơn. Bưu điện huyện đã được hiện đại hoá một bước, hoà mạng thông tin quốc gia. Đài phát thanh, truyền hình được nâng cấp, đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của Nhân dân. Cùng với việc xây dựng của các cơ quan nhà nước, việc xây dựng nhà ở kiên cố của Nhân dân cũng phát triển mạnh, làm cho bộ mặt nông thôn dần dần được đổi mới.
Về văn hoá - xã hội, các hoạt động có tính chuyên môn được tăng cường, nâng cao đời sống tinh thần Nhân dân. Huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên, đội ngũ học sinh giỏi các cấp ngày càng tăng, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hàng năm chiếm tỷ lệ 15 - 20% tổng số học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học. Đội ngũ giáo viên được nâng lên cả số lượng và chất lượng. Công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho Nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ bà mẹ và chăm sóc trẻ em được các ngành, các cấp quan tâm. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, y học dự phòng được thực hiện tốt. Chất lượng khám, chữa bệnh có tiến bộ. Công tác truyền thông dân số, kế hoạch hoá gia đình được triển khai tận thôn, bản, góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số từ 2,3% năm 1991 xuống còn 2,1% năm 1995. Bảo hiểm y tế được mở rộng. Năm 1994, khu lưu niệm về Xô viết Nghệ Tĩnh ở Rôộc Cồn (Phú Phong), năm 1996, mộ và đền thờ Đức hầu Ngô Đăng Minh (Trúc Lâm, Hà Linh) được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia…
Các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với nước, chính sách dân tộc, miền núi được thực hiện tốt. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động từ thiện, nhân đạo đang trở thành nét đẹp trong lối sống của Nhân dân.
Chương trình 327 thực hiện có hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo cho Nhân dân. Đến cuối năm 1995, số hộ giàu chiếm 10%, số hộ có đời sống ổn định chiếm 60%, số hộ nghèo và đói chiếm 30%. Các di tích lịch sử, văn hóa từng bước được xếp hạng và bảo vệ, tôn tạo. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao được phát triển thành phong trào sâu rộng trong Nhân dân. Công tác bảo vệ môi trường và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế được Nhân dân quan tâm.
Về an ninh, quốc phòng, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. Đã tập trung truy quét các loại tội phạm, ngăn chặn và giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh các pháp lệnh của Nhà nước, không để xảy ra các điểm nóng. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn, làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Xây dựng khu vực phòng thủ, tổ chức huấn luyện, diễn tập, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ thường trực và dự bị động viên.
Hằng năm đều hoàn thành công tác tuyển gọi thanh niên nhập ngũ và làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội.
Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể được chú trọng. Các cấp ủy đã làm tốt việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và xây dựng chương trình thực hiện ở cơ sở. Đã đổi mới phương pháp làm công tác tư tưởng, tăng cường lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên. Tổ chức kỷ niệm tốt các ngày lễ lớn và lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Công tác giáo dục lý luận chính trị được tiến hành thường xuyên. Trình độ nhận thức, đạo đức, phẩm chất cách mạng, niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng được nâng lên, tăng cường được sự thống nhất trong Đảng và trong Nhân dân.
Toàn Đảng bộ có 57 đảng bộ, chi bộ cơ sở, 248 chi bộ thôn xóm. Chất lượng cơ sở đảng được nâng cao, số đạt tiêu chuẩn vững mạnh tăng lên, năm 1991 có 12 đơn vị, năm 1995 tăng lên 30 đơn vị. Số đơn vị yếu kém giảm từ 6 đơn vị xuống còn 2 đơn vị. Chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên cả trình độ và năng lực, phẩm chất đạo đức và lối sống. Số đảng viên của Đảng bộ đến năm 1995 là 5.024 đồng chí, số đảng viên đủ tư cách tăng 20% so với năm 1991, số có hạn chế giảm 15%. Công tác kết nạp đảng viên mới có nhiều tiến bộ. Trong 5 năm đã bồi dưỡng được 1.381 đối tượng Đảng, kết nạp được 556 đảng viên mới, trong đó 20% là nữ, 63% là thanh niên, 10% có trình độ đại học và cao đẳng, 60 % có trình độ trung học. Công tác phân công, sàng lọc đảng viên được tiến hành thường xuyên.
Công tác cán bộ đã được thực hiện theo phương án ổn định và đổi mới từng bước cho phù hợp với tình hình của huyện. Số cán bộ trẻ, nữ tăng từ 10% lên 15%. Công tác đào tạo cán bộ được tiến hành thường xuyên, 75% số cấp ủy viên cơ sở được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, 70% số đảng viên vùng giáo được bồi dưỡng quan điểm mới, 60% cán bộ đoàn thể và 100% cán bộ chủ chốt của Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân xã được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ. Có 116 đồng chí đã học xong chương trình trung cấp, 20 đồng chí đang học chương trình cao cấp, 50 đồng chí học các lớp tại chức. Chính sách đối với cán bộ được đổi mới, tạo sự chuyển biến trong công tác cán bộ của huyện.
Công tác kiểm tra Đảng được chăm lo, đã xử lý 94 đảng viên vi phạm kỷ luật, trong đó: 24 bị khiển trách, 24 bị cảnh cáo, 21 bị cách chức, 25 bị khai trừ. Giải quyết kịp thời các đơn thư tố cáo đảng viên, góp phần nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân từ xã đến huyện được củng cố. Năng lực quản lý, điều hành được nâng lên. Hoạt động của Hội đồng nhân dân thực quyền hơn, dân chủ hơn, thể hiện rõ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Bộ máy các phòng ban Ủy ban nhân dân được sắp xếp lại, chất lượng hoạt động được nâng lên. Công tác giáo dục pháp luật được tiến hành tốt. Chính quyền xã được củng cố, phát huy được vai trò làm chủ của Nhân dân, giải quyết kịp thời các vấn đề trên địa bàn. Phương thức lãnh đạo của Đảng với chính quyền được đổi mới và có hiệu quả. Các cấp ủy Đảng đã quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác vận động quần chúng. Tập trung củng cố tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, xây dựng nội dung, chương trình hoạt động phong phú, đa dạng, phù hợp với địa phương. Đã đi sâu củng cố các đoàn thể ở cơ sở, nhất là chi đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Các đoàn thể đã thu hút được 60 quần chúng vào các tổ chức của mình. Khối đoàn kết toàn dân được củng cố, mở rộng.
Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng được đổi mới. Quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ được bảo đảm, chất lượng các nghị quyết ban hành được nâng lên, khắc phục được tình trạng bao biện làm thay hoặc chồng chéo giữa cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể. Thực hiện tốt chế độ giao ban định kỳ giữa thường trựccấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các đoàn thể. Những việc làm đó đã góp phần xây dựng Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể trong huyện ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, đến năm 1995, trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác, Đảng bộ Hương Khê cũng còn mắc phải một số hạn chế, khuyết điểm. Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa vững chắc. Sản xuất hàng hoá chậm phát triển, nông nghiệp còn độc canh, chưa thoát khỏi tình trạng của một huyện nghèo. Cơ sở vật chất còn nhỏ bé và chưa đồng bộ, chưa khai thác có hiệu quả các tiềm năng sẵn có, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển. Hiệu quả thực hiện các dự án đầu tư chưa cao. Nguồn thu ngân sách trên địa bàn còn khó khăn và bấp bênh. Chưa có tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế. Bình quân thu nhập đầu người thấp.
Khuyết điểm, yếu kém rõ nhất về kinh tế của Hương Khê là kinh tế còn phụ thuộc nặng vào thiên nhiên, năng suất cây trồng thấp, đầu tư thâm canh yếu. Chậm đổi mới hợp tác xã, chậm giao đất, giao rừng cho xã viên. Đời sống Nhân dân vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Công nghiệp yếu kém, thiếu quan tâm phát triển vùng dâu, nhựa thông. Thu ngân sách xã yếu, mức hưởng thụ văn hoá của Nhân dân còn thấp... Nhịp độ tăng dân số còn cao, thiếu việc làm cho người lao động. Chất lượng giáo dục, chất lượng khám và chữa bệnh còn thấp. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao.
Nạn chặt phá rừng và buôn bán lâm sản trái phép chưa được ngăn chặn triệt để. Nếp sống văn hoá một số nơi trong huyện còn lạc hậu, đời sống của Nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn lớn. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa sâu rộng, chất lượng dân quân tự vệ và an ninh cơ sở còn yếu.
Năng lực lãnh đạo, quản lý của một số cấp ủy còn yếu. Chất lượng một bộ phận cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp. Việc chỉ đạo thực hiện nghị quyết của một số cấp ủy hạn chế, một số cán bộ chưa sâu sát cơ sở để giải quyết kịp thời những vấn đề quần chúng đặt ra. Công tác quản lý điều hành của các cấp chính quyền trên một số mặt đạt hiệu quả thấp. Công tác quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn cán bộ còn chắp vá, chưa đồng bộ. Năng lực đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới. Hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở một số cơ sở còn yếu kém. Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức đối với Đoàn Thanh niên. Một số cơ sở Đảng còn yếu, tư tưởng còn bảo thủ trì trệ. Chế độ và nội dung sinh hoạt chưa gắn với việc sàng lọc, xử lý và nâng cao chất lượng đảng viên. Việc kiểm tra thực hiện nghị quyết các cấp thiếu thường xuyên...
Tuy còn có những yếu kém, thiếu sót, song những kết quả đạt được trong thời kỳ 1991 - 1995 đã tạo thuận lợi cho Hương Khê bước vào thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Ngày 25/3/1996, Đại hội lần thứ XXV của Đảng bộ Hương Khê được tiến hành tại Hội trường Huyện ủy. Dự Đại hội có 183 đại biểu chính thức của 57 Đảng bộ, chi bộ cơ sở, thay mặt cho 5.240 đảng viên toàn Đảng bộ. Đồng chí Đặng Duy Báu, quyền Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh đã về dự và chỉ đạo Đại hội.
Sau khi đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIV, Đại hội đã phân tích và nêu lên nguyên nhân của những thành tựu, ưu điểm là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, có sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của Thường vụ Tỉnh ủy, của Ủy ban nhân dân và các ngành các cấp của tỉnh; nhờ Đảng bộ huyện đã năng động, vận dụng sáng tạo, cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng phù hợp với tình hình thực tế của huyện; nhờ sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân toàn huyện.
Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót là do điểm xuất phát của huyện thấp, tư tưởng còn bảo thủ, chậm đổi mới. Việc chỉ đạo thực hiện nghị quyết của một số cấp ủy Đảng, chính quyền thiếu kiên quyết. Cơ chế quản lý giữa tỉnh, huyện và cơ sở còn thiếu thống nhất trên một số lĩnh vực. Vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành chưa phát huy đầy đủ. Nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra không đi vào cuộc sống, chứng tỏ công tác lãnh đạo về kinh tế vẫn là sự bất cập lớn.
Kinh nghiệm của Đảng bộ thời kỳ này là phải thường xuyên quán triệt quan điểm phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt: Phải thấy rõ đặc điểm của huyện để khai thác tiềm năng, thế mạnh, khắc phục tình trạng huyện nghèo bằng nội lực là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương và tỉnh; phải coi trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là điện, thuỷ lợi, giao thông, trường học, trạm xá làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; phải hướng mạnh về cơ sở, sâu sát cơ sở và quan tâm đến lợi ích chính đáng của Nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tế và nhân các điển hình tiên tiến ra diện rộng; phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt, xây dựng và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đảm bảo đoàn kết nội bộ.
Căn cứ vào chủ trương chung của Trung ương, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện đã nêu lên những định hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2000, đó là: Ra sức ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp để phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm đến năm 2000 không còn hộ đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu, thu nhập bình quân đầu người lên 1,5 lần so với năm 1995; chăm lo sức khỏe cho Nhân dân, nâng cao dân trí và mức hưởng thụ văn hoá; bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ vững trật tự, an toàn xã hội; xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng vững mạnh, trong sạch, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ...
Cụ thể, lương thực tăng 10% năm, năm 2000 đạt 30.000 tấn. Trâu bò đạt 43.000 con, mỗi năm tăng 1.000 con. Lợn đạt 35.000 con, sản lượng xuất chuồng 60 - 70 kg/con. Sản phẩm hàng hoá về ngô đạt 5.000 tấn, lạc 2.000 tấn, đậu 1.500 tấn/năm. Đến năm 2000 phủ kín vườn cây ăn quả, trong đó bưởi 1.000 ha, sản lượng hàng năm 12.000 tấn quả. Cam 800 ha, 8.000 tấn quả, mía 1.500 - 2.000 ha. Giá trị sản phẩm nông nghiệp năm 2000 đạt 150 tỷ. Trồng rừng 300 ha/năm, trồng phân tán 7 triệu cây, độ che phủ rừng đạt 64%. Bảo vệ 5.000 ha rừng trồng và 40.000 ha rừng bảo tồn ở Vũ Quang.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến lâm sản đạt 1.500 tấn song, mây; cưa xẻ, chế biến 400/600 m3 gỗ, 20.000m3 đá hộc. Xây dựng nhà máy xi măng 10 vạn tấn/năm, gạch ngói 3 triệu viên; 2.000 tấn thức ăn gia súc. Phấn đấu tổng giá trị công nghiệp, chế biến năm 2000 đạt 160 tỷ đồng. Công tác xóa đói, giảm nghèo tiến bộ, giảm 5% tỷ lệ đói nghèo hàng năm. Phổ cập tiểu học đạt 90%, có 60% số xã phổ cập phổ thông trung học cơ sở cho độ tuổi. Công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu được quan tâm. Phủ sóng truyền hình trong toàn huyện. Xây dựng trung tâm văn hoá huyện và các xã. Hạ tỷ lệ tầng dân số tự nhiên xuống còn 1,8%. Bảo đảm 90% xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, 100% xã có trạm xá nhà cấp 4, mái bằng. Thu ngân sách xã 30 triệu đồng/năm. Bảo đảm an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội, chống diễn biến hoà bình.
Để đạt được những mục tiêu đó, phương hướng của huyện về nông nghiệp là chuyển đổi mùa vụ, chuyển dần vào vùng kinh tế mới, phát triển VAC, tranh thủ nguồn vốn, đổi mới giống, cây con, nâng cấp công trình thuỷ lợi, xây dựng trạm bảo vệ thực vật, thú y. Về lâm nghiệp, huyện ưu tiên việc trồng rừng, bảo vệ, chế biến, giao rừng cho dân, sử dụng tốt quỹ 327. Về công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng nhà máy xi măng, tạo điều kiện cho vay vốn phát triển ngành nghề. Xây dựng cơ bản, phát triển điện các xã, nâng cấp đường sá, xây dựng trạm, trung tâm y tế, xây dựng trường học cao tầng ở một số xã. Làm hệ thống cấp thoát nước ở thị trấn, rải nhựa một số trục đường chính, thực hiện Chương trình nước sạch nông thôn...
Đại hội bầu Ban Chấp hành khoá 1996 - 2000 có 35 ủy viên, trong đó có 4 đồng chí là nữ, 25 đồng chí có trình độ đại học, 4 trung cấp, 4 sơ cấp; về chính trị có 17 cử nhân cao cấp chính trị, 16 trung cấp chính trị. Tuổi đời bình quân của Ủy viên Ban Chấp hành là 42,2. Bầu Ban Thường vụ gồm 11 ủy viên: Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Kim Kiệm; Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Phan Văn Tích; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là đồng chí Phan Văn Quý. Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là đồng chí Đặng Văn Sỹ. Ủy viên Ban Thường vụ còn có các đồng chí Trần Xuân Thanh, Hồ Sỹ Mão, Phan Thị Tập, Lê Xuân Trình, Trần Đình Lượng, Đặng Hữu Ước, Phan Đức Cung[90].
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ XXV, từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân nỗ lực, phấn đấu, đạt được những thành quả hết sức to lớn, toàn diện.
Kinh tế tiếp tục phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đảng bộ đã tiếp tục chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu theo hướng khai thác tiềm năng đất đai, lao động và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để chuyển dần sang nền nông nghiệp hàng hoá. Toàn huyện đã quy hoạch thành ba vùng kinh tế lớn: vùng lúa thâm canh, vùng cây ăn quả, vùng trồng cây công nghiệp, nguyên liệu phục vụ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đi đôi với quy hoạch vùng kinh tế, đã giảm diện tích lúa từ 7.500 ha năm 1996 xuống còn 7.000 ha năm 2000. Năng suất lúa từ 20 tạ/ha/vụ tăng lên 30 tạ/ha/vụ, nên sản lượng vẫn tăng hơn trước 3.500 tấn. Diện tích ngô, khoai, sắn giảm, tăng diện tích lạc, đậu. Tổng sản lượng lương thực quy thóc của huyện đạt 24.000 tấn, sản lượng lạc đạt 4.000 tấn, gấp đôi năm 1996, đậu từ 1.000 tấn lên 2.300 tấn.
Huyện ủy đã có nghị quyết về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, cải tạo được trên 1.500 ha vườn tạp, trồng mới 1.100 ha bưởi Phúc Trạch, 400 ha cam. Thu nhập từ kinh tế vườn mỗi năm khoảng 20 tỷ đồng, có hộ thu 30 triệu. Kinh tế vườn đã trở thành hướng xoá đói, giảm nghèo, làm giàu của Hương Khê. Chăn nuôi phát triển khá toàn diện, cải tạo giống, tăng chất lượng. Năm 1996 có 30 con bò lai Sin, năm 2000 có 300 con, lợn xuất chuồng bình quân 70 kg, hàng năm đạt 209 tấn cá nuôi. Lâm nghiệp chuyển mạnh sang lâm nghiệp xã hội hoá, giao đất giao rừng cho nông dân vừa tạo thêm công ăn việc làm vừa bảo vệ phát triển được rừng. Trong 5 năm trồng thêm 1.000 ha rừng tập trung, đưa tổng diện tích rừng trồng lên 8.000 ha, trong đó có 6.000 ha rừng nhựa thông, thu hoạch 1.000 tấn mỗi năm, rừng cao su có 1.000 ha. Giá trị tổng sản phẩm nông/lâm nghiệp đạt trên 200 tỷ đồng.
Công nghiệp phát triển chậm, song tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại có bước phát triển mới và chuyển mạnh sang cơ chế thị trường. Các ngành nghề phát triển đa dạng, có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm cho Nhân dân như: khai thác cát, đá, sỏi, sản xuất vật liệu xây dựng gạch, vôi, mộc dân dụng, gò hàn sắt thép,... Các ngành dịch vụ phát triển như vận tải tư nhân, các cửa hàng, cửa hiệu sửa chữa điện tử, xe máy, đại lý đồ điện, vải, quần áo. Chợ ở thị trấn và các vùng, các xã phát triển nhanh, trở thành trung tâm thương mại, thúc đẩy giao lưu hàng hoá giữa các vùng. Tổng giá trị kinh tế của các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại mỗi năm đạt 30 tỷ đồng. Quan hệ sản xuất được chú trọng, chuyển đổi được 26/46 hợp tác xã sang hoạt động theo cơ chế mới.
Xây dựng cơ bản có bước chuyển biến lớn nhờ tranh thủ được vốn đầu tư của Nhà nước và phát huy nội lực trong Nhân dân. Vốn đầu tư trong 5 năm cho xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng lên tới 230,3 tỷ đồng, trong đó Nhân dân góp 20 tỷ đồng. Điện lưới quốc gia đã về 25/27 xã, thị trấn, hơn 80% người dân được dùng điện lưới quốc gia, tăng 10 xã so với năm 1996. Đường giao thông liên xã, liên thôn được làm mới, mở rộng, nâng cấp tạo thành mạng lưới giao thông thuận tiện cho Nhân dân. Tất cả 27 xã đều có đường ô tô tải vào tới trung tâm.
Công trình thuỷ lợi sông Tiêm được khởi công từ năm 1995 đến năm 1999 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, bảo đảm tưới cho 2.700 ha lúa hai vụ; trên 300 ha làm hồ nuôi cá và đảm bảo nước sinh hoạt cho vùng thị trấn và 7 xã lân cận. Ngoài ra còn bê tông hoá được 16 km kênh mương, hàng chục hồ, đập lớn nhỏ khác được làm mới. Công trình hồ Bình Sơn sau khi được đưa vào khai thác, tạo cảnh quan đẹp, môi trường sinh thái tốt cho khu vực thị trấn. Các trường học được tu bổ, làm mới khang trang theo phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”. Trong 5 năm làm thêm 670 phòng học lợp ngói, 280 phòng học cao tầng, trong đó có Trường Phổ thông trung học Vũ Quang 3 tầng, đang xây dựng Trường Phổ thông trung học Phúc Trạch. Toàn huyện có 4 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Trung tâm y tế huyện, Nhà điều trị nội A và 8 trạm xá xã được xây dựng, đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho Nhân dân.
Trụ sở làm việc của các cơ quan được xây dựng mới với khuôn viên xanh sạch đẹp, phương tiện tốt hơn. Trên 70% số xã, thị trấn có trụ sở làm việc và hội trường sinh hoạt thuận lợi. Đài phát thanh, truyền hình huyện đã được nâng cấp, phát 2 kênh VTV1 và VTV3 cùng hai trạm phát lại sóng truyền hình ở Hương Lâm và Phúc Đồng, phủ sóng được 20/27 xã, thị trấn. Mạng lưới điện thoại, điểm trung tâm giao dịch bưu điện văn hoá được xây dựng ở 13 xã, toàn huyện có gần 1.000 máy điện thoại.
Tài chính, tín dụng đã hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách tỉnh giao, phục vụ tốt các chương trình hoạt động thường xuyên và đột xuất của huyện. Thu ngân sách xã có nhiều tiến bộ, hàng năm bình quân đạt 55 triệu đồng mỗi xã. Tuy là huyện nghèo, song tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 1996 là 7,5 tỷ đồng (tại huyện là 2,8 tỷ), năm 2000 lên tới 14 tỷ (tại huyện là 2,9 tỷ). Ngành ngân hàng, kho bạc đã tích cực hoạt động, phục vụ sản xuất, kịp thời cho Nhân dân vay để tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo. Số dư của Ngân hàng Nông nghiệp huyện đến năm 2000 là 30,8 tỷ đồng, cho người nghèo vay là 8,8 tỷ đồng.
Văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, các chính sách xã hội được thực hiện có hiệu quả, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện, cả vật chất và tinh thần. Quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục, đào tạo, Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết 01 về phát triển giáo dục, đào tạo và qua 5 năm thực hiện đã thu kết quả tốt. Sự nghiệp giáo dục của huyện chuyển biến tích cực, tỷ lệ học sinh các cấp chiếm 34% dân số, 27/27 xã, thị trấn phổ cập tiểu học đạt chuẩn quốc gia, 5 xã phổ cập đúng độ tuổi, tỷ lệ học sinh vào cấp I đạt trên 95%. Có 10 xã đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên, chất lượng đại trà khá, chất lượng mũi nhọn có tiến bộ. Số học sinh giỏi cấp tỉnh, huyện hàng năm đạt trên 1.300 em, hướng nghiệp dạy nghề có bước phát triển. Công tác xã hội hoá giáo dục có nhiều tiến bộ. Huyện và nhiều địa phương xây dựng được quỹ khuyến học.
Ngành y tế có nhiều cố gắng trong chăm sóc bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế có trình độ bác sĩ công tác tại trạm y tế xã chiếm 40%. Có 310 thôn bản đã được bố trí cán bộ y tế, đạt tỷ lệ 98%. Các dịch bệnh sốt rét, bướu cổ, bại liệt trẻ em được đẩy lùi. Huyện đã thực hiện tốt Chương trình quốc gia về y tế. Hoạt động dân số - kế hoạch hoá gia đình được triển khai đồng bộ dưới nhiều hình thức, thu kết quả tốt. Tỷ lệ tăng dân số từ 2,1% năm 1996 giảm xuống còn 1,7% năm 2000.
Các chính sách xã hội, chính sách dân tộc, miền núi được thực hiện đầy đủ, nhất là đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Phong trào xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ em tàn tật, mồ côi được các ngành, các cấp quan tâm đúng mức, trở thành nét đẹp trong đời sống Nhân dân. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao trở thành phong trào rộng khắp trong Nhân dân và phát triển khá lành mạnh. Nét đẹp về truyền thống văn hoá, đạo đức, lối sống được giữ gìn và phát huy, các tiêu cực xã hội bị đẩy lùi. Mức hưởng thụ văn hoá, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Phong trào xây dựng làng xã văn hoá, gia đình văn hoá được đẩy mạnh. Nhiều nơi đã xây dựng được hương ước, các thiết chế văn hoá thể thao, thực hiện tốt Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị về xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, về lễ hội. Toàn huyện đã có 9/27 xã đạt chuẩn Làng xã văn hoá, 50% gia đình đạt chuẩn Gia đình văn hoá.
Đời sống Nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ nét cả vật chất và tinh thần. Toàn huyện có trên 50% số hộ có nhà cửa kiên cố, khang trang, nhiều hộ mua sắm được các phương tiện sinh hoạt đắt tiền như: xe máy, ti vi, đài cát sét,...
Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Đảng bộ đã thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược và về âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh, đủ sức giải quyết tại chỗ những vấn đề phức tạp xảy ra ở địa phương. Hàng năm đã tổ chức huấn luyện, diễn tập đảm bảo chất lượng, hoàn thành tốt công tác tuyển gọi thanh niên nhập ngũ. Trong 5 năm đã giao 717 tân binh, không có quân nhân đào ngũ. Phong trào xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn làm chủ được chú trọng. Huyện được Quân khu IV tặng Bằng khen về 10 năm xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh toàn diện.
Ngành công an đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong khối như: với viện kiểm sát, toà án, điều tra, khám phá nhiều vụ trọng án, tiến hành khởi tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngăn chặn và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật, tạo được lòng tin trong quần chúng nhân dân. Xây dựng được mạng lưới an ninh biên giới, an ninh nông thôn vững chắc, giải quyết và giữ gìn tốt an ninh, trật tự ở thôn xóm. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng bộ và Nhân dân, niềm tin được củng cố, đoàn kết trong nội bộ Đảng được tăng cường. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tập trung cao trong công tác xây dựng Đảng, nhất là về giáo dục chính trị, tư tưởng, coi đó là nhân tố bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng trong toàn Đảng bộ. Biện pháp là đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đồng thời xây dựng được chương trình hành động thực hiện ở các đơn vị, cơ sở. Nhân các ngày lễ lớn huyện phát động quần chúng thi đua thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của Đảng đề ra. Qua thực tiễn, Đảng bộ đã nâng cao được nhận thức, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và rèn luyện cán bộ, phát hiện nhân tố mới để kết nạp Đảng, để xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ, trong đó có cán bộ làm công tác tư tưởng, văn hóa.
Tổ chức Đảng cũng được củng cố, chất lượng sinh hoạt đảng bộ, chi bộ, chất lượng đảng viên ngày càng được nâng lên. Những cơ sở đảng yếu kém được Đảng bộ chỉ đạo củng cố theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII). Hàng năm đều có phân loại tổ chức cơ sở Đảng, nâng dần số tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Năm 1996 có 34 đơn vị trong sạch, vững mạnh, năm 2000 tăng lên 39 đơn vị, không có đơn vị yếu kém. Việc quản lý đảng viên được tiến hành chặt chẽ. Năm 1996 có 66,4% đảng viên đủ tư cách, năm 2000 là 73,75%; số đảng viên có mặt hạn chế giảm mạnh. Nguồn phát triển đảng viên mới ngày một nhiều, trong nhiệm kỳ mở được 10 lớp đối tượng cho 2.500 quần chúng ưu tú, kết nạp được 1.037 đảng viên mới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ được quan tâm thực hiện đúng nguyên tắc, bảo đảm tiêu chuẩn, cử được 200 cán bộ đi học các lớp lý luận trung, cao cấp và 6.816 cán bộ có chức danh của huyện đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Chế độ chính sách vối các loại cán bộ được bảo đảm, kể cả cán bộ nghỉ hưu.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được triển khai với các đợt tự phê bình, phê bình nghiêm túc trên cả ba mặt tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và tác phong, tổ chức chỉ đạo từ cấp huyện xuống cơ sở, đảng viên. Kết quả của cuộc vận động đã mang lại hiệu quả thiết thực cho mỗi cán bộ, đảng viên và cho toàn Đảng bộ.
Đảng bộ đã làm tốt công tác kiểm tra Đảng, tăng cường kỷ luật, thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, Ủy ban kiểm tra Đảng các cấp được củng cố, hàng năm đều có tập huấn về nghiệp vụ. Trong 5 năm Huyện ủy tổ chức tập huấn cho 465 chi ủy viên, đảng ủy viên cơ sở về nghiệp vụ kiểm tra. Công tác kiểm tra đã có tác dụng bảo vệ kỷ luật, tăng cường kỷ cương, góp phần bảo đảm thực hiện tốt chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành, giữ vững nguyên tắc sinh hoạt Đảng, giữ vững đạo đức tư cách đảng viên, đồng thời giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu tố, không để tồn đọng, phục vụ tốt các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân, bầu cử cấp ủy các cấp, các đơn vị. Trong nhiệm kỳ, đã kỷ luật khiển trách Đảng 3 đơn vị, khai trừ 19 đảng viên, cách chức 23 người, cảnh cáo 97 người, khiển trách 18 người.
Việc lãnh đạo chính quyền được chú trọng, chính quyền các cấp ngày càng được củng cố, làm tốt công tác chỉ đạo điều hành và quản lý nhà nước. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã bảo đảm thực quyền hơn, phát huy được vai trò giám sát, nâng cao uy tín của người đại biểu Nhân dân. Các Ủy ban nhân dân từ huyện đến xã phát huy tốt vai trò điều hành và quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội. Các phòng ban chuyên môn được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, thích ứng với cơ chế thị trường. Quan hệ Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, Nhân dân làm chủ được thực hiện đúng nguyên tắc, theo pháp luật.
Công tác vận động quần chúng có nhiều tiến bộ, các đoàn thể quần chúng được củng cố, phát huy vai trò đoàn kết toàn dân thi đua thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Mặt trận và các đoàn thể đã đi sát cơ sở, tập hợp các tầng lớp Nhân dân vào đoàn thể của mình, tham mưu cho cấp ủy Đảng xây dựng nhiệm vụ, kế hoạch và thực hiện kế hoạch, động viên giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống. Các loại quỹ, các hoạt động từ thiện, xã hội đều được các đoàn thể thực hiện tốt, đội ngũ cán bộ đoàn thể được bổ sung, tổ chức được kiện toàn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ giai đoạn này còn những hạn chế, khuyết điểm. Chưa khai thác hết tiềm năng đất đai, đồi, rừng và lao động trong chỉ đạo phát triển kinh tế. Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn hiệu quả còn thấp. Quan hệ sản xuất chậm được củng cố. Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt kết quả chưa cao. Một sốcấp ủy, cán bộ chủ trì cơ sở còn có tư tưởng trì trệ trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, do đó khối lượng hàng hoá còn ít. Nguồn thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, chưa mở được hướng tăng nguồn thu để tạo điều kiện phát triển địa phương. Tình trạng khai thác, buôn bán lâm thổ sản trái phép, trốn lậu thuế chưa được ngăn chặn triệt để. Tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, số người thiếu việc làm còn nhiều.
Chất lượng giáo dục đào tạo chưa vững chắc, nhất là vùng sâu, vùng xa. Chất lượng khám, chữa bệnh thấp, đội ngũ bác sĩ có tay nghề giỏi và tâm huyết với nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Thị trường thuốc chữa bệnh quản lý thiếu chặt chẽ. Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hoá, thể dục thể thao nghèo nàn, nhất là cơ sở, vùng sâu, vùng xa. Sự quan tâm chỉ đạo xây dựng làng xã văn hoá, gia đình văn hoá của một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa thường xuyên. Đời sống Nhân dân cả vật chất và tinh thần nhiều nơi còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Việc tổ chức học tập nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước có nơi chưa nghiêm túc. Nhận thức của một số cán bộ chưa chuyển biến kịp với tình hình, một số còn lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch. Chất lượng sinh hoạt Đảng ở cơ sở còn hạn chế, vai trò lãnh đạo, trung tâm đoàn kết ở nhiều tổ chức cơ sở Đảng chưa tốt. Việc giáo dục tư cách đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, đảng viên chưa được thường xuyên, sinh hoạt phê bình, tự phê bình chất lượng chưa cao. Việc thực hiện phân tích chất lượng đảng viên, phân công đảng viên ở nhiều cơ sở Đảng chưa được duy trì thường xuyên, việc lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ tuy đã được quan tâm, nhưng so với yêu cầu chưa đáp ứng được như mong muốn. Phong trào vận động quần chúng chưa đồng đều, nhất là vùng khó khăn.
Công tác kiểm tra Đảng ở một số cấp ủy còn bị xem nhẹ, chưa coi công tác kiểm tra là việc làm thường xuyên của Đảng. Xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên chưa nghiêm, chưa kiên quyết, dẫn đến tác dụng giáo dục thấp. Kỷ cương trong Đảng chưa được phát huy mạnh mẽ để thúc đẩy công tác xây dựng Đảng ngang tầm giai đoạn mới. Chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân còn hạn chế. Công tác quản lý, điều hành ở một số cấp chính quyền trên một số mặt đạt hiệu quả thấp. Thực hiện cải cách hành chính chưa đồng bộ, điều hành của Ủy ban nhân dân có lĩnh vực còn chủ quan, công tác tham mưu ở một số phòng ban yếu, làm giảm uy tín về vai trò lãnh đạo và điều hành của Nhà nước...
CHƯƠNG VIII ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2000 - 2010)
I. PHÁT HUY NỘI LỰC, TRANH THỦ THỜI CƠ, ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI (2000 - 2005)
Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng (1986 - 2000), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thế và lực của đất nước ngày càng được nâng lên. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh nói chung, Đảng bộ huyện Hương Khê nói riêng đã lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ địa phương có bước phát triển toàn diện với kết quả vững chắc trên tất cả các lĩnh vực. Đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Bên cạnh đó, sự nghiệp đổi mới huyện Hương Khê cũng đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức đan xen do diễn biến phức tạp về chính trị, an ninh khu vực và những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường.
Những vấn đề đó đòi hỏi Đảng bộ phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thích hợp để đưa Hương Khê phát triển toàn diện, gắn xây dựng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Năm 2000, địa giới hành chính huyện Hương Khê có sự thay đổi lớn. Ngày 4/8/2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2000/NĐ-CP thành lập huyện Vũ Quang trên cơ sở điều chỉnh địa giới các huyện Đức Thọ, Hương Khê và Hương Sơn. Theo đó, huyện Hương Khê chuyển 5 xã phía Bắc gồm: Hương Quang, Hương Minh, Hương Điền, Hương Đại và Hương Thọ với diện tích 50.000 ha về huyện Vũ Quang. Huyện Hương Khê còn lại 22 đơn vị hành chính với 02 thị trấn và 20 xã trên diện tích 126.293,85 ha. Năm 2004, Thị trấn Nông trường 20/4 chuyển thành xã Hương Trà.
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22/5/2000 của Bộ Chính trị và các chỉ thị, hướng dẫn của Tỉnh ủy Hà Tĩnh về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, ngày 28/11/2000 tại Thị trấn Hương Khê, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2000 - 2005. Dự Đại hội có 140 đại biểu, thay mặt cho 4.500 đảng viên toàn Đảng bộ[91].
Kiểm điểm nhiệm kỳ 1996 - 2000, Đại hội cho rằng nguyên nhân của những thành công và ưu điểm của Hương Khê trong thực hiện nhiệm vụ là do có đường lối đúng đắn của Đảng, sự giúp đỡ trực tiếp của tỉnh và những nỗ lực trong công tác, lao động sản xuất của cán bộ, đảng viên và Nhân dân toàn huyện. Bên cạnh đó, vẫn còn những khó khăn, thiếu sót do Hương Khê vẫn là một huyện nghèo, thiên tai khắc nghiệt thường xuyên đe dọa, năng lực lãnh đạo của một số cán bộ còn hạn chế…
Từ những thành tựu và hạn chế đó, Đại hội đã rút ra một số kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo: (1) Phải quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, triển khai học tập đến tận cán bộ, đảng viên và Nhân dân để mọi người hiểu, tin tưởng, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của cấp trên một cách đồng bộ; (2) Phải đoàn kết nhất trí cao trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành, thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các ban ngành tham mưu; (3) Thực hiện đối thoại với Nhân dân, tạo sự nhất trí cao về nhận thức và hành động trong cán bộ và Nhân dân; phải quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân; (4) phải củng cố, xây dựng cơ sở Đảng và chính quyền, đoàn thể vững mạnh, chăm lo đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế; (5) Phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên duy trì tự phê bình và phê bình, làm tốt công tác kiểm tra Đảng, xử lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên vi phạm kỷ luật.
Phương hướng chung của nhiệm kỳ 2000 - 2005 được Đại hội xác định là: Tiếp tục khẳng định phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ khoá XXV, vừa phát huy nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, của các ngành, các cấp để phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, gắn công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với chế biến và dịch vụ thương mại. Tăng cường đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và phát huy nhân tố con người, chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống tệ nạn xã hội và tệ tham nhũng. Quyết tâm đến năm 2005, Hương Khê cơ bản thoát khỏi huyện nghèo, nền kinh tế phát triển ổn định, tạo ra sản phẩm hàng hoá lớn góp phần đáp ứng nhu cầu của Nhân dân và tham gia xuất khẩu, giữ gìn ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, Đảng bộ huyện đạt danh hiệu Đơn vị trong sạch vững mạnh từ năm 2001.
Mục tiêu phấn đấu chủ yếu đến năm 2005 về kinh tế là: tổng giá trị sản phẩm xã hội đạt từ 380 đến 400 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 3,5 đến 4 triệu đồng/tháng. Tổng giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp chiếm 62%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại chiếm 38%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 9 đến 10%. Tổng sản lượng lương thực đạt 27.500 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 250 kg mỗi năm. Tổng đàn trâu bò đạt 40.000 con, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 4%, tổng đàn lợn đạt 32.000 con, tốc độ tăng bình quân là 2%. Có trên 3.000 ha vườn được cải tạo trồng cây ăn quả, trong đó bưởi Phúc Trạch là 2.000 ha, cam và các loại cây ăn quả khác là 1.000 ha; trồng mới cây cao su 2.500 ha, chè 500 ha, rừng nguyên liệu 6.000 ha; khai thác và chế biến nhựa thông 2.000 tấn mỗi năm; phủ xanh 705 ha đất trống đồi trọc. Hàng năm, ngân sách huyện thu tăng 10 đến 15%.
Về văn hoá - xã hội, có 100% phòng học xây, lợp ngói. Có 22/22 xã, thị đạt phổ cập tiểu học vững chắc, trong đó 60% phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, 80% xã phổ cập trung học cơ sở. Có 100% người nghèo được cấp bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh, mỗi xã có một bác sĩ, 100% thôn xóm có y tế thôn, hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 1,2 đến 1%, giảm tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba xuống dưới 20%. Có 50 - 60% số làng xã đạt Làng xã văn hoá, 70% gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hoá, 15% Gia đình thể thao, 100% công sở văn minh, 100% xã có nhà bia tưởng niệm. Hàng năm đào tạo, giải quyết việc làm cho 500 - 600 lao động. Năm 2005, không còn hộ đói, 100% xã có điện thoại với tổng số trên 1.500 máy.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng công an, quân sự vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Phấn đấu 100% đảng viên đủ tư cách; 90% chi bộ nhỏ, 70% đảng bộ, chi bộ cơ sở, 70% đơn vị chính quyền, 80% đơn vị đoàn thể đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đại hội đã đưa ra các giải pháp cụ thể trên tất cả các lĩnh vực. Về kinh tế: phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường cây công nghiệp, cây ăn quả; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng, các công trình thủy lợi; tranh thủ vốn đầu tư từ bên ngoài và tận dụng tối đa lợi thế nội tại để phát triển kinh tế - xã hội. Về văn hoá - xã hội: phổ cập giáo dục vững chắc, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, nâng cao chất lượng toàn diện; nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chú ý đào tạo đội ngũ y, bác sĩ có tay nghề và tâm huyết và làm tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình; nâng cao chất lượng các phong trào quần chúng về văn hoá, văn nghệ, phòng chống tệ nạn xã hội; thực hiện tốt các chính sách xã hội, quan tâm đúng mức vùng sâu, vùng xa, thực hiện xoá đói giảm nghèo đi đôi với tăng cường an ninh, quốc phòng,... Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: tăng cường sự thống nhất trong Đảng bộ về tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; củng cố và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, và hoạt động của các đoàn thể quần chúng, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân; xây dựng chính quyền các cấp ngày càng vững mạnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XXVI gồm 33 ủy viên, Ban Thường vụ có 11 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Kim Kiệm[92] - Tỉnh ủy viên, tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; các Phó Bí thư Thường trực là đồng chí Phan Thị Tập; Phó Bí thư, Chủ tịch UBND là đồng chí Phan Văn Tích[93]. Ủy viên Ban Thường vụ gồm các đồng chí: Hoàng Hữu Diễn, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Kim Bích[94], Đặng Hữu Ước, Đặng Thị Vỹ, Thái Bá Tài, Lê Xuân Trình, Trần Đình Lượng[95].
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội khoá XV Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khoá XXVI, Huyện ủy đã coi nông nghiệp, nông thôn là hướng ưu tiên phát triển toàn diện, trong đó trọng tâm là thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong chỉ đạo phát triển nông - lâm nghiệp, hướng sản xuất hàng hóa được chỉ đạo theo quan điểm: đầu tư áp dụng các tiến bộ về giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ sinh học, coi trọng thâm canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ nhằm tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả của từng lĩnh vực. Để tạo điều kiện khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai, triển khai các chương trình, mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, Huyện ủy chỉ đạo thực hiện tốt việc chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp.
Ngày 12/6/2001, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 01/NQ-TU về lãnh đạo cuộc vận động chuyển đổi sử dụng ruộng đất nông nghiệp. Ngày 16/01/2002, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 11/CT-HU về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác chuyển đổi ruộng đất theo tinh thần Nghị quyết 01 của Tỉnh ủy. Mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng sử dụng đất manh mún, phân tán, tạo điều kiện để từng bước tích tụ ruộng đất, hình thành vùng sản xuất có quy mô lớn, các trang trại, gia trại nông nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đầu tư thâm canh để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Những năm trước đó, việc thực hiện Nghị định 64-CP về giao đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân đã tạo ra động lực trong sản xuất của người nông dân, các hộ được giao ruộng đất đều phấn khởi, yên tâm đầu tư sản xuất, tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi, tạo chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, sản lượng và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp, đời sống Nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, vấn đề đặt ra là cần phải hướng mạnh hơn nữa sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá. Trong khi đó, thực trạng ruộng đất của huyện còn có những bất cập: việc thực hiện chia ruộng theo chủ nghĩa bình quân, mỗi chủ sử dụng đất đều phải có đủ loại ruộng (ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng xa, ruộng gần) bộc lộ nhược điểm là đồng ruộng quá manh mún, chi phí sản xuất lớn. Trong một thửa ruộng lớn lại được chia cho nhiều hộ nên không có "bờ vùng bờ thửa", những chủ hộ có khả năng thâm canh tăng vụ lại nảy sinh tư tưởng ngại đầu tư. Ở các xã có ruộng bậc thang, bờ vùng bờ thửa quá nhiều, lãng phí đất, tạo điều kiện cho chuột cư trú, ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng. Phần đất công ích do các xã quản lý phân tán, lại xếp vào loại đất xấu, không thuận canh, thuận cư. Hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng khó quy hoạch đồng bộ và khoa học.
Từ tháng 2/2002, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi đợt 01 ở 8 xã: Gia Phố, Phú Phong, Hương Thủy, Hương Bình, Hương Đô, Phúc Trạch, Hương Long và Phương Điền. Tại đây, ngoài các Ban Chỉ đạo chuyển đổi của xã, Ban Chỉ đạo của huyện trực tiếp theo dõi, kịp thời đưa ra biện pháp điều chỉnh phù hợp. Trước tình huống cuộc vận động gặp phải sức ỳ của tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong một bộ phận nông dân, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, Ban Chỉ đạo tập trung vào công tác tư tưởng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị địa phương. Cấp ủy các cấp, từ huyện đến cơ sở tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu rõ lợi ích của việc dồn điền, mở rộng thửa. Các Ban chỉ đạo tổ chức hội nghị trong từng xã, đưa đề án chuyển đổi ruộng đất ra bàn bạc dân chủ, lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc của từng địa phương, từ đó tạo được sự đoàn kết, thống nhất giữa các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân từ chủ trương đến quá trình thực hiện và kịp thời có giải pháp tháo gỡ ở từng thôn xóm, từng hộ gia đình. Đến cuối năm 2002, có 76 xóm (của 8 xã) chuyển đổi ruộng đất, tổng diện tích đất nông nghiệp đưa vào chuyển đổi là 1.939 ha, bình quân mỗi hộ sau khi chuyển đổi còn lại 6 thửa đất. Qua chuyển đổi, kết hợp quy hoạch mở rộng đường trục, đường vùng và các tuyến kênh mương thủy lợi đảm bảo hợp lý, Nhân dân dễ dàng đầu tư thâm canh và đưa cơ giới hóa đến từng thửa ruộng. Những thửa ruộng lớn, liền khoảnh có điều kiện canh tác thuận lợi, tiết kiệm đáng kể chi phí trong sản xuất, giảm được sức lao động. Đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Năm 2003, huyện triển khai việc chuyển đổi ruộng đất đợt 02 ở 12 xã, thị trấn còn lại (còn xã Hòa Hải và thị trấn Nông Trường 20/4 không phải chuyển đổi ruộng đất). Rút kinh nghiệm từ các xã đi trước, Ban chỉ đạo chuyển đổi ruộng đất của huyện cùng với ban chỉ đạo các xã và các thôn kiểm tra, rà soát lại quỹ đất và tình hình thực tế của từng địa phương để chia lại ruộng đất cho các hộ hoặc các hộ tự nguyện chuyển đổi ruộng đất cho nhau. Huyện ủy tăng cường công tác kiểm tra nhằm gắn chặt trách nhiệm của từng tổ chức, từng cán bộ phụ trách với mảng công việc cụ thể, có biện pháp xử lý kiên quyết đối với cáccấp ủy, chính quyền và cá nhân đảng viên không chấp hành thực hiện hoặc triển khai chậm so với yêu cầu, tiến độ đã đề ra. Đài Truyền hình và Phát thanh huyện thường xuyên đưa tin, kịp thời biểu dương những gương điển hình, những cơ sở thực hiện tốt. Ban Chỉ đạo hướng dẫn tiến hành đo đạc, chỉnh lý lại bản đồ địa chính, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân sau khi chuyển đổi, từng bước đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp. Đến tháng 9/2003, trong 20 xã, thị có 223 xóm chuyển đổi đất nông nghiệp với tổng diện tích 4.312,30 ha, bình quân mỗi hộ sau khi chuyển đổi còn lại 6 thửa đất.
Phát huy hiệu quả việc chuyển đổi ruộng đất, cấp ủy, chính quyền huyện tiếp tục chỉ đạo các xã đẩy mạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật, nhất là những tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi vào sản xuất; tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, phát triển nông thôn như: hệ thống điện, giao thông, thủy lợi; đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa trong nông nghiệp; đồng thời đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Điểm sáng trong sản xuất nông nghiệp Hương Khê giai đoạn này là sau khi hoàn thành chuyển đổi ruộng đất, trên địa bàn các xã, thị trấn đã hình thành một số cánh đồng thâm canh lớn, đa số diện tích gieo trồng được áp dụng các giống lúa mới, năng suất cao. Đây cũng là giai đoạn phong trào cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả, nhận rừng đồi làm trang trại, nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh. Hiệu quả kinh tế mang lại cho người nông dân cao hơn hẳn giai đoạn 1996 - 2000.
Từ 19/9 - 22/9/2002, mưa lớn kéo dài trên diện rộng, mực nước sông Ngàn Sâu, sông Tiêm dâng lên rất nhanh gây thiệt hại lớn về người và tài sản của Nhân dân. Hệ thống hạ tầng bị hủy hoại nặng nề… huyện có 40 người thiệt mạng. Với tinh thần chủ động, tích cực, Huyện ủy chủ trương tập trung sơ tán, cứu dân vùng nước chảy xiết, sâu lụt; tìm mọi cách liên lạc với dân để cấp phát mỳ tôm cứu đói kịp thời. Công sở các xã mở cửa đón Nhân dân và đưa tài sản, gia súc sơ tán tạm thời. Trong lũ lụt, nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là số cán bộ chủ chốt cấp xã và cấp thôn xóm vùng lũ đã nêu cao trách nhiệm, dũng cảm cứu dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và của Nhân dân. Ban Thường vụ Huyện ủy quyết định thành lập Ban vận động tiếp nhận và phân phối cứu trợ cho Nhân dân vùng lũ. Ban vận động kịp thời rà soát và hỗ trợ chu đáo đến từng đối tượng, không để dân bị đói, rét, nhất là các gia đình chính sách, gia đình neo đơn. Các địa phương tập trung sửa chữa các công trình bị hư hỏng, ưu tiên tu sửa trường học và trạm y tế, triển khai công tác vệ sinh môi trường, phòng chống các loại dịch bệnh và khẩn trương khôi phục sản xuất vụ đông, vụ 3 để bù lại một phần thiệt hại.
Để ổn định và phát triển sản xuất, Huyện ủy chỉ đạo toàn diện việc thâm canh tăng năng suất và bố trí lại cơ cấu cây trồng. Trên cơ sở quy hoạch vùng sản xuất, bố trí cơ cấu giống phù hợp. Các xã Hoà Hải, Gia Phố là những đơn vị dẫn đầu về đưa giống mới vào sản xuất. Phong trào làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại phát triển, cho thu nhập hàng trăm triệu/năm. Việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp đi vào ổn định, hoạt động đúng luật, từng bước phục vụ đầy đủ các hoạt động dịch vụ nông nghiệp cho hộ nông dân, phát huy tính tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và trích lập được các loại quỹ công khai. Quan hệ sản xuất được củng cố, tiềm năng về đất đai được sử dụng hiệu quả, nhất là kinh tế vườn, trang trại. Các chỉ tiêu kinh tế của huyện đều đạt và vượt kế hoạch đề ra: Tổng sản lượng lương thực từ 15.539 tấn năm 2000 tăng lên 21.540 tấn năm 2005, bình quân lương thực đầu người tăng từ 146,6 kg năm 2000 lên 201,8 kg năm 2005; năm 2005, sản lượng lạc đạt 4.050 tấn, sản lượng đậu đạt 2.550 tấn.
Sản xuất lương thực phát triển đã tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi ổn định và có những bước phát triển mới. Chương trình sind hóa đàn bò được triển khai từ những năm 1996 - 2000 đã thu được nhiều kết quả tích cực. Các chương trình nạc hoá đàn lợn, vịt siêu trứng, siêu thịt, mô hình cá lúa được nhân rộng. Công tác tiêm phòng, phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được thực hiện nghiêm túc, góp phần ngăn chặn kịp thời các loại dịch bệnh, như dịch cúm gà năm 2003, giảm thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi. Tổng đàn trâu, bò năm 2000 là 28.626 tăng lên 32.956 con năm 2005; trong đó, đàn trâu 15.425 con, đàn bò 17.531 con (bò lai sind 159 con). Tổng đàn lợn tăng từ 31.365 con năm 2000 lên 35.860 con năm 2005. Đàn gia súc, gia cầm tăng từ 235.600 con năm 2000 lên 367.000 con năm 2005. Phong trào nuôi cá lồng phát triển, sản lượng thủy sản đạt 325 tấn/năm.
Công tác quy hoạch, trồng và phòng chống cháy rừng được chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Hàng năm, huyện trồng mới hàng chục vạn cây phân tán, bảo vệ gần 1.000 ha rừng tập trung, trong đó có 673 ha rừng nguyên liệu, nâng độ che phủ đạt 52%. Phong trào cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả, cây có giá trị kinh tế cao tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ. Từ phong trào cải tạo vườn tạp, huyện Hương Khê đã tạo ra hàng ngàn ha vườn, đưa lại giá trị kinh tế cao. Năm 2005, diện tích cây ăn quả các loại 2.342 ha, trong đó bưởi Phúc Trạch có 1.342 ha. Thu nhập từ cây ăn quả và cây gió trầm đạt trên 50 tỷ đồng/năm 2005.
Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ có bước phát triển mới. Một số cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã và đang từng bước hình thành và đi vào hoạt động, như: chế biến lâm sản, khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, gia công sửa chữa cơ khí, sửa chữa điện tử. Trên địa bàn huyện có 8 doanh nghiệp nhà nước, 28 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Tháng 6/2005, nhà máy gạch tuy nen Phúc Trạch có công xuất 20 triệu viên/năm đã cho ra mẻ sản phẩm đầu tiên. Khu du lịch Rào Rồng đã được lập quy hoạch, tiếp theo là khu du lịch thác Vũ Môn kết hợp với các di tích lịch sử Rôộc Cồn, Miệu Trăm Năm thành quần thể du lịch hấp dẫn.
Kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới không ngừng được củng cố và nâng cấp. Đã hoàn chỉnh quy hoạch thị trấn huyện, lập quy hoạch phát triển giao thông, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dọc đường Hồ Chí Minh. Công tác giải phóng mặt bằng phục vụ việc nâng cấp, cải tạo, làm mới đường giao thông được quan tâm, chỉ đạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh của địa phương. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ 46 tỷ đồng năm 2000 tăng lên 107 tỷ đồng năm 2005[96]. Hệ thống trường học, trạm xá, trụ sở, cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao và các công trình phúc lợi xã hội được tăng cường. Đến năm 2005, 6 xã có nhà làm việc cao tầng, 21/22 xã có trạm xá xây kiên cố, trong đó có 5 trạm xá chống lũ, 100% xã có nhà học cao tầng với 370 phòng. Trung tâm bồi dưỡng chính trị, các trường trung học phổ thông, trung tâm y tế, nhà làm việc nhiều cơ quan, đơn vị được nâng cấp, làm mới khang trang, sạch, đẹp. Nhiều công trình giao thông được đầu tư xây dựng, tiêu biểu có các cây cầu như: cầu Chợ Hôm, cầu Hà Linh, cầu Hương Thủy, cầu Hương Giang, cầu Gia Phố, cầu Lộc Yên...
Một trong những kết quả rõ nét trong công tác chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy là đã huy động được sự đóng góp to lớn của Nhân dân vào việc xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng. Trong 5 năm, huy động nội lực đạt gần 70 tỷ đồng, tiêu biểu như các xã: Gia Phố, Phú Phong, Hương Trạch, Phúc Trạch, Hoà Hải. Năm 2004, huyện và xã Gia Phố được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua về phong trào làm giao thông nông thôn, xã Phú Phong được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng bằng khen.
Kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển nên công tác thu ngân sách đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, mặc dù năm 2002, Nhà nước giảm 50% thuế nông nghiệp, năm 2003 giảm 10% nhưng tốc độ tăng thu thuế, phí, lệ phí và thu ngân sách khác của huyện vẫn đạt khá. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 14,120 tỷ đồng vào năm 2005. Đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên và đầu tư phát triển trên một số lĩnh vực trọng điểm. Ủy ban nhân dân huyện cơ bản đảm bảo được các nhu cầu chi thường xuyên, tăng đầu tư cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và đáp ứng được các nhu cầu đột xuất ở địa phương.
Nhờ quan điểm đúng đắn và những biện pháp chỉ đạo hiệu quả, đến cuối nhiệm kỳ, các chỉ tiêu trong ngành kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng giá trị chăn nuôi, thủy sản và ngành nghề. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (2000 - 2005) đạt 9,76%. Tổng giá trị GDP đạt 437,155 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người từ 2,8 triệu đồng năm 2000 tăng lên 4,1 triệu đồng năm 2005. Tỷ trọng nông - lâm nghiệp từ 74,5% năm 2000 giảm xuống còn 65,5% năm 2005; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản và thương mại, dịch vụ từ 25,5% năm 2000 tăng lên 34,5% năm 2005.
Các hoạt động văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, đạt được những chuyển biến tốt. Đảng bộ huyện tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trọng tâm là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, thôn xóm văn hóa. Chú trọng phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội nhằm tạo công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao động; nâng thu nhập bình quân đầu người và hạ tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, đảm bảo 100% học sinh là con hộ nghèo được miễn giảm học phí; gắn xóa đói giảm nghèo với thực hiện kế hoạch hóa gia đình; làm giàu chính đáng gắn với thực hiện nghĩa vụ công dân; rèn luyện thể dục, thể thao theo gương Bác Hồ vĩ đại...
Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh để cán bộ công chức, người lao động và Nhân dân tự giác, nâng cao ý thức xây dựng nếp sống văn hóa, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Năm 2001, huyện có 13.400 gia đình văn hoá, đạt tỷ lệ 43%; đến năm 2005, tăng lên 17.760 gia đình văn hoá, đạt tỷ lệ 70%; có 5.045 gia đình thể thao, đạt tỷ lệ 20%; có 115 làng, xã và 20 cơ quan đạt chuẩn văn hoá; có 70% xã, thị xây dựng được nhà bia tưởng niệm, 70% xóm xây dựng được hội quán. Các xã có tỷ lệ gia đình văn hoá cao như: Phú Phong, Thị trấn Hương Khê, Hương Trà, Hương Vĩnh, Gia Phố. Hệ thống phát thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông được đầu tư nâng cấp. Có 100% xã, thị lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống phát thanh, đảm bảo duy trì thời lượng phát sóng đài trung ương, địa phương. 100% xã có điểm Bưu điện văn hoá và điện thoại công cộng, toàn huyện có 3.700 đạt 3,5 máy/100 người dân/năm 2005. Có 96,5% hộ dân sử dụng điện và 85% hộ có phương tiện nghe nhìn.
Các hoạt động văn hoá, xã hội phát triển mạnh mẽ, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, lành mạnh, góp phần động viên Nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất. Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện sức khỏe diễn ra thường xuyên, nổi bật là các hoạt động bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, cờ tướng, câu lạc bộ thơ...
Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo tinh thần Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) tiếp tục được đẩy mạnh. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể các cấp, nhất là Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp huyện, xã đã tập trung triển khai tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ trong khu dân cư. Vận động nhân dân phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.
Thực hiện cuộc vận động xoá nhà tranh tre dột nát trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Chỉ thị số 14 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Hương Khê triển khai chương trình xoá nhà tranh tre dột nát, thực hiện xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005. Ngoài Ban chỉ đạo huyện do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm trưởng Ban, 22/22 xã, thị trấn đều thành lập Ban chỉ đạo, xây dựng đề án; tổ chức hội nghị quán triệt cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Ban xoá đói giảm nghèo cùng các ngành, các cấp, các địa phương tổ chức nhiều cuộc họp với cán bộ chủ chốt các phòng, ban, ngành và các xã vận động cán bộ, công nhân viên, Nhân dân trong huyện, các nhà hảo tâm quyên góp tiền của, công sức giúp hộ nghèo xây dựng lại nhà cửa. Cán bộ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tự nguyện ủng hộ các hộ nghèo đói từ 1 - 3 ngày lương. Mặt trận và các đoàn thể đều xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện phối hợp với các ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở khảo sát lại thực trạng nhà ở của hộ nghèo, hộ chính sách, tham mưu cho Ban chỉ đạo huyện xây dựng Đề án “Xóa nhà tạm bợ dột nát cho hộ nghèo” và ra lời kêu gọi các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp đóng trên địa bàn tích cực ủng hộ cuộc vận động. Đối với một huyện miền núi với tỷ lệ nhà tạm bợ, dột nát nhiều như Hương Khê thì đây là việc làm hết sức có ý nghĩa.
Cuối năm 2001, đầu năm 2002, cuộc vận động được tiến hành, đầu tiên ở các xã: Hương Đô, Phú Phong, Thị trấn nông trường 20/4, sau đó rút kinh nghiệm thực hiện ở các địa phương tiếp theo. Các đơn vị và cá nhân ngoài đóng góp cho “Quỹ vì người nghèo” còn hỗ trợ cả kinh phí và vật liệu cho các gia đình chính sách. Cán bộ, công nhân viên các cơ quan dành thời gian xuống tận cơ sở, hộ gia đình vận động, hướng dẫn, chỉ đạo làm nhà. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và mua vé số vì người nghèo. Từ 2000 - 2005, toàn huyện đã huy động đóng góp 15 tỷ đồng xoá nhà tranh tre dột nát và ngói hóa nhà ở cho 2.454 hộ nghèo, trong đó có 480 gia đình chính sách. 22/22 xã, thị trấn hoàn thành cơ bản chương trình xóa nhà tranh tre dột nát tạm bợ giai đoạn 2000 - 2005, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 12% năm 2005. Tiêu biểu cho hiệu quả thực hiện là các đơn vị: Phú Phong, Gia Phố, Hương Vĩnh, Lộc Yên, Hương Đô... Từ những kết quả trên, cuối năm 2005 Hương Khê được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bằng ghi công cho huyện và 22 xã, thị trấn vì đã hoàn thành xóa nhà tạm bợ dột nát cho hộ nghèo. Năm 2000, huyện có 10 xã, 2 làng văn hoá cấp tỉnh; năm 2005, tăng lên 20 đơn vị, làng xã đạt danh hiệu văn hoá cấp tỉnh, 15 đơn vị đạt văn hoá cấp huyện.
Được quan tâm lãnh đạo, chi đạo của Đảng bộ huyện, thành tựu nổi bật của Hương Khê giai đoạn này là sự phát triển đột phá của ngành giáo dục, trở thành một hiện tượng trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Thành công mang tính quyết định cho những đột phá của ngành Giáo dục và Đào tạo là việc hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08/CT, ngày 26/7/1999 về việc “Tập trung phát động chiến dịch toàn dân xây dựng cơ sở vật chất trường học” và Đề án số 492/ĐA-UB, ngày 4/8/1999 của Ủy ban nhân dân huyện về việc “Tổ chức chiến dịch toàn dân xây dựng cơ sở vật chất trường học”, 100% trường học trong huyện được cấp đủ đất theo số lượng học sinh.
Chiến dịch cơ sở vật chất trường học được triển khai mạnh mẽ đã làm thay đổi căn bản hệ thống cơ sở vật chất, tạo động lực cho giáo dục phát triển. Nét độc đáo của chiến dịch là các hạng mục đầu tư theo lối cuốn chiếu, mỗi năm một chương trình mục tiêu nhằm hoàn thiện dần từng bước cơ sở vật chất trường học, bám sát các tiêu chí trường chuẩn quốc gia. Chiến dịch không chỉ huy động được sức dân mà còn có sự tham gia tích cực của các cơ quan, xí nghiệp trong huyện, đồng thời vận dụng các chương trình đầu tư phát triển nông thôn và miền núi để thực hiện kiên cố hóa, hiện đại hóa. Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất trường học được định hướng nâng cấp các trường vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trên cơ sở vận dụng sự đầu tư của các chương trình quốc gia. Nhờ vậy, cơ sở vật chất trường học có sự thay đổi cơ bản, đồng đều, tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục lâu dài. Đến năm học 2005 - 2006, qua 6 chiến dịch xây dựng cơ sở vật chất trường học (đầu tiên từ năm học 1999 - 2000) đã huy động từ Nhân dân hơn 30 tỷ đồng. Các đơn vị thực hiện hiệu quả như: Phúc Trạch, Hương Bình, Thị trấn, Phương Mỹ, Hương Long... Hương Khê là đơn vị dẫn đầu toàn quốc về cuộc vận động xây dựng cơ sở vật chất trường học, được nhiều địa phương trong cả nước về tham quan, học tập.
Đồng thời với chiến dịch xây dựng cơ sở vật chất trường học là phong trào xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Năm 2001, UBND huyện thông qua Đề án 320/ĐA-UB về kế hoạch xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2010. Xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia trở thành một chỉ tiêu phát triển của các địa phương nên tạo thành một cuộc vận động lớn, ưu tiên đầu tư hàng đầu. Do vậy, tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn rất nhanh và rải đều khắp toàn huyện với nhiều địa bàn và điều kiện kinh tế khác nhau.
Năm học 2000 - 2001, huyện có 7 trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia; năm học 2001 - 2002, huyện có 6 trường tiểu học và 01 trường mầm non được công nhận đạt chuẩn quốc gia; năm học 2002 - 2003, huyện có 9 trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Năm học 2003 - 2004, Hương Khê trở thành đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về số trường đạt chuẩn quốc gia. Gia Phố là xã đầu tiên của Hương Khê có hai trường đạt chuẩn quốc gia (năm 2001). Trường Mầm non Bông Sen (Thị trấn) là một trong hai trường đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đồng thời được công nhận là lá cờ đầu phong trào thi đua mầm non toàn tỉnh (năm 2002). Năm 2004, xã Hà Linh có 3 trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Ở bậc trung học cơ sở, các trường Phúc Đồng, Phúc Trạch được chọn làm thí điểm và năm học 2003 - 2004 được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia. Phúc Đồng cũng là trường đầu tiên xây dựng mô hình vườn thực hành, sau đó nhân rộng ra tất cả các trường trung học cơ sở trong huyện.
Năm học 2001 - 2002, huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Đến năm 2005, huyện có 55 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 63%, là huyện thứ 2 trong cả nước có 100% trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1.
Năm 2000, trường Phổ thông trung học Phúc Trạch được thành lập. Năm học 2000 - 2001, trường cấp 2, 3 Vũ Quang tách thành trường Trung học phổ thông Vũ Quang (sau đó đổi tên thành trường Trung học phổ thông Hương Khê II, đến năm học 2004 - 2005 đổi thành trường Trung học phổ thông Hàm Nghi). Năm học 2004 - 2005, trường Trung học phổ thông Bán công Hương Khê (tiền thân của trường Trung học phổ thông Gia Phố) cũng được thành lập. Sự ra đời của các trường Trung học phổ thông trên địa bàn đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập của Nhân dân trong thời điểm nhu cầu học Trung học phổ thông tăng cao, số lượng học sinh tăng rất nhanh.
Song song với xây dựng cơ sở vật chất, toàn ngành thực hiện “Mười giải pháp” nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Nhiều nội dung quan trọng, phù hợp được cụ thể hóa thông qua “Mười giải pháp” đã được đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên trong toàn huyện thực hiện nghiêm túc như: giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ, giải pháp chấm dứt tình trạng học sinh gian lận trong thi cử, giải pháp tổ chức giờ học bài ở nhà theo tiếng kẻng tại thôn xóm... Qua đó, chất lượng giáo dục toàn diện của Hương Khê được nâng lên rõ rệt.
Những kết quả đạt được của ngành giáo dục đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. Năm 2004, ngành giáo dục và đào tạo Hương Khê được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng 3 và năm học 2004 - 2005 là đơn vị lá cờ đầu của ngành giáo dục Hà Tĩnh. Trường Tiểu học Thị trấn là lá cờ đầu bậc tiểu học toàn tỉnh; Thị trấn, Phúc Trạch, Hương Bình, Phúc Đồng, Hương Trà... là những đơn vị dẫn đầu của ngành giáo dục huyện giai đoạn này.
Thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 19/6/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp y tế” và Nghị quyết số 03-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác y tế trên địa bàn, ngày 28/10/2002 Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê xây dựng đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp y tế trong những năm tới”. Thực hiện đề án, Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo ngành y tế huyện tập trung quy hoạch, sắp xếp mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở hợp lý về cơ cấu và đáp ứng ngày càng tốt hơn về yêu cầu khám, chữa bệnh cho Nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ y tế gắn với nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia cũng như chính sách đối với đội ngũ cán bộ y tế.
Với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, công tác y tế huyện đạt nhiều kết quả tích cực. Mạng lưới y tế từ huyện đến xã, thị trấn được đầu tư xây dựng, củng cố và phát triển; cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện từng bước được tăng cường. Huyện có 01 trung tâm y tế, 02 phòng khám khu vực và 22 trạm y tế cấp xã. Công tác đào tạo, sắp xếp, bố trí cán bộ được quan tâm thực hiện hiệu quả. Toàn huyện có 277 cán bộ, nhân viên y tế, trong đó có 33 bác sỹ, chiếm tỷ lệ 17%.
Năm 2002, ngành y tế Hương Khê triển khai chương trình 10 chuẩn quốc gia về y tế xã, thị trấn. Năm 2005, 12/22 trạm đạt chuẩn, 7/22 trạm y tế có bác sỹ làm việc tại trạm, 100% xóm, bản có cán bộ y tế cơ sở, 68,6% hộ dân được dùng nước sạch. Chất lượng dịch vụ y tế ở tất cả các tuyến được cải thiện đáng kể. Các bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán; các loại dịch bệnh như thương hàn, dịch tả, sốt xuất huyết và một số dịch bệnh mới nổi như cúm A/H5N1... được khống chế và giám sát chặt chẽ. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và sinh đẻ có kế hoạch đượccấp ủy, chính quyền huyện hết sức quan tâm, chú trọng. Các xã, thị đều thành lập các Câu lạc bộ không sinh con thứ 3. Các dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch được mở rộng đến địa bàn đông dân cư, chất lượng dịch vụ được chú trọng, thuận tiện, an toàn, cơ bản đáp ứng yêu cầu của người dân. Năm 2004, ngành y tế huyện được Bộ y tế tặng Bằng khen.
Với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. Các chương trình bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được triển khai thực hiện theo tinh thần Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,92%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 26%. Số trẻ trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao, đặc biệt trẻ dưới 1 tuổi đạt từ 90 - 95%, các bệnh có vắc xin bảo vệ giảm hẳn.
Với nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện, nhìn chung công tác văn hóa - xã hội trong giai đoạn 2000 – 2005 của Hương Khê đã đạt được những kết quả quan trọng mới. Sự nghiệp giáo dục đạt được những thành tích rất đáng tự hào, chất lượng hoạt động của ngành y tế được nâng cao. Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Song song với công tác lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, công tác quốc phòng, an ninh được Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy chú trọng. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc và Nghị quyết số 04-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Ban Thường vụ Huyện ủy tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong huyện. Công tác tuyên truyền, điều tra độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự và tuyển gọi thanh niên lên đường nhập ngũ được thực hiện nghiêm túc. Trong 5 năm, đã tổ chức cho 620 thanh niên nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân trên giao, đảm bảo chất lượng an toàn và đúng luật, được Quân khu và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tặng bằng khen.
Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và hoạt động theo đúng pháp lệnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Năm 2003, toàn huyện có 11.020 dân quân. Trong đó quân dự bị hạng I là 2.512 người, hạng II là 8.508 người. Đội ngũ cán bộ xã đội ngày càng được chuẩn hoá, đến năm 2005, 100% xã đội trưởng là đảng viên, có trình độ trung cấp quân sự xã. Hàng năm có 25 - 30% số xã, thị trấn và huyện tổ chức diễn tập theo các phương án: Tác chiến phòng thủ ở cấp huyện, chiến đấu trị an ở cấp xã (phương án A); bảo vệ an ninh chính trị (phương án A2), bảo đảm hậu cần (phương án A3); phòng tránh, đánh trả địch tập kích đường không (phương án A4). Các cuộc diễn tập thể hiện rõ cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý điều hành, cơ quan quân sự, công an làm tham mưu, phối hợp với ban, ngành, mặt trận, đoàn thể thực hiện. Công tác xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu được chú trọng.
Công tác hậu phương quân đội có nhiều chuyển biến tích cực. Trong 5 năm, huyện đã tổ chức đóng góp “Quỹ tình nghĩa” được hơn 100 triệu đồng, làm mới 3 nhà bia tưởng niệm liệt sỹ, xây nhà tình nghĩa và giúp đỡ các gia đình chính sách xoá nhà tranh tre dột nát, đồng thời phối hợp cùng các ngành làm thủ tục hơn 1.000 hồ sơ cho những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam.
Từ tháng 8/2000, trên địa bàn huyện Hương Khê có 3 đồn biên phòng: Đồn Phú Gia (xã Phú Gia): phiên hiệu 571; Đồn Bản Giàng (xã Hương Vĩnh): phiên hiệu 575; Đồn Hoà Hải (xã Hoà Hải): phiên hiệu 569. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo tinh thần Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa IX), Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện phối hợp với lực lượng Bộ đội biên phòng Hương Khê xây dựng các đề án, phương án đảm bảo an ninh biên giới giai đoạn 2001 - 2005, phòng chống tội phạm ma tuý, trấn cướp vũ trang, buôn lậu trầm hương, rùa vàng, vượt biên trái phép... xây dựng phương án, kế hoạch phòng thủ khu vực, kế hoạch xây dựng cơ sở an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu; kế hoạch phòng chống khủng bố. Trong đó, lực lượng Bộ đội biên phòng phối hợp với Công an huyện đã tiến hành phá nhiều chuyên án, bắt giữ nhiều đối tượng phạm tội, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới, tạo điều kiện để Nhân dân hai nước đi lại, làm ăn sinh sống.
Thực hiện công tác giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn, lực lượng công an huyện làm tốt công tác tham mưu, tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nghị định của Chính phủ về công tác bảo vệ an ninh trật tự. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho Nhân dân. Năm 2004, Công an huyện phối hợp với Ban Chỉ huy quân sự huyện, Bộ đội biên phòng,cấp ủy, chính quyền cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật Biên giới Quốc gia (2003), Nghị định 140 (2004) của Chính phủ đến Nhân dân.
Công tác đấu tranh, truy quét các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội được lực lượng công an huyện và các ngành chức năng tăng cường thực hiện, kiềm chế tốc độ gia tăng tội phạm và tai nạn giao thông. Hàng năm, lực lượng công an huyện đã tiến hành điều tra, làm rõ, xử lý từ 30 - 40 vụ việc hình sự nhỏ theo thẩm quyền; khám phá nhanh các vụ trọng án, bắt đúng người, đúng tội, đảm bảo đúng pháp luật. Đề án xây dựng Hương Khê là địa bàn sạch về ma tuý tiếp tục được huyện triển khai hiệu quả. Đến cuối năm 2005, toàn huyện chỉ có 4/22 xã, thị trấn có đối tượng sử dụng chất ma tuý, huyện không có ổ nhóm, tụ điểm buôn bán ma tuý lớn.
Ngày 04/6/2004, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 46-CT/HU về mở cuộc vận động “Dòng họ, giáo họ an ninh, văn hoá”. Sau hơn một năm triển khai thực hiện, đã có 61 giáo họ/13 giáo xứ, 500 dòng họ đăng ký tham gia, tạo thành một phong trào thi đua sôi nổi trong các dòng họ.
Những năm 2000 - 2005, tình hình đơn thư khiếu nại nhiều, tình trạng tranh chấp đất đai vẫn còn xảy ra… Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy thành lập Ban Chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chỉ đạo tập trung giải quyết tốt đơn thư ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra trách nhiệm giải quyết đơn thư đối với cơ quan chức năng và những đơn vị, cơ sở có đơn thư khiếu tố. Công tác tiếp công dân cũng đi vào nề nếp, nhiều vụ việc do dân trực tiếp phản ánh, đề nghị được chỉ đạo giải quyết kịp thời, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng” trên địa bàn.
Trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trước những yêu cầu phát triển mới, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện không ngừng quan tâm chăm lo trên tất cả các mặt: công tác chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ và đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhiệm kỳ tập trung vào việc triển khai kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn việc học tập với việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, từ đó phát động các phong trào thi đua trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Huyện ủy đã tiến hành sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở; tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 100 của Ban Bí thư (khoá VIII) về việc tổ chức Trung tâm chính trị cấp huyện; tổng kết 30 năm thực hiện Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương và 10 năm thực hiện Thông báo 71 của Bộ Chính trị về công tác tuyên truyền; sơ kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Tỉnh ủy khóa XIV về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình mới; qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị để vận dụng vào công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ trong hiện tại.
Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện tập trung nghiên cứu, tổ chức học tập 10 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 23-CT/TW về học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn việc học tập với cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII. Qua học tập, tạo được sự chuyển biến bước đầu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và nghị quyết của Đảng để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra ở địa phương, đơn vị.
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao nhận thức về lý luận chính trị. Trong 5 năm (2000 - 2005), đã mở 119 lớp với tổng số 15.439 học viên tham gia học tập chính trị, trong đó có 17 lớp đối tượng Đảng, 97 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho các ngành và các đoàn thể, 3 lớp sơ cấp chính trị, phối hợp với trường Chính trị Trần Phú Tỉnh mở 2 lớp trung cấp chính trị tại huyện. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập Nghị quyết đạt trên 95%, tỷ lệ quần chúng tham gia học tập đạt 80%.
Công tác tổ chức cán bộ đượccấp ủy, chính quyền huyện quan tâm, chú trọng. Trong nhiệm kỳ, Huyện ủy đã cử 8 đồng chí đi học các lớp cử nhân và cao cấp lý luận chính trị, mở 01 lớp Đại học nông nghiệp tại chức cho 69 cán bộ cơ sở. Thực hiện tốt việc đánh giá, sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Công tác xây dựng chi bộ, Đảng bộ trong sạch, vững mạnh được gắn với việc củng cố cơ sở Đảng và phát triển đảng viên nhằm phát huy tính tiên phong, gương mẫu và vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Sau khi tách 5 xã về huyện Vũ Quang, Đảng bộ huyện Hương Khê có 52 tổ chức cơ sở Đảng với 5.172 đảng viên. Đến năm 2005, toàn huyện có 53 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 22 Đảng bộ xã, thị trấn; 10 Đảng bộ trực thuộc, gồm 7 đảng bộ cơ quan hành chính sự nghiệp, 3 Đảng bộ là doanh nghiệp nhà nước; 13 chi bộ cơ sở trực thuộc, trong đó có 6 chi bộ trường học, 7 đơn vị hành chính sự nghiệp. Số cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh năm 2005 chiếm 65,8%; tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm gần 57%, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ chiếm 42%. Trong 5 năm (2001 - 2005), kết nạp được 1.427 đảng viên, trong đó đảng viên nữ, trẻ, trí thức chiếm tỷ lệ khá, có 3 đảng viên người dân tộc Chứt, 43 đảng viên gốc giáo. Năm 2001, huyện có 14 xóm chưa có đảng viên, 39 xóm chi bộ sinh hoạt ghép; đến năm 2005 giảm còn 4 xóm chưa có đảng viên và 20 xóm chi bộ sinh hoạt ghép. Đã tổ chức đổi phát thẻ cho 5597/5782 đảng viên.
Công tác kiểm tra của Đảng bộ được tăng cường thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 17-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật Đảng1, góp phần ngăn chặn những vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên. Ủy ban Kiểm tra các cấp đã thực hiện tốt chương trình kiểm tra theo kế hoạch và chuyên đề. Nội dung kiểm tra đi sâu vào việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng. Trong quá trình tiến hành kiểm tra đã phối hợp chặt chẽ với thanh tra Nhà nước, các ngành chức năng như: tài chính, thuế, kho bạc, công an, viện kiểm sát Nhân dân, tham mưu để cấp ủy thực hiện công tác kiểm tra hiệu quả. Trong 5 năm, đã kiểm tra 33 tổ chức đảng, 173 đảng viên có dấu hiện vi phạm. Thi hành kỷ luật 8 tổ chức Đảng và 78 đảng viên có sai phạm. Công tác kiểm tra góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, củng cố lòng tin trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Cùng với nhiệm vụ công tác tư tưởng, tổ chức và cán bộ, nhiệm kỳ 2000 - 2005, Huyện ủy Hương Khê có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo, hướng sự lãnh đạo, chỉ đạo về cơ sở, phân công từng đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ phụ trách cơ sở và các lĩnh vực công tác. Từ đó, tập trung vào từng lĩnh vực cụ thể, vấn đề then chốt, tạo được những chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, đi sâu, đi sát cơ sở, dấy lên phong trào thi đua sôi nổi và rộng khắp trong cán bộ, đảng viên.
Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, nhiệm kỳ 2000 - 2005 hoạt động của bộ máy chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức trong hệ thống chính trị không ngừng được củng cố, hoạt động ngày càng hiệu quả.
Hội đồng nhân dân huyện nhiệm kỳ 1999 - 2004 từng bước được đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động, các kỳ họp đã đi sâu tập trung bàn và quyết định những nội dung trọng tâm, quan trọng nhằm phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh địa phương. Quan tâm giải quyết, phản ánh kịp thời đến cấp trên, đồng thời đôn đốc, giải quyết những kiến nghị của cử tri trong thẩm quyền. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp, phát huy dân chủ theo đúng quy định của pháp luật, thực hiện quy chế phân công, phân nhiệm rõ ràng. Từ đó đã tạo ra sự thống nhất cao trong công tác quản lý, điều hành, giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra của huyện.
Ngày 25/4/2004, huyện tổ chức thành công bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 2004 - 20111, 40 đại biểu được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện. Tại kỳ họp lần thứ nhất, Hội đồng nhân dân huyện đã bầu đồng chí Phan Thị Tập - Bí thư Huyện ủy giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân2; đồng chí Thái Bá Tài, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; đồng chí Ngô Xuân Ninh, Huyện ủy viên được bầu Ủy viên thường trực3; đồng chí Phan Văn Tích - Phó Bí thư Huyện ủy được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện4; đồng chí Hoàng Hữu Diễn và đồng chí Nguyễn Duy Nghị được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện5; bầu 2 ban Hội đồng nhân dân và 11 thành viên Ủy ban nhân dân huyện.
Giai đoạn 1999 - 2004, Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI, Nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện nhiệm kỳ 1999 - 2004 bằng việc xây dựng các đề án, kế hoạch hàng năm và tổ chức thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Trong chỉ đạo, điều hành, đã xác định những việc trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo, đồng thời xây dựng nhiều giải pháp cụ thể triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch cụ thể. Bởi vậy, vai trò quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh được tăng cường. Tạo được một số mũi đột phá quan trọng, nhất là xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới.
Công tác cải cách hành chính Nhà nước theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ gắn với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cơ sở được xác định là nội dung trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng chính quyền Nhân dân giai đoạn 2001 - 2005. Triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính nhà nước, các cấp chính quyền cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước của từng cấp theo luật định bằng những quy định, quy chế, chế độ làm việc cụ thể; phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy chính quyền; khâu đột phá trong cải cách hành chính là cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ những thủ tục rườm rà, gây khó khăn cho Nhân dân.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện đã triển khai thực hiện tốt Nghị quyết TW 7 khóa IX, Nghị quyết 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã góp phần tập hợp được đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia vào các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội. Mặt trận Tổ quốc còn tham gia có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và các chiến dịch do huyện phát động. Mặt trận Tổ quốc huyện lãnh đạo các đoàn thể thực hiện thắng lợi các các cuộc vận động do Mặt trận phát động như: Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “ông, bà, cha, mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “Ngày vì người nghèo”, “xóa nhà dột nát, ngói hóa nhà ở”... Các quy ước, hương ước, quy chế dân chủ được thực hiện rộng rãi. Việc động viên đồng bào lương giáo đoàn kết, sống tốt đời, đẹp đạo thực hiện tốt. Từ năm 2000 - 2004, Ủy ban Mặt trận tổ quốc huyện liên tục được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc tỉnh tặng bằng khen; năm 2004, được Chính phủ tặng bằng khen. Có 4 đơn vị xuất sắc được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen.
Liên đoàn Lao động huyện mặc dù mới được tái lập, cán bộ chuyên trách ít nhưng đã có những hoạt động tích cực. Đến năm 2005, có 14 công đoàn cơ sở được củng cố với 2.315 công đoàn viên, tỷ lệ tập hợp đạt 85%. Liên đoàn Lao động huyện đã tập hợp, động viên cán bộ, công chức thi đua lao động sáng tạo, xây dựng đơn vị văn hoá, phát động phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo; liên kết phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng người cán bộ công chức gương mẫu, tận tụy, giỏi việc nước, đảm việc nhà. Liên đoàn Lao động huyện Hương Khê là lá cờ đầu của Liên đoàn Lao động Hà Tĩnh về tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tệ nạn xã hội, về văn hóa, thể dục thể thao... Từ năm 2000 - 2004, 2 lần được Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng bằng khen, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng cờ thi đua.
Hội Nông dân đã tập trung kiện toàn tổ chức từ huyện xuống cơ sở, tỷ lệ tập hợp đạt 73% (năm 2005). Hội đã tích cực vận động nông dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là cải tạo vườn tạp, làm đường giao thông, xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật, mở rộng ngành nghề, đầu tư mua sắm công cụ lao động, thâm canh tăng năng suất… Những việc làm của Hội Nông dân đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn huyện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của huyện đã chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn từ huyện xuống cơ sở, tỷ lệ tập hợp đạt 67% (năm 2005). Huyện Đoàn đã tổ chức cho cán bộ đoàn học tập nghiêm túc các nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh thực hiện các phong trào “tuổi trẻ xung kích giữ nước”, “thanh niên lập nghiệp”, “thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” thu hút đông đảo các đoàn viên thanh niên tham gia. Qua thực hiện các phong trào đã góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh thiếu niên, nhi đồng không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện, lao động sáng tạo, xung kích đi đầu thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng - an ninh. Huyện đoàn Hương Khê được UBND tỉnh tặng Bằng khen và Tỉnh đoàn tặng Giấy khen.
Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, nhiều chị em trở thành cán bộ chủ chốt các địa phương, các ngành, đoàn thể, Đảng và chính quyền. Nhiệm kỳ 2000 - 2005 có 12 % Huyện ủy viên là nữ, 20% là nữ trong Hội đồng nhân dân huyện, 44,7% Hội đồng nhân dân xã. Hội đã kiện toàn tổ chức ở 22/22 xã, thị, có 282 phân chi hội, tỷ lệ thu hút hội viên đạt 85% (năm 2005). Hội còn thực hiện tốt các phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Hội đã huy động được 16 tỷ đồng tiền vốn cho 6.000 chị em vay để phát triển sản xuất, chăn nuôi. Từ năm 2000 - 2004, Hội được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tặng Bằng khen. Năm 2005, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng 3.
Hội Cựu chiến binh ngày càng phát triển vững mạnh, đến năm 2005, hội có 27 cơ sở hội và 296 chi hội với trên 4.000 hội viên. Thời gian qua, Hội đã phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” luôn luôn thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giải quyết các vấn đề nảy sinh ở địa bàn. Đặc biệt là thực hiện có hiệu quả các phong trào xóa đói giảm nghèo trong hội, giải quyết việc làm cho hội viên; phong trào xây dựng quỹ hội, hoạt động tình nghĩa. Năm 2001, Hội được tặng thưởng cờ thi đua cho tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Các tổ chức: Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ, Hội Khoa học - kỹ thuật, Hội Đông y, Hội Người mù… đều được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò trong giới, ngành mình, góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết và giúp đỡ hội viên, đóng góp cho các phong trào chung của huyện. Trong các hội, có Hội Người cao tuổi hoạt động mạnh, cơ sở rộng khắp. 100% xã có Hội Người cao tuổi, đã xây dựng được các hương ước làng xã, trong đó 10/22 chi hội hoạt động tốt, 267 chi hội thôn xóm, tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt trên 90%.
Công tác tôn giáo, dân tộc, được chú ý. Hoạt động tôn giáo diễn ra ổn định, đại bộ phận tín đồ hành đạo theo khuôn khổ luật pháp, thực hiện nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện lương giáo đoàn kết, giữ vững an ninh, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ đói nghèo, học sinh bỏ học ngày càng giảm. Đồng bào dân tộc thiểu số ở bản Rào Tre, xã Hương Liên có 28 hộ, 126 nhân khẩu. Những năm trước đời sống cực khổ, lạc hậu, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện, đã đầu tư làm đường giao thông, trợ cấp giáp hạt, khám chữa bệnh, khuyến khích học tập, đã có điện thắp sáng. Tập quán du canh, du cư được xoá bỏ, bộ mặt thôn bản được đổi mới. Tuy vậy, vẫn cần phải tiếp tục đầu tư công sức và tiền của để ổn định mọi mặt cho đồng bào.
Nhiệm kỳ 2000 - 2005, Đảng bộ Hương Khê với tinh thần năng động, sáng tạo, nắm vững thời cơ, tập trung cao vào nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng đã lãnh đạo Nhân dân phấn đấu đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tốc độ phát triển kinh tế bình quân hàng năm đạt 9,76%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2,8 triệu đồng/người/năm 2000 tăng lên 4,1 triệu đồng/người/năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Thu ngân sách đạt khá, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường. Văn hóa - xã hội có nhiều mặt tiến bộ. Quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân nâng lên rõ rệt. Bộ mặt nông thôn Hương Khê có nhiều đổi thay. Bên cạnh những kết quả đạt được, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa XXVI, huyện vẫn còn có nhiều khó khăn, hạn chế: cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, thu nhập bình quân đầu người còn thấp; chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân còn thấp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Từ những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế cần khắc phục, Đảng bộ Hương Khê xác định tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế, tranh thủ các nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đưa Hương Khê sớm thoát khỏi huyện nghèo, vươn lên giàu mạnh.
II. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, XÂY DỰNG HƯƠNG KHÊ NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (2005 - 2010)
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng; Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh, ngày 6/10/2005, huyện Hương Khê tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 tại Hội trường Trung tâm văn hóa huyện. Tham dự Đại hội có 198 đại biểu chính thức thay mặt cho gần 5.800 đảng viên sinh hoạt tại 53 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc.
Đánh giá về những kết quả đạt được sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI, Đại hội khẳng định: Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê với tinh thần tự lực tự cường, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, trở ngại, nỗ lực phấn đấu giành được những thành tựu to lớn và quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá và toàn diện, kết cấu hạ tầng được tăng cường. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, tình hình chính trị - xã hội ổn định. Khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được củng cố. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng, năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng và đảng viên không ngừng nâng lên. Những kết quả được đó đã tăng cường sức mạnh tổng hợp của huyện, làm thay đổi bộ mặt của quê hương và cuộc sống của người dân, tạo ra những cơ sở cần thiết để huyện tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh thành tích đã đạt được, Đại hội cũng chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại trong từng lĩnh vực cụ thể. Trong chỉ đạo phát triển kinh tế, Đại hội đánh giá, nhiệm kỳ 2000 - 2005, kinh tế của huyện tuy phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Hiệu quả của công tác chuyển đổi ruộng đất kết hợp với cải tạo đồng ruộng, cải tạo vườn chưa cao. Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển, các hoạt động thương mại, dịch vụ chưa đa dạng. Công tác quản lý thu - chi ngân sách, quản lý vốn, các chương trình dự án còn nhiều hạn chế. Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Công tác giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động tỷ lệ đạt thấp. Tệ nạn xã hội trên một số mặt diễn ra phức tạp hơn. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn có những hạn chế… Những khuyết điểm trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, chủ yếu nhất vẫn là do chưa phát huy hết vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng và quản lý, điều hành của chính quyền các cấp.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm: Thứ nhất: Coi trọng việc quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước. Bám sát thực tiễn, năng động, sáng tạo vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đơn vị, đề ra nhiệm vụ và giải pháp sát đúng. Thứ hai: Chọn khâu đột phá, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, kiên quyết xây dựng mô hình để nhân ra diện rộng. Thứ ba: Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ. Chủ động nắm bắt tình hình, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, vướng mắc và xử lý dứt điểm từ cơ sở, giữ vững ổn định chính trị để phát triển. Thứ tư: Chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sắp xếp cán bộ, phát huy hiệu qủa quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
Về phương hướng phát triển giai đoạn 2005 - 2010, Đại hội xác định: “Phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, lợi thế, tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển chăn nuôi, lâm nghiệp xã hội, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Quan tâm các hoạt động văn hóa, xã hội. Phát huy nhân tố con người, nâng cao dân trí, coi trọng chất lượng giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng. Làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo - xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Giữ vững quốc phòng - an ninh. Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Hương Khê sớm thoát khỏi huyện nghèo, vươn lên giàu mạnh”1.
Từ phương hướng, nhiệm vụ chung đó, Đại hội xác định một số mục tiêu cụ thể đến năm 2010: Về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt trên 14%. Tổng giá trị GDP đạt 903 tỷ 840 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó: Lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 50%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 30,5%; thương mại, dịch vụ chiếm 19,23%. Giá trị thu nhập bình quân đầu người đạt 8,4 triệu đồng/năm. Tỷ lệ che phủ đạt 60%. Làm mới 200km đường bê tông, 150km kênh mương bê tông. Thu ngân sách đạt trên 61 tỷ đồng, trong đó thu trên địa bàn đạt 52 tỷ đồng1.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Phấn đấu mỗi năm giảm từ 4 - 5% tỷ lệ hộ nghèo. Xuất khẩu lao động đạt từ 500 đến 700 người/năm. Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS, hoàn thành phổ cập bậc trung học vào năm 2009. Đến năm 2010, huyện có 80% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 30% gia đình thể thao; trên 95% hộ có phương tiện nghe nhìn. 100% xã có nhà làm việc cao tầng, 100% xóm có hội quán đủ tiêu chuẩn quy định. 5 xã đạt tiêu chí nông thôn mới, 100% trạm y tế xã đều có bác sỹ và đạt chuẩn quốc gia. Giảm tỷ lệ sinh trên 2 con hàng năm từ 3 đến 5%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới 20%.
Lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Xây dựng huyện có 100% cơ sở đạt tiêu chuẩn ATLC - SSCĐ, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngành công an, quân sự đạt danh hiệu quyết thắng. Phấn đấu 100% xóm có đảng viên, có chi bộ. Phấn đấu có trên 80% số Đảng bộ, chi bộ đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, 80% đoàn thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không có yếu kém. Đảng bộ huyện đạt danh hiệu “trong sạch, vững mạnh”.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đại hội đề ra từng nhóm nhiệm vụ gắn với giải pháp cụ thể để tổ chức triển khai. Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích để đạt 50 triệu đồng/ha. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XV) về lãnh đạo cuộc vận động chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp để hình thành và phát triển vững chắc các vùng chuyên canh, thâm canh cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa chăn nuôi thành mũi đột phá; xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Chú trọng mở rộng phát triển diện tích cây ăn quả có múi như bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây… Làm tốt công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết nhằm đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tư phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các thành phần kinh tế. Gắn phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phải tiếp tục làm tốt công tác chính trị, tư tưởng đảm bảo khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và Nhân dân. Tập trung nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là nâng cao năng lực của cơ quan và cán bộ làm công tác quản lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sáng, có năng lực chuyên môn và năng lực thực tiễn, thực hiện tốt pháp lệnh công chức; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhà nước. Chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công tác dân vận, Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 gồm 35 đồng chí. Tại phiên họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Phan Thị Tập - Tỉnh ủy viên tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Hoàng Hữu Diễn[97] được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Văn Thanh[98] được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
Ngày 9/12/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVI được tiến hành. Tại Đại hội, đồng chí Phan Thị Tập - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Đảng bộ Hương Khê đã xây dựng các nghị quyết chuyên đề, cụ thể hóa bằng các chương trình hành động dài và ngắn hạn. Chủ động, sáng tạo khai thác các nguồn lực, ưu tiên các công trình trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn, tạo bước đột phá phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, chăm lo công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Phấn đấu đưa Hương Khê sớm thoát khỏi huyện nghèo, vươn lên thành huyện khá của tỉnh Hà Tĩnh.
Trong chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, nhận thức rõ việc tích tụ, tập trung ruộng đất nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, tạo điều kiện để thực hiện tái cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp quy mô lớn, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 22-CT/HU, ngày 19/01/2007 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiếp đó, năm 2009 ban hành Chỉ thị số 52-CT/HU, ngày 13/05/2009 về việc tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp gắn với việc cấp giấy quyền sử dụng đất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nông nghiệp. Song song với quá trình chuyển đổi, các địa phương tiến hành quy hoạch lại đồng ruộng, đầu tư xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng, xây dựng các mô hình kinh tế trang trại, gia trại, hình thành quỹ đất công ích. Đẩy mạnh đầu tư, thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất. Phòng Nông nghiệp phối hợp với Trung tâm khuyến nông và Hội Nông dân tổ chức các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi và bảo vệ thực vật cho hàng nghìn lượt nông dân; xây dựng và chuyển giao các mô hình trình diễn lúa cao sản, ngô lai, sắn, đồng thời thực hiện chuyển đổi một số diện tích đất lúa 1 vụ sang 2 vụ hoặc trồng cây rau, màu có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Với sự tập trung vào các khâu trọng yếu, sự nỗ lực vươn lên của Nhân dân nên mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, lũ lụt1, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cả vật tư nông nghiệp nhiều biến động nhưng lĩnh vực trồng trọt vẫn đạt được kết quả khá toàn diện, năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều tăng. Năm 2010, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận lũ lịch sử nhưng diện tích trồng lúa vẫn đạt 5.086 ha, năng suất lúa đạt 32,49 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 23.500 tấn, tăng hơn 4.100 tấn so với năm 2005; giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đạt hơn 633 tỷ đồng.
Bên cạnh cây lúa, diện tích một số loại cây hoa màu có giá trị kinh tế cao như lạc, ngô, đậu tiếp tục được mở rộng và phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, nhất là cây ngô. Năng suất cây ngô tăng từ 23,95 tạ năm 2005 lên 26,99 tạ/ha năm 2010. Sản lượng tăng từ 2.942 tấn năm 2005 lên 3.328 tấn năm 2010. Một số địa phương trồng nhiều ngô như Hà Linh, Hương Thủy, Phúc Đồng, Hương Bình, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Hòa Hải đã thực hiện liên kết với các doanh nghiệp phát triển diện tích trồng ngô sinh khối. Diện tích gieo trồng rau các loại có khoảng 917 ha, năng suất bình quân đạt 46,48 tạ/ha, sản lượng hàng năm đạt 4.262 tấn.
Phát huy những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế vườn, trang trại, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 55/CT-HU, ngày 21/9/2009 về phát triển kinh tế vườn, trang trại giai đoạn 2009 - 2015 cùng nhiều chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm tiếp tục phát huy tiềm năng và lợi thế của huyện để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, trong đó chú trọng những loại cây chủ lực, có giá trị kinh tế cao như bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, cây gió trầm, cây cao su, chè công nghiệp...; Ủy ban nhân dân huyện tiếp tục phát động các chiến dịch cải tạo vườn tạp, thay thế các diện tích cây trồng ngắn ngày hiệu quả thấp bằng diện tích trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, tổ chức hàng trăm lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Đặc biệt, năm 2010, sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt Dự án “Bảo tồn, nhân giống và phát triển sản xuất giống bưởi Phúc Trạch theo hướng hàng hóa”, huyện đã xây dựng trại giống Bưởi Phúc Trạch (tại xã Phúc Trạch) với khả năng sản xuất trên 1,7 vạn cây giống mỗi năm, đồng thời hỗ trợ 40.000 đồng trên mỗi cây giống để khuyến khích bà con phát triển giống bưởi thuần chủng. Từ các chính sách khuyến khích sản xuất trên, diện tích cây bưởi Phúc Trạch phát triển nhanh chóng, trở thành một trong những cây trồng chủ lực của huyện. Năm 2008, huyện có 1.233 ha cây bưởi Phúc Trạch, 758 ha cam các loại, 523 ha cây gió trầm và 304 ha cây ăn quả khác. Năm 2010, trồng mới thêm được 958 ha cây ăn quả, 800 ha cây gió trầm, đưa diện tích cây ăn quả của toàn huyện lên 3.300 ha, diện tích cây gió trầm lên 2.200 ha. Tổng thu nhập từ kinh tế vườn năm 2006 đạt 34 tỷ đồng, năm 2008 đạt gần 49 tỷ đồng, năm 2010 là trên 80 tỷ đồng. Toàn huyện có 405 trang trại với diện tích gần 2.600 ha. Giá trị kinh tế bình quân đạt gần 60 tỷ đồng/năm. Các đơn vị đi đầu trong phong trào phát triển kinh tế vườn, trang trại giai đoạn này là các xã Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, Phú Gia, Hương Trạch… Phát triển kinh tế vườn, trang trại đã trở thành một trong những hướng xóa đói, giảm nghèo bền vững của huyện Hương Khê.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa 27 đưa chăn nuôi trở thành mũi đột phá, ngày 28/2/2006, Huyện ủy Hương Khê đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-HU về tăng cường lãnh đạo phát triển ngành chăn nuôi giai đoạn 2006 - 2010, trong đó xác định mục tiêu đến năm 2010, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm trên 37% cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Triển khai thực hiện, Ủy ban nhân dân huyện tập trung chỉ đạo các cấp, ngành nông nghiệp và các địa phương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp, chú trọng phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, gắn chăn nuôi với phát triển kinh tế trang trại. Hướng phát triển của ngành chăn nuôi trong giai đoạn này là phát triển nhanh đàn bò lai Sind, lợn hướng nạc… chú trọng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng để cung cấp thực phẩm chất lượng cao cho thị trường trong và ngoài huyện. Để đạt chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, huyện đã phân vùng và lựa chọn giống vật nuôi phù hợp, quy hoạch lại ngành chăn nuôi theo hướng công nghiệp hàng hóa. Do đó, số lượng con và trọng lượng vật nuôi đạt được khá cao. Công tác vệ sinh, phòng trừ dịch bệnh được chú trọng thông qua hoạt động của Trạm Thú y và lực lượng cán bộ kỹ thuật ở cơ sở nên cơ bản đã hạn chế và kiểm soát được các loại dịch bệnh như tai xanh, lở mồm long móng, dịch tả lợn trên địa bàn.
Với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã, giai đoạn 2006 - 2010, ngành chăn nuôi đã có những chuyển biến tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội ngành. Năm 2007, toàn huyện có trên 37.079 con trâu, bò; đàn lợn có 32.725 con; đàn gia cầm có trên 400.000 con. Năm 2010, số trâu, bò của huyện có 36.981 con (trong đó, bò lai sind chiếm 25% tổng đàn); đàn lợn có 33.425 con; đàn gia cầm trên 450.000 con. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản không ngừng được mở rộng. Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản năm 2009 đạt 284,3 tấn. Năm 2010, giá trị thu được từ ngành chăn nuôi đạt 178,297 tỷ đồng, chiếm 28,1% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Trong phát triển kinh tế lâm nghiệp: Thực hiện Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất; Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất trong giai đoạn 2007 - 2015 của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã xây dựng chương trình, kế hoạch hành động đẩy mạnh phát triển kinh tế lâm nghiệp, kinh tế trang trại. Ủy ban nhân dân huyện phối hợp cùng các ban ngành chức năng tiến hành rà soát, đánh giá lại 3 loại rừng để xây dựng kế hoạch quản lý rừng phòng hộ, bảo vệ rừng đặc dụng, trồng rừng, phát triển kinh tế dưới tán rừng. Qua đó đã soát xét, thu hồi và chuyển giao 7.635 ha rừng cho các hộ dân quản lý, phát triển kinh tế. Công tác trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng được các cấp ủy, chính quyền chăm lo chỉ đạo. Tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2010 đạt 73.289,1 triệu đồng. Công tác kiểm tra, kiểm soát bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng được tăng cường. Nhờ đó, tỷ lệ che phủ rừng không ngừng được nâng cao, năm 2009 đạt 63,7%.
Tron 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa 27 (2005 - 2010) bên cạnh một số thuận lợi, Hương Khê đã gặp nhiều khó khăn do thiên tai, lũ lụt. Năm 2007, địa bàn huyện liên tiếp phải hứng chịu ảnh hưởng của hai cơn bão số 2 và số 5, năm 2010 lại diễn ra trận lũ lịch sử đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Tuy nhiên dưới sự chỉ đạo và quan tâm kịp thời của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, sự phấn đấu nỗ lực của người dân, sản xuất nông nghiệp của huyện đã có nhiều chuyển biến quan trọng: Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp năm 2010 đạt 593.188,5 triệu đồng; tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt 20.263 tấn, tăng 890,2 tấn so với năm 2005. Cơ cấu cây trồng chuyển biến tích cực, mô hình kinh tế vườn, kinh tế trang trại phát triển mạnh mẽ. Một số loại cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao như bưởi, cam, chanh được đưa vào sản xuất đại trà, trở thành thế mạnh của Hương Khê. Chăn nuôi phát triển, tổng đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng khá. Nhiều hộ gia đình đã đầu tư chăn nuôi theo hướng liên kết mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đảng bộ huyện tập trung đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các thành phần kinh tế. Trước hết, huyện đã làm tốt công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, xây dựng cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, làng nghề giai đoạn 2005 - 2010 và những năm tiếp theo. Ủy ban nhân dân huyện phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết các thủ tục về đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng, như phối hợp cùng Công ty cao su triển khai xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su; triển khai xây dựng nhà máy thủy điện Chúc A, thủy điện Cây Trồi. Kêu gọi, thu hút nguồn vốn đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến các loại tinh dầu bưởi, cam, tràm, xây dựng nhà máy xi măng La Khê - Hương Trạch, nhà máy sửa chữa, bảo dưỡng ô tô, sửa chữa cơ khí hai bên dọc tuyến đường mòn Hồ Chí Minh… Nhiều dự án được triển khai hiệu quả như Dự án nhà máy gạch tuy-nen, gạch siêu mịn ở xã Hương Bình, Phúc Ðồng, chế biến cao-su tại xã Hà Linh… góp phần nâng cao tỷ trọng kinh tế của ngành. Cuối nhiệm kỳ, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2009 đạt gần 156 tỷ đồng.
Sự phát triển của các hoạt động sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tác động tích cực đến các ngành nghề dịch vụ - thương mại và du lịch. Trong nhiệm kỳ, huyện tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống chợ xã, chợ vùng như chợ Hương Trạch, chợ Hôm (xã Phương Mỹ), chợ Phương Ðiền, chợ Trúc, các cơ sở thương mại, dịch vụ từ thị trấn, thị tứ đến các xã vùng sâu, vùng xa, đẩy mạnh giao lưu hàng hóa giữa các vùng miền. Tăng cường quảng bá các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của huyện tại các hội chợ do tỉnh tổ chức.
Trong lĩnh vực dịch vụ, bên cạnh các loại hình dịch vụ truyền thống đã xuất hiện thêm nhiều hình thức mới như dịch vụ tài chính, tín dụng, bảo hiểm, dịch vụ công cộng, xã hội, trong đó phát triển mạnh nhất là loại hình dịch vụ vận tải. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ, vận tải năm 2009 đạt gần 134 tỷ đồng, tăng 8,65% so với năm 2008.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp có những bước phát triển quan trọng, năm 2010, trên địa bàn huyện có gần 80 doanh nghiệp hoạt động (trong đó có 5 doanh nghiệp nhà nước, 40 doanh nghiệp tư nhân, 15 công ty cổ phần, trên 30 công ty TNHH), trên các lĩnh vực khai thác chế biến nông, lâm sản và nông sản phụ, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí và xây dựng công trình dân dụng. Hoạt động của các doanh nghiệp đã tạo ra những chuyển biến đáng kể trong cơ cấu kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ, đồng đều của các ngành kinh tế, nhất là sự khởi sắc của lĩnh vực thương mại, hoạt động dịch vụ đã mang lại nguồn thu lớn cho huyện, góp phần quan trọng tăng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn. Tăng cường thêm nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Nhiều công trình trọng điểm phục vụ dân sinh được xây dựng, tiêu biểu như: trụ sở làm việc của các xã Hương Liên, Phú Gia, Hương Xuân, Phương Mỹ, Lộc Yên, thị trấn, Trung tâm văn hóa huyện. Tu sửa và nâng cấp Bệnh viện đa khoa, Trung tâm y tế dự phòng huyện. Tổng giá trị xây dựng cơ bản trong 5 năm đạt 860 tỷ 444 triệu đồng, trong đó, nguồn đầu tư của các doanh nghiệp và đóng góp của Nhân dân là 231 tỷ đồng.
Hệ thống đường giao thông được đầu tư nâng cấp đồng bộ. Đến năm 2010, Hương Khê có 321 km đường bê tông, nhựa hóa các loại, cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế của người dân. Hệ thống các hồ đập được đầu tư nâng cấp với tổng số vốn trên 196 tỷ 386 triệu đồng. Các trạm bơm được tăng cường nhằm tăng thêm năng lực dự trữ nước trên các hồ đập, đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vào mùa khô, hạn.
Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển nhanh, rộng khắp. 100% xã, thị trấn được phủ sóng điện thoại di động. Năm 2010, toàn huyện có trên 200 cổng Intenet tốc độ cao, 17/22 xã, thị trấn có điểm truy cập intrenet. Trên 95% hộ gia đình có phương tiện nghe, nhìn. Đài Phát thanh - truyền hình huyện và hệ thống truyền thanh cơ sở làm tốt công tác tiếp, phát sóng các chương trình TW, tỉnh và xây dựng chương trình địa phương phục vụ nhiệm vụ chính trị huyện.
Sau 5 năm đẩy mạnh phát triển kinh tế trên các lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, cơ cấu kinh tế huyện đã có sự chuyển dịch tích cực, đúng hướng, phù hợp với điều kiện tự nhiên và yêu cầu phát triển của xã hội: Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm từ 62,73% xuống còn 51,3%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản tăng từ 26,23% lên 35,6%; thương mại - dịch vụ tăng từ 11,04% lên 13,1%; Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm đạt 9,65% (cao hơn mức bình quân chung của toàn tỉnh (9,43%). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 4,2 triệu đồng đầu nhiệm kỳ lên 8,3 triệu đồng năm 2010.
Những bước phát triển vượt bậc trên lĩnh vực kinh tế đã tạo nên những động lực quan trọng, tạo tiền đề vật chất để Đảng bộ huyện đẩy mạnh phát triển văn hóa - xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân. Giai đoạn này cũng đánh dấu những thành tích nổi bật của lĩnh vực văn hóa, xã hội với những điểm nhấn quan trọng ở các ngành giáo dục và đào tạo, y tế, giải quyết chế độ chính sách.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Huyện ủy đã tập trung khảo sát, đánh giá về thực trạng để ban hành các Nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực văn hóa, xã hội. Trên cơ sở đó, ngày 05/01/2006, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 02-NQ/NQ về tăng cường lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo và thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học giai đoạn 2005 - 2010. Trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục vững mạnh; tăng cường cơ sở vật chất; tiếp tục đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục; tiếp tục củng cố xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chăm lo công tác đào tạo nghề.
Phong trào xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 03-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khoá XV, Đề án số 543/ĐA-BCĐ XDCSVC của Ủy ban nhân dân huyện về việc phát động chiến dịch toàn dân tham gia xây dựng cơ sở vật chất trường học. Thực hiện đề án, Nhân dân trong huyện đã tham gia đóng góp hàng trăm triệu đồng để xây dựng cơ sở vật chất trường học, mua sắm thêm các trang thiết bị dạy học cho các nhà trường. Cơ bản, năm học 2007 - 2008, không còn tình trạng học ca ba, 100% các trường đều được xây dựng kiên cố hóa; hơn 80% bàn ghế ở các lớp học được trang bị đúng quy chuẩn; 100% các trường có máy vi tính, 100% trường học có bảng chống lóa, hầu hết các trường đều đã xây dựng được nhà vệ sinh, nước sạch cho học sinh sử dụng. Đặc biệt, trên cơ sở vận dụng sự đầu tư của các chương trình quốc gia, huyện chú trọng đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất trường học cho các trường học thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhờ đó, cơ sở vật chất các trường học ở các vùng này đã có sự biến đổi cơ bản, một số trường có 2 nhà học cao tầng, có đầy đủ các trang thiết bị dạy và học hiện đại. Đây cũng là giai đoạn mà huyện đã thu hút được một số dự án của các tổ chức quốc tế, chương trình tài trợ của các cấp, các ngành và cơ quan cấp tỉnh vào đầu tư cho lĩnh vực giáo dục... Điển hình, năm 2007, Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á đã tài trợ 4 tỷ đồng xây dựng nhà học 3 tầng cho trường THCS bán công Chu Văn An; năm 2009, tập đoàn tài chính Him Lam đầu tư hơn 16 tỷ đồng xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất trường Tiểu học Thị trấn Hương Khê... Nhiều trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở được đầu tư xây dựng từ chương trình kiên cố hóa trường học như trường mầm non Hòa Hải, Hoa Mai, THCS Hương Trà, Phúc Trạch, Chu Văn An...
Cùng với công tác xã hội hóa giáo dục và xây dựng cơ sở vật chất trường học, Đảng bộ huyện tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia với phương châm “Toàn dân xây dựng trường Chuẩn”, đây cũng là điểm sáng của ngành giáo dục Hương Khê trong giai đoạn này. Năm học 2006 - 2007, toàn huyện có 9 trường mầm non, 16 trường THCS đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I, 2 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn II. Đến năm 2010, số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn là 66/87 trường. Với những kết quả đạt được, nhiều năm liên tục Hương Khê được công nhận là huyện dẫn đầu toàn tỉnh về phong trào xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia và là huyện thứ 2 trong cả nước có 100% trưởng tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
Với sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội, chất lượng giáo dục trong giai đoạn 2005 - 2010 có sự chuyển biến rõ rệt. Huyện tiếp tục giữ vững phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2009, có 8 xã đạt phổ cập giáo dục bậc trung học. Tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp, học sinh giỏi ở các bậc học, học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng. Trong nhiệm kỳ đã thực hiện chuyển đổi thành công 13 trường Mầm non, trường trung học cơ sở Chu Văn An, trường trung học phổ thông bán công sang loại hình công lập. Hàng năm, huyện có từ 400 đến 500 em học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, riêng năm 2009, toàn huyện có trên 994 em thi đậu. Ghi nhận những kết quả đã được của ngành Giáo dục & Đào tạo Hương Khê, năm 2009, ngành Giáo dục huyện được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, là đơn vị tiên tiến xuất sắc của tỉnh trong nhiều năm liên tục.
Có thể thấy rõ, với sự cố gắng của cấp ủy, chính quyền, sự chung tay của toàn xã hội, sự phát triển của ngành giáo dục & đào tạo Hương Khê đã trở thành một hiện tượng, một nhân tố tích cực trong tỉnh, đặc biệt là trong thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục và xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia. Năm 2006, Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện đón đoàn kiểm tra Thi đua 6 tỉnh Bắc miền Trung. Đoàn cán bộ cao cấp của Bộ Giáo dục nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Bộ trưởng dẫn đầu cũng đã đến Hương Khê tham quan, học hỏi kinh nghiệm. Nhiều trường, nhiều huyện trong và ngoài tỉnh đã lấy Hương Khê làm hình mẫu để học tập về phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, do điều kiện của huyện miền núi khó khăn về kinh tế, ngành giáo dục Hương Khê vẫn còn một số hạn chế, đó là tình trạng nhiều trường chưa có đủ các phòng chức năng, phòng họp chuyên môn, thư viện, các công trình phụ trợ như: công trình vệ sinh, nước sạch, cây xanh, sân chơi, bãi tập thể dục,.... Một số trang thiết bị phục vụ hoạt động dạy học còn thiếu. Đặc biệt, hai trận lũ kép lịch sử xảy ra năm 2010 đã nhấn chìm 63 trường học trong biển nước, cơ sở vật chất của các nhà trường bị tàn phá nặng nề, chưa thể phục hồi trong một thời gian ngắn.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu, đạt nhiều kết quả thiết thực, từng bước tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú. Năm 2007, tỷ lệ gia đình văn hóa của huyện đạt 51,6%, gia đình thể thao đạt 16,6%, tỷ lệ làng văn hóa, cơ quan văn hóa đạt 33%. Năm 2010, toàn huyện có 75% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá (17.500 hộ); 34% gia đình đạt gia đình thể thao (7.715 hộ), có 10 xã, 65 làng, 40 cơ quan được công nhận đơn vị văn hoá; 85% xã có hương ước; huyện có 12 di tích lịch sử văn hoá được công nhận di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia. Việc thực hiện nếp sống văn hóa theo tinh thần Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ Chính trị có nhiều chuyển biến tích cực.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã có nhiều văn bản chỉ đạo các ngành, các địa phương đẩy mạnh phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, góp phần nâng cao đời sống tinh thần và hưởng thụ văn hóa của người dân trên địa bàn. Năm 2007, huyện tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 140 năm ngày thành lập huyện Hương Khê; năm 2009 tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao toàn huyện lần thứ VI.
Thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới, ngay đầu nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng Chương trình hành động số 03, trong đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của hệ thống y tế công lập, bệnh viện đa khoa huyện và các trạm y tế cơ sở; tăng cường củng cố cơ sở vật chất cho các đơn vị y tế, các cơ sở khám chữa bệnh, đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị hiện đại. Đội ngũ cán bộ, y, bác sĩ được chú trọng phát triển cả về số lượng và trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của Nhân dân. Năm 2010, toàn huyện có 20/22 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 8/22 trạm y tế có bác sỹ; Bệnh viện đa khoa huyện có 120 giường bệnh.
Hoạt động y tế dự phòng, chương trình mục tiêu quốc gia y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, chương trình phòng chống HIV/AIDS… tiếp tục được triển khai tích cực như chương trình “Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2001 - 2010"; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình mục tiêu quốc gia về Dân số và kế hoạch hoá gia đình giai đoạn 2006 - 2010... Năm 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,58%; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 19,22%, giảm trên 5% so với năm 2005; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 22,3%.
Thực hiện công tác chính sách xã hội giai đoạn 2005 - 2010, trên cơ sở Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2006 - 2013, huyện đã lồng ghép các chương trình kinh tế, xã hội với các dự án giải quyết việc làm như cho hộ nghèo vay vốn, hỗ trợ dạy nghề gắn với việc làm, hỗ trợ về y tế cho người nghèo và cận nghèo, hỗ trợ người nghèo về nhà ở, nhà vượt lũ... nhằm phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của người dân. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Mặt trận tổ quốc huyện cùng các ban ngành đoàn thể đã làm tốt công tác cứu trợ cho Nhân dân do trận lũ lịch sử năm 2007, năm 2010, cứu đói giáp hạt năm 2008. Năm 2009, huyện tiếp nhận và cấp phát 810 tấn gạo và gần 8 tỷ đồng cứu trợ cho các đối tượng. Chi trả trợ cấp cho người có công với số tiền lên tới 45 tỷ đồng. Trong 05 năm, đã huy động được gần 700 triệu đồng xây dựng Quỹ Vì người nghèo, qua đó trực tiếp giúp đỡ hàng trăm gia đình thoát nghèo bền vững. Tu sửa, làm mới được 43 căn nhà cho các đối tượng chính sách và hộ nghèo. Quan tâm chăm lo thực hiện tốt công tác chính sách xã hội và có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa đối với người có công, gia đình chính sách; tập trung giải quyết các vấn đề tồn đọng trong công tác chính sách xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Những nỗ lực đó đã giúp địa phương giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo từ 48,7 năm 2006 xuống còn 14,58% năm 2009; hộ cận nghèo 24,63%.
Có thể thấy những kết quả đạt được trong công tác xoá đói, giảm nghèo giai đoạn này là rất to lớn, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân tộc trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, do những khó khăn về điều kiện địa lý, tự nhiên, dân cư nên so với nhiều địa phương khác của tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo của huyện còn cao. Vì vậy, tháng 12/2009, Ủy ban nhân dân huyện đã xây dựng Đề án số 1128 về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2010 - 2015, mục tiêu nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các xã nghèo, đảm bảo đến năm 2015 ngang bằng các huyện khác trong tỉnh. Mục tiêu đến năm 2015, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 12%, cơ bản huyện không còn hộ dân ở tạm.
Nhìn chung, giai đoạn 2005 - 2010, các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao về chất lượng, đặc biệt lĩnh vực giáo dục của huyện tiếp tục có những bước phát triển đột phá, ngành giáo dục trở thành điểm sáng của Hà Tĩnh. Công tác lao động - việc làm và thực hiện các chính sách đối với người có công, chính sách bảo trợ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, chương trình xóa đói giảm nghèo… đã đem lại những hiệu quả cụ thể, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh huyện nhà tiếp tục đi lên. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đạt được vẫn còn có những hạn chế cần khắc phục, đó là: tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên có chiều hướng tăng cao, chưa xây dựng được mô hình xã không có người sinh con thứ 3, việc đưa bác sỹ về xã chưa đảm bảo mục tiêu đề ra, hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm dạy nghề chưa cao.
Đối với công tác quốc phòng, an ninh, Huyện ủy đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 06/12/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Cấp ủy, chính quyền địa phương trực tiếp là cơ quan quân sự, công an các cấp đã thường xuyên quan tâm phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ; tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ; kết hợp chặt chẽ việc xây dựng với củng cố thế trận quốc phòng vững chắc, có trọng điểm; coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Ban Chỉ huy Quân sự huyện phối hợp với Đồn Biên phòng Bản Giàng, Đồn biên phòng Hòa Hải, đồn biên phòng Phú Gia triển khai thực hiện tốt Đề án “Củng cố, kiện toàn tổ chức biên chế” theo quy định của Bộ Quốc phòng. 100% Ban Chỉ huy quân sự xã, thị trấn cơ cấu đủ 3 đồng chí. Đồng chí chỉ huy trưởng được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã, thị trấn để có điều kiện thuận lợi nắm bắt thông tin và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương.
Từ năm 2005, lực lượng Dân quân tự vệ được xây dựng theo Pháp lệnh Dân quân tự vệ; duy trì Ban Chỉ huy Quân sự cơ quan trong khối cơ quan Đảng và khối chính quyền theo quy định. Biên chế các đơn vị Dân quân tự vệ thành hàng chục tiểu đội, khẩu đội, trung đội và bổ nhiệm cán bộ chỉ huy cho từng cấp. Hàng năm, huyện đảm bảo quân số gửi đi đào tạo nguồn theo Chỉ thị số 34/CT-BQP của Bộ Quốc phòng.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã, thị trấn chỉ đạo thực hiện tốt Pháp lệnh Nghĩa vụ quân sự và Dự bị động viên. Trong 5 năm, huyện có 650 thanh niên nhập ngũ, gần 350 thanh niên tham gia công tác đào tạo nguồn dự bị động viên. Trong số đó, trên 75% được biên chế vào các đơn vị theo luật định.
Năm 2006, huyện tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ kết hợp đạt kết quả tốt, được Ban chỉ huy quân sự tỉnh đánh giá cao về công tác chuẩn bị, triển khai. Từ năm 2006 - 2010, chỉ đạo tổ chức diễn tập chiến đấu trị an kết hợp với PCBL, PCCCR ở 19 xã, thị trấn đạt hiệu quả thiết thực. Chính sách hậu phương quân đội và các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” được Huyện ủy quan tâm triển khai đồng bộ, toàn diện theo các quyết định của Chính phủ, của Bộ Quốc phòng.
Đối với công tác giữ vững trật tự an ninh, Huyện ủy tập trung lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 40-NQ/TW ngày 8/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Công an trong tình hình mới, yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền bám sát nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế, xã hội của địa phương để chỉ đạo công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; quan tâm xây dựng lực lượng Công an nhân dân; chủ động ngăn chặn các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Các vụ trọng án đều được Công an huyện điều tra, khám phá nhanh, như chuyên án phá băng cướp sử dụng vũ khí quân dụng giết người, cướp tài sản ở các xã khu vực biên giới do Hoàng Văn Hướng làm thủ lĩnh xảy ra năm 2009; băng cướp táo tợn, hung hãn do 2 đối tượng Phan Văn Cường, Lê Văn Bình cầm đầu… Đặc biệt, trong trận lũ lịch sử diễn ra vào tháng 10/2010, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ Công an huyện đã đằm mình trong lũ dữ, cùng với các lực lượng khác kịp thời sơ tán hơn 5.000 lượt người ngay trong đêm, cứu vớt được hơn 300 người dân đang bị dòng lũ cuốn trôi1.
Nhận thức được tính chất, vai trò, tầm quan trọng của công tác đảm bảo an ninh tôn giáo trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển quê hương, Huyện ủy chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo phát huy năng lực hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Nâng cao vai trò của đảng viên là người theo đạo Thiên chúa giáo trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng đặc thù, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Thông qua đó, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó, hiểu biết, tin cậy giữa chính quyền địa phương, lực lượng Công an với các chức sắc, chức việc, giải quyết kịp thời, hợp lý, khắc phục tình trạng lấn chiếm đất đai, xây dựng cơ sở tôn giáo trái phép như vụ ở nhà thờ Sở Trại Lăng (cuối năm 2007). Mô hình “Dòng họ, giáo họ an ninh văn hoá” tiếp tục được triển khai. Điển hình của việc thực hiện mô hình này là xã Gia Phố, đơn vị có hơn 85% dân số là giáo dân, có nhiều vấn đề về an ninh trật tự nhưng sau một thời gian triển khai, xã trở thành điểm sáng toàn diện trong công tác an ninh trật tự vùng giáo, 8 năm liên tục, xã được Bộ Công an và Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Cờ “Đơn vị dẫn đầu phong trào bảo vệ ANTQ”và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới năm 2005.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật về buôn lậu, gian lận thương mại, ma túy, vận chuyển trái phép vũ khí, vật liệu nổ, trộm cướp, cố ý gây thương tích và đánh bạc được quan tâm. Lực lượng công an huyện thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức tuần tra đảm bảo trật tự an toàn tại địa bàn trọng điểm. Công an huyện đã tổ chức tốt việc cai nghiện và quản lý sau cai nghiện. Qua thực hiện nhiệm vụ, xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân có cách làm hay, sáng tạo trong tổ chức mô hình về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, trở thành những điển hình như các xã Lộc Yên, Hương Trạch, Thị trấn Hương Khê.
Lực lượng Công an huyện còn phối hợp, triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nhằm ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế, nhất là tội phạm buôn lậu và gian lận thương mại. Trong 5 năm (2005 - 2010), huyện đã bắt giữ trên 500 vụ buôn lậu, buôn bán hàng cấm, gian lận thương mại, mua bán, tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ... Chính quyền các xã đã phối hợp chặt chẽ trong công tác phòng chống buôn lậu và buôn bán hàng cấm, trong đó nổi bật là các xã: Hương Lâm, Phú Gia, Hòa Hải, Thị trấn... Thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, toàn huyện đã xây dựng được hơn 300 dòng họ, giáo họ an ninh văn hóa, 1.561 tổ liên gia tự quản về an ninh trật tự, góp phần hình thành thế trận toàn dân tham gia phòng ngừa, đấu tranh tố giác tội phạm, cung cấp cho lực lượng Công an những thông tin quan trọng về hoạt động của các loại đối tượng phạm tội hình sự.
Nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, lực lượng vũ trang huyện cùng với Nhân dân đã có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với việc củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân; tạo nên thế trận an ninh nhân dân vững chắc, gắn kết với việc xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy, từng bước hiện đại, đủ sức bảo vệ vững chắc địa bàn, tích cực tham gia sản xuất, xây dựng quê hương. Tuy nhiên, bên cạnh mặt ưu điểm vẫn còn những khó khăn, có những nhiệm vụ cần tiếp tục đẩy mạnh để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Đó là công tác xây dựng cơ sở an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu ở một số xã chưa tốt, còn lúng túng khi xử lý một số vụ việc phức tạp; chưa hạn chế được tệ nạn đánh bạc; lứa tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng; tệ nạn ma túy, tai nạn giao thông diễn biến phức tạp đang gây bức xúc đối với người dân; tình trạng lấn chiếm hành lang an toàn giao thông vẫn còn xảy ra, khó xử lý dứt điểm.
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được chú trọng. Huyện ủy không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đổi mới đồng bộ công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; chăm lo mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân…
Đối với công tác chính trị, tư tưởng, Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc tuyên truyền giáo dục các chủ trương, đường lối của Đảng, Nghị quyết đại hội các cấp; bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các tầng lớp Nhân dân. Đội ngũ báo cáo viên được tăng cường, đến năm 2009, toàn huyện có 102 báo cáo viên, trong đó cấp huyện có 42 đồng chí (2009). Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện đáp ứng ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Từ năm 2006 - 2010, Trung tâm đã phối hợp với các ngành liên quan mở 112 lớp với nhiều loại hình đào tạo, có 13.147 lượt học viên tham gia.
Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, lịch sử địa phương được quan tâm. Huyện đã hoàn thành biên soạn và phát hành nhiều ấn phẩm quan trọng như: Hương Khê 135 năm, Hương Khê văn hoá - danh thắng, Hương Khê - 140 năm hình thành và phát triển… Đây là nguồn tài liệu quý để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Hướng dẫn số 01-HĐ/BCH của Ban chỉ đạo Cuộc vận động tỉnh Hà Tĩnh, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê đã thành lập Ban Chỉ đạo cuộc Vận động do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban; chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch; tổ chức hội nghị tập huấn báo cáo viên để đẩy mạnh công tác tuyên truyền; phân công ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ huyện về trực tiếp chỉ đạo điểm vùng mình phụ trách; chọn đơn vị Công an huyện, Bệnh viện đa khoa huyện, xã Hương Bình làm điểm. Huyện ủy quyết định lấy kết quả thực hiện cuộc vận động làm căn cứ quan trọng để bình xét thi đua khen thưởng tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ, đảng viên định kỳ... Trong 4 năm thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cấp ủy và Ban Chỉ đạo đã ban hành hàng chục văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nghiêm túc có kiểm tra, xếp loại. Nội dung thực hiện cuộc vận động gắn với nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, địa phương, được cụ thể hóa dưới nhiều hình thức sinh động, sáng tạo: Tổ chức nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức Hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở các xã, thị trấn, cơ quan, trường học; đẩy mạnh cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về Bác Hồ; tổ chức cuộc thi tìm hiểu về Đảng bộ và quê hương Hương Khê (năm 2007); tổ chức gặp mặt, biểu dương các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày sinh nhật Bác (19/5).
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Toàn huyện có 100% tổ chức cơ sở mở lớp học tập, quán triệt các chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh với 500 lớp và 70.000 lượt cán bộ, đảng viên tham gia; tỷ lệ đảng viên tham gia học tập đạt 96,8%, tỷ lệ đoàn viên, hội viên học tập đạt trên 80%. Sau mỗi đợt học tập chuyên đề, các tổ chức cơ sở Đảng đã giao cán bộ, đảng viên thảo luận và làm bài thu hoạch, có tổng hợp, đánh giá của cấp ủy. Từ việc học tập, đã lãnh đạo, hướng dẫn cho các đảng bộ, chi bộ lấy ý kiến đóng góp của quần chúng cho cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng đúng quy trình, đảm bảo chất lượng, từ đó, xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cụ thể, sát với yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn và thực tế của cơ quan, đơn vị.
Cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã diễn ra ở 34/54 đảng bộ, chi bộ cơ quan với 300 lượt thí sinh dự thi thuộc nhiều thành phần, các giới, lứa tuổi. Qua các vòng thi sơ khảo ở xã, đơn vị, cụm, huyện đã chọn thí sinh Nguyễn Thị Việt Hoa - Đảng bộ xã Phú Phong đạt giải nhất cấp huyện tham dự vòng sơ loại cấp tỉnh. Một số địa phương có cách làm hay, sáng tạo góp phần tạo sự lan tỏa của hội thi như Thị trấn, Hương Trà, Phú Phong…
Việc triển khai thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bước đầu đã tạo được chuyển biến tích cực về nhận thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong, lề lối làm việc, ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Từ chuyển biến về nhận thức, Cuộc vận động từng bước chuyển mạnh sang hướng “làm theo”. Sau 4 năm, toàn huyện có 98 tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến được biểu dương tại huyện, trong đó có 6 tập thể và cá nhân xuất sắc được vinh danh cấp tỉnh, đồng chí Đặng Tiến Dũng (xã Phúc Đồng) được Ban chỉ đạo Trung ương tặng Bằng khen nhân dịp tổng kết 4 năm thực hiện cuộc vận động.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ được quan tâm và có nhiều chuyển biến. Chất lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở đảng được nâng lên thể hiện ở việc chuẩn bị nội dung và ra các nghị quyết, chương trình hành động phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Đến cuối năm 2009, Đảng bộ huyện còn 50 tổ chức cơ sở Đảng.
Ngày 17/4/2007, Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết 06/NQ/HU về tăng cường lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ trong những năm tới với quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu “phấn đấu đến năm 2010 đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở chuẩn hóa theo các tiêu chuẩn quy định hiện nay”. Nghị quyết ra đời đã được triển khai nghiêm túc ở tất cả các xã, cơ quan, đơn vị trong toàn huyện trong đó quan tâm đến việc nâng cao nhận thức về chính trị, vai trò của công tác cán bộ trong cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm túc phê bình và tự phê bình, đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên, công chức; coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; công tác đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, thay thế, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ đảm bảo quy trình... Nhờ đó, chất lượng đội ngũ cán bộ nâng lên, có 80% cán bộ đạt chuẩn (năm 2010).
Từ năm 2009, thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP cán bộ và công chức cấp xã có trình độ chuyên môn phù hợp đều được xếp lương theo bảng lương hành chính. Đây là một khích lệ lớn cho cán bộ, công chức, giúp họ yên tâm công tác, cống hiến. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác cán bộ của huyện có một số hạn chế, như: một số cấp ủy cơ sở nhận thức chưa đầy đủ về chiến lược cán bộ nên việc xây dựng quy hoạch cán bộ chất lượng chưa cao, nguồn cán bộ mỏng, nhất là vùng đặc thù; vẫn còn một số cán bộ chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công việc chưa cao...
Công tác phát triển đảng viên được Huyện ủy quan tâm nhất là ở vùng nông thôn, những xóm chưa có đảng viên và xóm chưa đủ đảng viên thành lập chi bộ. Nhờ đó, số lượng và chất lượng đảng viên nâng lên. Mỗi năm, Đảng bộ huyện kết nạp trên 200 đảng viên mới (năm 2007: 245 đảng viên, năm 2008: 274 đảng viên, năm 2009: 228 đảng viên), có trình độ văn hóa trung học phổ thông trở lên, được rèn luyện về phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Công tác kiểm tra, giám sát giữ gìn kỷ luật Đảng được coi trọng. Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã lãnh đạo xây dựng và ban hành Chương trình công tác kiểm tra, giám sát, xác định rõ Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy và Quy chế phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra Huyện ủy với các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan nhà nước có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra Đảng ngay từ đầu nhiệm kỳ. Ngoài ra, Huyện ủy còn lãnh đạo thực hiện tốt các Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Quyết định số 25-QĐ/TW ngày 24/11/2006 của Bộ Chính trị về hướng dẫn thực hiện công tác thanh tra, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Luật phòng chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập… Nội dung kiểm tra việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, kết luận của cấp trên, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua kiểm tra, giám sát, đã kịp thời phê bình, nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Công tác Dân vận được đẩy mạnh kết hợp với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò, ý nghĩa của công tác dân vận khéo, dân vận chính quyền; quan tâm đến công tác dân tộc, tôn giáo; tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác dân vận nhất là ở xã, thị trấn, khối, xóm, bản. Nhờ đó, các hoạt động trên địa bàn huyện có nhiều chuyển biến mới, quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện cơ bản nghiêm túc, phát huy vai trò làm chủ của người dân; tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức được nâng lên; hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo từ huyện xuống cơ sở ngày càng cao. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” thu hút nhiều tổ chức, cá nhân tham gia và đạt kết quả cao. Huyện đã xây dựng được nhiều mô hình điểm trên các lĩnh vực công tác, qua đó, nhiều vấn đề quan trọng, vướng mắc từng bước được giải quyết.
Hoạt động của chính quyền ngày càng được đổi mới. Hội đồng nhân dân huyện và Hội đồng nhân dân cấp xã làm tốt vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân. Chức năng giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện đã được phát huy, nhất là giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ngày càng gắn bó chặt chẽ, hoạt động có hiệu quả hơn.
Ủy ban nhân dân huyện tiếp tục có nhiều đổi mới về phương thức chỉ đạo, điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tăng cường kỷ luật. Trước hết là tiếp tục tổ chức lại các phòng ban để phù hợp với việc quản lý chuyên môn. Đẩy mạnh thực hiện Cải cách hành chính với các biện pháp: từng bước công khai các thủ tục hành chính; quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động Trung tâm giao dịch “Một cửa” cấp huyện và ở các xã; không ngừng coi trọng công tác dân vận của chính quyền; tích cực áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, ban hành văn bản; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng; kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan hành chính được đảm bảo, nhất là sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 4/11/2008 về xiết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong đội ngũ cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang. Nhờ đó, hiệu lực hiệu quả hoạt động của chính quyền được nâng lên rõ rệt. Các thủ tục hành chính minh bạch, rõ ràng, thời gian thực hiện được rút ngắn, các vụ việc giải quyết nhanh, số đơn thư vượt cấp giảm.
Phương thức và nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị được đổi mới. Mặt trận Tổ quốc từng bước đa dạng hóa hình thức tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; tích cực tham gia giám sát, phản biện các hoạt động của chính quyền và tổ chức Đảng. Bên cạnh đó, Mặt trận tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, thực hiện quy chế dân chủ, tổ chức tốt hòa giải các mâu thuẫn trong Nhân dân; các cuộc vận động từ thiện, nhân đạo và các phong trào thi đua yêu nước như: thành lập “Quỹ vì người nghèo”, “Xóa nhà tranh tre dột nát”. Trong 5 năm (2006 - 2010), Mặt trận Tổ quốc huyện vận động được hàng tỷ đồng “Quỹ vì người nghèo”, “Tết vì người nghèo”, giúp đỡ xây dựng mới và sửa chữa trên 2.500 nhà cho hộ nghèo và hàng vạn suất quà hỗ trợ người tàn tật, già cả neo đơn và học sinh nghèo vượt khó. Đặc biệt, năm 2007, do ảnh hưởng của cơn bão số 2 và số 5 đã gây ra lũ lớn ở Hương Khê, bà con bị thiệt hại nặng nề, MTTQ đã phối hợp với chính quyền và các đoàn thể tiếp đón 150 đoàn tổ chức và tổ chức phân bổ nguồn hàng cứu trợ của Trung ương, các địa phương, các tổ chức đúng nguyên tắc chế độ, kịp thời với số tiền 15.557 triệu đồng, 3.117 tấn gạo và hàng trăm tấn hàng hóa.
Liên đoàn Lao động huyện không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hàng năm, đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc động viên cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động hưởng ứng phong trào “thi đua lao động sáng tạo” và thực hiện Cuộc vận động xây dựng “Quỹ vì người nghèo”; chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công chức, viên chức, công nhân lao động.
Ngày 9/3/2006, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Nghị quyết ra đời đã giải quyết được một số khó khăn về hoạt động của tổ chức Đoàn, xây dựng một lực lượng đoàn viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ tay nghề, kiến thức pháp luật, làm chủ cuộc sống. Các phong trào “5 xây, 5 chống”1, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “5 xung kích phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ Tổ quốc” và “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”; các cuộc vận động “Thanh niên đi đầu trong xã hội học tập”, “Thanh niên làm kinh tế giỏi, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo”, “Thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng” cũng được huyện đoàn lãnh đạo thực hiện tốt. Số vốn cho thanh niên vay phát triển kinh tế tăng mạnh từ 2,1 tỷ (2004) lên 11 tỷ (2009). Toàn huyện có hơn 100 mô hình kinh tế do thanh niên đứng chủ, thu nhập mỗi trang trại từ 20 - 200 triệu đồng/năm. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện đã khẳng định được vai trò xung kích của tuổi trẻ trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng thực hiện các chương trình, nhiệm vụ của địa phương.
Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện tích cực triển khai các phong trào thi đua do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động như: phong trào “Nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho phụ nữ và hỗ trợ phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa đói, giảm nghèo”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, chương trình “hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”. Qua thực hiện các cuộc vận động, vai trò của người phụ nữ trong gia đình được nâng lên; nhận thức về xã hội, sinh đẻ có kế hoạch được cải thiện đã góp phần xây dựng gia đình “Ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
Giai đoạn 2005 - 2010, Hội Cựu chiến binh huyện tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở. Hội đã tuyên truyền cho cán bộ, hội viên mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tổ chức nhiều lớp tập huấn khoa học kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; xây dựng những mô hình cựu chiến binh làm kinh tế giỏi ở các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hoạt động của các cấp Hội đã góp phần không nhỏ để huyện thực hiện thành công các chỉ tiêu Nghị quyết đại hội đề ra.
Hội Nông dân tập trung đẩy mạnh phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng”. Hội đã trở thành cầu nối để đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với hội viên, góp phần nâng cao hiệu quả lao động sản xuất.
Các tổ chức Hội Người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội Chữ thập đỏ, Hội nạn nhân Chất độc da cam điôxin… không ngừng được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần cùng các tổ chức hội khác thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, với tinh thần quyết tâm cao, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân ra sức khắc phục khó khăn, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,6%; bình quân lương thực đầu người tăng 1,2 lần so với đầu nhiệm kỳ; cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp làm thay đổi diện mạo. Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Năng lực lãnh đạo của Đảng và hoạt động của chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể được nâng lên, khối đoàn kết toàn dân được củng cố. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sau hơn 3 năm thực hiện đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Những kết quả đạt được đó là cơ sở để Đảng bộ và Nhân dân trong huyện vững bước thực hiện tốt nhiệm vụ, mục tiêu trong những năm tiếp theo.
CHƯƠNG IX ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG (2010-2020)
I. LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG, THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔNG MỚI (2010-2015)
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ nét. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Vị thế đất nước trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước.
Huyện Hương Khê cũng có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Kinh tế liên tục tăng trưởng, cơ cấu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; văn hoá - xã hội chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao; quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định; công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được củng cố, tăng cường và ngày càng vững mạnh.
Từ ngày 20 đến ngày 22/7/2010, Đảng bộ huyện Hương Khê tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2010-2015. Chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, gắn với thực tiễn cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tập trung huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng Hương Khê ngày càng phát triển bền vững”.
Đánh giá tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, Báo cáo chính trị tại Đại hội khẳng định: Nắm bắt thời cơ, thuận lợi, khắc phục khó khăn, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể huyện đã đoàn kết, thống nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, động viên và tổ chức các tầng lớp Nhân dân nỗ lực phấn đấu giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực: Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thu hút đầu tư đạt kết quả tốt; văn hoá - xã hội tiếp tục có bước chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định; công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được củng cố, tăng cường.
Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân trong giai đoạn 2005-2010, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Một là, coi trọng việc quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước. Bám sát thực tiễn, năng động, sáng tạo vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đơn vị, đề ra nhiệm vụ và giải pháp sát đúng.
Hai là, chọn khâu đột phá, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, kiên quyết, xây dựng mô hình để nhân ra diện rộng.
Ba là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ. Chủ động nắm bắt tình hình, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, vướng mắc và xử lý dứt điểm từ cơ sở, giữ vững ổn định chính trị để phát triển
Bốn là, cần có những giải pháp sáng tạo, năng động về huy động đồng bộ các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng, các công trình, dự án trọng điểm; mở rộng và vận dụng nhiều hình thức đầu tư nhằm vận động các nguồn vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; đi đôi với tranh thủ tối đa sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, tỉnh để phát triển kinh tế, xã hội bền vững.
Năm là, chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sắp xếp cán bộ, phát huy hiệu qủa quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
Đại hội đã thông qua phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho huyện Hương Khê giai đoạn 2010 - 2015. Phương hướng chung được Đại hội xác định là: Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, vận dụng sát đúng vào điều kiện cụ thể của địa phương. Phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, lợi thế, tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế, xã hội với nhịp độ nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển chăn nuôi, kinh tế vườn, kinh tế trang trại, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt các quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết. Quan tâm các hoạt động văn hóa, xã hội. Phát huy nhân tố con người, nâng cao dân trí, coi trọng chất lượng giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng. Làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo - xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Giữ vững quốc phòng - an ninh. Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Hương Khê sớm thoát khỏi huyện nghèo, vươn lên giàu mạnh.
Từ phương hướng chung đó, Đại hội xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2015 trên các lĩnh vực và tập trung chỉ đạo các mũi đột phá sau đây: Tập trung xây dựng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển kinh tế dọc tuyến đường Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nâng cao chất lượng và tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, trồng và chế biến thức ăn, đảm bảo các dịch vụ cho phát triển chăn nuôi; Phát triển mạnh mẽ kinh tế lâm nghiệp, trồng cây ăn quả, cây nguyên liệu có giá trị kinh tế cao; Đổi mới công tác cán bộ, đẩy mạnh cải cách hành chính làm cho bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXVIII bao gồm 41 ủy viên[99]. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXVIII đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 13 đồng chí: Đồng chí Hoàng Hữu Diễn được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy[100]; đồng chí Nguyễn Xuân Vinh được bầu giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Đinh Hữu Tân được bầu giữ chức Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015.
Thành công của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII mở ra một giai đoạn phát triển mới của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê trong chặng đường đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng[101], Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh[102], trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ huyện đã cụ thể chủ trương của Đảng cấp trên thành nhiều nghị quyết chuyên đề, từ đócấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị để xây dựng kế hoạch, chương trình, mục tiêu cụ thể; lãnh đạo, chỉ đạo phát triển toàn diện các lĩnh vực.
Về kinh tế: Trong giai đoạn 2010 - 2015, mặc dù chịu ảnh hưởng của những khó khăn do sự suy giảm kinh tế, tình hình thời tiết bất lợi làm cho dịch bệnh gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, kinh tế Hương Khê có chuyển biến nhanh.
Hàng năm, Huyện ủy đều ban hành nghị quyết về tình hình kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ và giải pháp cho năm sau. Theo đó, các giải pháp phát triển kinh tế được xác định cụ thể, có tính khả thi cao. Huyện ủy chú trọng việc lãnh đạo đẩy mạnh phát triển đồng bộ nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung vào các mũi đột phá đã được Đại hội Đảng bộ huyện khoá XXVIII xác định.
Kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 là rất nổi bật. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân trong 5 năm đạt 14,6%, (tăng 2,6% so với Nghị quyết); thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt khoảng 28 triệu đồng, tăng gần 3,5 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 41,1% (giảm 1,7% so với Nghị quyết); công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản chiếm 38,7% (tăng 1,1% so với Nghị quyết); thương mại - dịch vụ chiếm 20,2% (tăng 0,6% so với Nghị quyết).
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được quan tâm chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ đã xây dựng và hoàn thành phê duyệt 12 quy hoạch; tạo chuyển biến trong phát triển sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh trên địa bàn. Trong đó, đáng chú ý là việc hoàn thành quy hoạch phân khu thị trấn, được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt ngày 18/8/2014. Năm 2014, Hương Khê được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch trong vùng phát triển kinh tế Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình. Đây là sự kiện quan trọng có sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của huyện.
Trong chỉ đạo phát triển nông nghiệp, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành các nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông thôn mới; nghị quyết về phát triển chăn nuôi, kinh tế vườn, trang trại; ban hành các đề án, chính sách, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ; đẩy mạnh đầu tư, thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đưa các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Do vậy, nông nghiệp tăng trưởng khá, tổng sản lượng lương thực hàng năm tăng. Năm 2012, đạt 26.180 tấn; năm 2013 và năm 2014 đạt trên 27.000 tấn; năm 2015, đạt trên 29.000 tấn (tăng 4.000 tấn so với Nghị quyết). Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp đạt 1.243 tỷ đồng (bằng 2,25 lần so với năm 2010). Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đất canh tác đạt 61 triệu đồng/ha (tăng 19 triệu đồng/ha so với Nghị quyết). Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt năm 2015 đạt 68 triệu đồng.
Năm 2012, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 03 -NQ/HU về phát triển chăn nuôi. Trong đó, xác định hướng phát triển mới, nhiệm vụ, giải pháp cho ngành chăn nuôi của huyện. Tổng đàn các loại vật nuôi chủ lực đều tăng, trong đó đàn bò tăng bình quân hàng năm 5,52%, đàn lợn tăng 13,9%, đàn hươu tăng 35,3%, đàn gia cầm tăng 6,1%. Năm 2015, đàn trâu có 17.356 con, đàn bò có 13.406 con, lợn có 54.506 con, đàn hươu có 1.758 con, đàn gia cầm có 643.020 con[103]. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp năm 2015 đạt 46%, tăng 24,6% so với năm 2010. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện năm 2015 đạt 472,80 tấn, trong đó khai thác đạt 107,90 tấn, nuôi trồng đạt 364,90 tấn[104]. Đã chuyển dần từ nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển gia trại, trang trại quy mô lớn và vừa, liên kết với doanh nghiệp.
Thực hiện mũi đột phá được Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII xác định là “phát triển mạnh mẽ kinh tế lâm nghiệp, trồng cây ăn quả, cây nguyên liệu có giá trị kinh tế cao”, trong nhiệm kỳ này, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển lâm nghiệp, cây ăn quả. Do đó, lĩnh vực sản xuất này có nhiều chuyển biến.
Hàng năm, huyện triển khai đề án bảo vệ, phát triển rừng, quan tâm chỉ đạo trồng mới rừng. Công tác bảo vệ - phòng cháy chữa cháy rừng được tăng cường. Giai đoạn này, huyện tập trung công tác quản lý đất rừng, xử lý đất giao sai thẩm quyền, thực hiện chuyển đổi ruộng đất, giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Nhân dân. Bên cạnh đó, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2015, tạo cơ sở pháp lý cho việc giao đất, giao rừng cho Nhân dân. Đến năm 2015, Hương Khê đã giao trên 7.000/8.200 ha đất lâm nghiệp cho các hộ dân. Hương Khê đã hình thành các vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến ở nhiều xã, tiêu biểu như: Hương Lâm, Hương Liên, Phú Gia, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Hương Giang, Hoà Hải, Phương Điền, Phương Mỹ.... Trồng rừng nguyên liệu trở thành một hướng phát triển kinh tế quan trọng, phù hợp với điều kiện của huyện. Đến năm 2015, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt trên 210 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010. Tỷ lệ độ che phủ rừng của Hương Khê đạt 69,5%, là một trong những huyện có tỷ lệ cao nhất tỉnh.
Kinh tế vườn, trang trại là thế mạnh của huyện nên luôn được Huyện ủy quan tâm đẩy mạnh. Ngày 08/8/2013, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 06-NQ/HU về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện các nội dung Nghị quyết gắn với xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó, các xã, thị trấn đã lập và điều chỉnh quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất; ban hành và thực hiện các chính sách nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Từ đó, kinh tế trang trại ở Hương Khê có sự phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân; thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Năm 2012, toàn huyện có 11 trang trại, năm 2014 có 24 trang trại, năm 2015 có 29 trang trại; trong đó Lộc Yên là xã có nhiều nhất với 5 trang trại. Hàng năm, sản lượng bưởi Phúc Trạch đạt trên 5.000 tấn, cam các loại đạt 3.900 tấn, giá trị sản xuất đạt trên 230 tỷ đồng. Chè công nghiệp ổn định diện tích 200 ha, giá trị sản xuất năm 2015 đạt trên 14 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản được Đảng bộ chú trọng nhằm đảm bảo chuyển dịch đúng hướng nên trong nhiệm kỳ này tiếp tục tăng trưởng. Giá trị sản xuất của ngành tăng nhanh, năm 2010 đạt 877,782 tỷ đồng (công nghiệp đạt 218,990 tỷ), năm 2014 đạt 1.106,024 tỷ đồng (công nghiệp đạt 313,279 tỷ)[105].Từ 2010 - 2015, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân trên 7%/năm; tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm trên 15% trong cơ cấu kinh tế. Năm 2015, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 497 tỷ đồng, tăng 32% so với 2010. Một số ngành nghề truyền thống, có thế mạnh của huyện như sản xuất bánh, bún, mộc dân dụng, gia công cơ khí... được củng cố và phát triển. Huyện đã thu hút được một số dự án đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng tại các xã Phúc Trạch, Phúc Đồng, Hương Bình với tổng vốn đầu tư khoảng 200 tỷ đồng. Đến cuối năm 2015, toàn huyện có trên khoảng 700 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm cho khoảng 2.000 lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới.
Ngày 23/10/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quyết định số 3438/QĐ-UBND về việc quy hoạch cụm công nghiệp Gia Phố[106] với diện tích 11,07 ha. Ngay sau khi thành lập, huyện đã có chính sách kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư.
Là huyện có nhiều tiềm năng lớn để phát triển với 3 tuyến đường chính đi qua (đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 15A) tạo điều kiện thuận lợi để Hương Khê liên kết vùng và kết nối với các địa phương trong và ngoài tỉnh. Để tạo sự bứt phá trong phát triển kinh tế, Huyện ủy chủ trương đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nhằm tạo bước chuyển biến cho nền kinh tế. Hương Khê xác định việc không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài gắn với đẩy mạnh chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Hàng năm, huyện tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, gặp gỡ các doanh nghiệp trong và ngoài huyện. Tại hội nghị, lãnh đạo huyện Hương Khê giới thiệu tiềm năng, lợi thế của địa phương tới các doanh nghiệp, nhà đầu tư; mong muốn doanh nghiệp trong và ngoài huyện quan tâm đầu tư, triển khai các dự án trên nhiều lĩnh vực kinh tế. Trong đó tập trung vào phát triển các vùng cây ăn quả; dự án phát triển vùng chè công nghiệp, cây dược liệu, sản phẩm rau, củ, quả; đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp; dự án đầu tư các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí như Bãi Dài, thác Vũ Môn, hồ Đá Hàn…
Thương mại - dịch vụ có chuyển biến tốt, đúng định hướng. Giá trị của ngành cả giai đoạn 2010 - 2015 chiếm 20,2% trong cơ cấu kinh tế toàn huyện, tăng so với giai đoạn trước. Tốc độ tăng trưởng thương mại - dịch vụ hàng năm luôn đạt trên 15%, tổng mức bản lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng bình quân trên 20%/năm. Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống (theo giá hiện hành) năm 2011 đạt 54.693 triệu đồng, năm 2015 đạt 1.070 tỷ đồng[107]. Dịch vụ vận tải phát triển mạnh, năm 2015 số hành khách vận chuyển là 1,215 triệu lượt người, khối lượng hàng hoá vận chuyển là 1.128 tấn, tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ vận tải là 175,394 tỷ đồng[108].
Cơ quan chức năng tăng cường công tác kiểm tra, chống buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại, xử lý các trường hợp vi phạm... Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Người Hà Tĩnh ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong tỉnh”, phối hợp đưa hàng về nông thôn; giới thiệu, quảng bá các sản phẩm sản xuất trong tỉnh; thực hiện chuyển đổi 7 mô hình quản lý chợ ở các xã, nâng cấp 4 chợ đạt chuẩn Nông thôn mới (ở các xã Phúc Trạch, Phương Mỹ, Hương Bình, Hương Thủy), triển khai đầu tư xây dựng 04 chợ (Hà Linh, Hương Long, Phú Gia, Hòa Hải); đến năm 2015, toàn huyện có 12 chợ.
Công tác tài chính, tín dụng, ngân hàng được quan tâm lãnh đạo và đạt được nhiều kết quả. Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều vượt chỉ tiêu tỉnh giao. Chi ngân sách hàng năm đảm bảo theo kế hoạch. Năm 2015, thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 71 tỷ đồng, tăng 4,3 lần so với năm 2010. Hoạt động tín dụng - ngân hàng được quan tâm. Huyện tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh… Trong giai đoạn 2010-2015, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn đạt trên 936 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay đạt trên 1.509 tỷ đồng. Nợ xấu, nợ quá hạn ở tỷ lệ thấp, chỉ chiếm 2,15% nợ cho vay[109].
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường được chú trọng và đạt được nhiều kết quả. Huyện Hương Khê đã tổ chức thực hiện Đề án phát triển quỹ đất trên địa bàn huyện, bước đầu tạo nguồn thu ngân sách từ đấu giá đất, cấp quyền sử dụng đất; cấp giấy lần đầu cho 7.034 hộ; cấp đổi 27.602 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp.
Vấn đề vệ sinh môi trường trên địa bàn huyện là một vấn đề nổi cộm, nhận được sự quan tâm của dư luận nên được Ban Chấp hành Đảng bộ thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Thực hiện Nghị quyết số 132/2010/NQ-HĐND ngày 13/10/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2015 và định hướng những năm tiếp theo,cấp ủy, chính quyền các cấp huyện Hương Khê đã tăng cường công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt được kết quả bước đầu. Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện đã tiến hành kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh, các trang trại, gia trại thực hiện cam kết bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm. Giai đoạn 2010 - 2015, vấn đề vệ sinh môi trường ở Hương khê từng bước có chuyển biến. Bên cạnh đó, việc quy hoạch bãi xử lý rác thải vẫn còn những bất cập chưa được xử lý triệt để.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khoá XXVIII, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ra các nghị quyết chuyên đề về phát triển văn hoá - xã hội, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo nên lĩnh vực văn hoá - xã hội huyện có nhiều chuyển biến tích cực; an sinh xã hội được đảm bảo; đời sống tinh thần của Nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Đảng bộ chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ kỷ niệm các ngày lễ lớn như ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày Quốc khánh, ngày thành lập huyện, chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp... Đến năm 2015, huyện thành lập 4 câu lạc bộ dân ca ví, dặm ở các xã Hương Trạch, Hương Trà, Phú Gia, Hương Vĩnh.
Các thiết chế văn hoá cơ sở như nhà văn hóa, khu thể thao thôn, tổ dân phố, xây dựng hương ước được tăng cường đầu tư. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng nông thôn mới, tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống văn hoá ở địa phương. Phong trào xây dựng gia đình, đơn vị văn hoá được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả. Bình quân giai đoạn 2010 - 2015, toàn huyện có 75% gia đình văn hóa; 30,4% gia đình thể thao; 102 thôn, tổ dân phố và 49 cơ quan, đơn vị được công nhận đơn vị văn hoá. Đến năm 2015, trên địa bàn huyện có 18 di tích lịch sử được xếp hạng, trong đó có 5 di tích cấp quốc gia[110], 13 di tích cấp tỉnh.
Phong trào thể dục, thể thao phát triển rộng khắp, nhận được sự hưởng ứng sâu rộng của Nhân dân. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư khá lớn, công tác xã hội hóa thể dục thể thao được đẩy mạnh… Tháng 11/2013, huyện tổ chức thành công Đại hội thể dục, thể thao cấp huyện lần thứ VII.
Lĩnh vực bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin, truyền thanh - truyền hình tiếp tục được đầu tư mở rộng, đa dạng về loại hình dịch vụ, chất lượng từng bước được nâng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của Nhân dân. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành được tăng cường. 100% xã, thị trấn, cơ quan, đơn vị được kết nối Internet.
Phát huy thành tựu to lớn về giáo dục và đào tạo giai đoạn trước,cấp ủy, chính quyền các cấp của huyện Hương Khê tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Giai đoạn 2010 - 2015, huyện tập trung thực hiện quy hoạch lại hệ thống trường, lớp, sáp nhập 30 trường (trong đó: trung học cơ sở 10, tiểu học 16, mầm non 04). Đến năm học 2015 - 2016, toàn huyện có 23 trường mầm non (232 lớp, 7.702 cháu); 23 trường tiểu học (301 lớp); 13 trường trung học cơ sở (182 lớp); 3 trường trung học phổ thông (95 lớp)[111].
Cơ sở vật chất các trường học tiếp tục được quan tâm đầu tư, gắn với xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2015, Hương Khê có 35 trường đạt chuẩn; 21/22 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 21/22 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.
Chất lượng giáo dục toàn diện các cấp học ngày càng tăng. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp, học sinh giỏi, học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm tăng. Năm học 2014 - 2015, tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 94,5%, tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 97,2%, có 471 em đậu vào các trường đại học, 1 em đạt học sinh giỏi Quốc gia, 53 em đạt học sinh giỏi tỉnh. Công tác đào tạo nghề được chú ý hơn trước, bình quân hàng năm đào tạo cho hàng trăm lao động.
Ngày 16/11/2014, Trường Trung học phổ thông Hương Khê tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì của Chủ tịch nước. Nhân dịp này, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo Đảng bộ, Ban Giám hiệu Nhà trường làm tốt công tác chuẩn bị và phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân được nâng lên. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, việc hành nghề y dược tư nhân, các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế. Đến năm 2015, có 17/22 trạm y tế xã, thị trấn có bác sỹ (bằng 106% so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khoá XXVIII). Nhờ gắn với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới nên việc xây dựng cơ sở vật chất cho trạm y tế các địa phương có nhiều thuận lợi. Lực lượng chức năng của huyện thường xuyên kiểm tra công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em được quan tâm hơn trước. Huyện đẩy mạnh tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về dân số, kế hoạch hoá gia đình, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có mức sinh cao. Tỷ lệ sinh năm 2015 chỉ còn 1%, tỷ lệ sinh trên 2 con còn 25,5% (giảm 2,6% so với năm 2014). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 22% năm 2010 xuống dưới 15% năm 2015.
Huyện triển khai thực hiện vấn đề an sinh xã hội và các chế độ, chính sách đối với người có công, bảo trợ xã hội. Từ 2010 - 2015, huyện đã làm trên 2.900 nhà ở cho gia đình chính sách, hộ nghèo từ nguồn hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, dòng họ với tổng số tiền trên 50 tỷ đồng. Huyện hoàn thành hồ sơ và đã được truy tặng, phong tặng 58 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đảng bộ huyện quan tâm, chỉ đạo các hoạt động từ thiện, nhân đạo, tổng giá trị cứu trợ nhân đạo trong 5 năm đạt trên 19,26 tỷ đồng.
Tháng 10/2010, Hương Khê bị ảnh hượng nặng nề bởi lụt lớn[112]. Thiệt hại về tài sản rất lớn, đời sống của Nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đảng bộ huyện tổ chức tốt việc kêu gọi, vận động quyên góp giúp Nhân dân khắc phục hậu quả của thiên tai.
Công tác xoá đói giảm nghèo được lãnh đạo và thực hiện quyết liệt, trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của huyện. Huyện tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững với nhiều giải pháp thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 44% năm 2010 xuống còn 6,5% vào cuối năm 2015.
Công tác dân tộc có nhiều chuyển biến. Đảng bộ đã chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án bảo tồn, phát triển đồng bào dân tộc Chứt, bản Rào tre, xã Hương Liên. Ủy ban nhân dân huyện cũng thực hiện tốt chính sách dân tộc thiểu số trên địa bàn. Huyện đã phối hợp với sở, ban, ngành cấp tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Đồn Biên phòng Bản Giàng hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, làm nhà, làm đường giao thông… Kết quả đã làm mới được 5 nhà, sửa chữa hơn 20 nhà, xây dựng 2 mô hình chăn nuôi lợn, 8 mô hình chăn nuôi gà, trồng chuối cao sản, làm nhiều tuyến đường vào bản…
Nét nổi bật của Đảng bộ huyện Hương Khê giai đoạn 2010-2015 là kết quả trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Nhận thấy đây là một chương trình lớn, là cơ hội để huy động mọi nguồn lực, thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh trên địa bàn Hương Khê, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Chính quyền, các tổ chức đoàn thể huyện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện một cách quyết liệt, toàn diện và cụ thể, từ việc kiện toàn tổ chức, học tập, quán triệt, phổ biến tuyên truyền các văn bản có liên quan đến tổ chức thực hiện.
Huyện thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình nông thôn mới cấp huyện[113], Đoàn công tác chỉ đạo toàn diện các xã; phân công nhiệm vụ và địa bàn phụ trách cho các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, thành viên Ban Chỉ đạo huyện; thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình nông thôn ở cấp xã, Ban phát triển thôn ở cấp thôn[114].
Ban Chỉ đạo cấp huyện đã chỉ đạo các phòng, ngành, chuyên môn hướng dẫn các xã rà soát, xây dựng, thẩm định khung kế hoạch, giải pháp, lộ trình hàng tuần, tháng để thực hiện các tiêu chí. Chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể thường xuyên tuyên truyền, vận động, huy động lực lượng, kinh phí hỗ trợ, giúp đỡ các xã, thôn xây dựng nông thôn mới. Huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, phát động phong trào “Cả huyện chung sức xây dựng nông thôn mới”, tích cực kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện nhận đỡ đầu, tài trợ xã xây dựng nông thôn mới.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết 03-NQ/HU “Về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 - 2015”. Ủy ban nhân dân huyện ban hành Kế hoạch số 175/KH-UB để tổ chức thực hiện. Ngoài ra, còn nhiều văn bản khác ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn[115].
Nhằm phát huy lợi thế của địa phương trong xây dựng nông thôn mới, Huyện ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển chăn nuôi; phê duyệt danh mục hàng hóa sản phẩm chủ lực; ban hành các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn... Huyện chỉ đạo việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn phải được tiến hành đồng bộ, bền vững, công khai, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; khắc phục biểu hiện nóng vội, làm không đến nơi, đến chốn, gây thất thoát, lãng phí ngân sách, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng nông thôn mới được Ban Chấp hành Đảng bộ hết sức quan tâm. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và mục đích, ý nghĩa xây dựng nông thôn mới đến tận cán bộ, đảng viên và Nhân dân bằng nhiều hình thức như: Hội họp, tập huấn, tin bài, phóng sự, hệ thống truyền thanh, băng rôn, khẩu hiệu, hội thi, sân khấu hóa và các loại tài liệu, tờ rơi, ấn phẩm. Ban Chỉ đạo thành lập và phát huy hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; củng cố, nâng cấp hệ thống truyền thanh cơ sở, truyền hình huyện; xuất bản hàng nghìn cuốn bản tin Hương Khê; cấp hàng trăm cuốn sổ tay nông thôn mới và nhiều đĩa tuyên truyền, tài liệu, ấn phẩm, sổ tay chính sách nông nghiệp, nông thôn mới của tỉnh, huyện đến tận thôn xóm…
Điểm sáng trong trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn ở huyện Hương Khê giai đoạn 2010-2015 là đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trên địa bàn, tạo được sức mạnh to lớn của toàn dân. Là một huyện còn nghèo, việc thực hiện Chương trình gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi huyện phải có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thật quyết liệt mới đạt mục đích, yêu cầu đề ra. Nhận thức rõ điều này, huyện luôn bám sát các nội dung, tiêu chí xây dựng nông thôn mới, vận dụng phù hợp với điều kiện của địa phương; tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo, hướng mạnh về cơ sở, tập trung vào những xã làm điểm, còn khó khăn; đồng thời, huy động sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng theo đúng tinh thần của phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Vấn đề được Đảng bộ, chính quyền huyện hết sức quan tâm trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới là việc huy động nguồn lực để thực hiện các dự án. Với phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, ngoài sự hỗ trợ của cấp trên, huyện còn động viên, kêu gọi sự đóng góp, tài trợ của Nhân dân, các doanh nghiệp và con em ở xa quê cùng chung sức tham gia xây dựng nông thôn mới. Trong đó, huyện xác định phát huy nội lực là chính. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thông qua hình thức “Dân vận khéo”, Hương Khê đã phát huy được sức mạnh trong Nhân dân để từng bước tháo gỡ vướng mắc trong triển khai thực hiện Chương trình.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự chung sức, chung lòng của toàn dân, Hương Khê đã đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Năm 2013, 100% xã hoàn thành công bố quy hoạch và triển khai cắm mốc chỉ giới, giải phóng mặt bằng các tuyến đường giao thông. Các mô hình kinh tế vườn, trang trại từng bước được xây dựng và phát triển. Chăn nuôi hộ gia đình được đẩy mạnh, việc triển khai phát triển mô hình chăn nuôi quy mô lớn, tập trung theo hướng hàng hóa được quan tâm đúng mức. Việc sử dụng nguồn vốn bảo đảm đúng mục đích, hiệu quả… Các nội dung xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo đúng kế hoạch, tạo sự chuyển biến tích cực đối với phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Năm 2010, toàn huyện đạt 69 tiêu chí, bình quân đạt 3,28 tiêu chí/xã; có 17 xã dưới 5 tiêu chí, trong đó 01 xã chưa đạt tiêu chí nào; chưa có xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đến cuối năm 2015, toàn huyện đạt 222 tiêu chí (tăng thêm 153 tiêu chí so với năm 2010), bình quân đạt 7,2 tiêu chí/xã, có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới là: Gia Phố, Hương Trà, Phú Phong, Phúc Trạch và 04 thôn đạt chuẩn khu dân cư mẫu là: Thôn Hải Thịnh, xã Gia Phố; thôn Nam Trà, xã Hương Trà; thôn 3, xã Phú Phong; thôn 2, xã Phúc Trạch.
Kết quả bước đầu của huyện Hương Khê trong giai đoạn 2010-2015 là cơ sở rất quan trọng, tạo đà cho huyện tiếp tục thực hiện và hoàn thành Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã lãnh đạo triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh gắn với thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của địa phương. Quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết 28 - NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa X), Nghị định 152 của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ, Huyện ủy đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, phát huy được mọi nguồn lực, tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương và toàn huyện trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Công tác xây dựng lực lượng được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng, độ tin cậy và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng dân quân tự vệ được đăng ký, quản lý chặt chẽ, có số lượng bằng 1,71% dân số, tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ chiếm 25,54%. Lực lượng dự bị động viên luôn được đăng ký, phúc tra, bảo đảm sắp xếp đủ cho các đơn vị, sẵn sàng động viên theo yêu cầu nhiệm vụ. Công tác đăng ký, quản lý thanh niên trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ được thực hiện tốt. Hàng năm, huyện hoàn thành tốt và xuất sắc chỉ tiêu giao quân. Từ 2010 - 2015 đã giao 430 tân binh, đạt 100% chỉ tiêu; đón nhận 420 quân nhân hoàn thành thời hạn phục vụ tại ngũ quân sự trở về địa phương bảo đảm thủ tục.
Nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng được chú trọng. Huyện đã tổ chức 4 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 4, 02 lớp cho đối tượng 3, 01 lớp cho chức việc tôn giáo.
Công tác chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội được thực hiện tốt. Hàng năm, tiến hành thăm hỏi, trao, tặng quà cho các đối tượng chính sách tiêu biểu trên địa bàn; kịp thời triển khai có hiệu quả chính sách tồn đọng sau chiến tranh; phối hợp tham gia xây dựng 05 nhà tình nghĩa.
Huyện ủy lãnh đạo Đảng ủy Công an huyện tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận chương trình của Đảng, Nhà nước về công tác đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh tôn giáo, an ninh nông thôn, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ và hình thành “điểm nóng” về an ninh trật tự. Công an huyện phối hợp với các ngành, các cấp làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý cán bộ, đảng viên, bảo vệ bí mật nhà nước; bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị, các đoàn lãnh đạo Đảng, nhà nước, khách quốc tế đến thăm và làm việc tại địa phương, nhất là bảo vệ an toàn đại hội Đảng các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Công an huyện triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 07/CT-BCA ngày 15/8/2014 của Bộ Công an về “Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong cơ quan, doanh nghiệp, trường học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự trong tình hình mới”. Đảng ủy Công an huyện tham mưu Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành chỉ thị về phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với thực hiện tiêu chí về an ninh trật tự trong Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Công an huyện nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến như “Tổ liên gia tự quản về an ninh trật tự”, kết hợp chặt chẽ xây dựng thế trận an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân trong xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu ở cơ sở. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, có 5 lượt đơn vị được Bộ Công an tặng bằng khen, cờ thi đua xuất sắc; 57 lượt Ban Công an xã đạt danh hiệu đơn vị quyết thắng.
Công tác quản lý về an toàn giao thông được tăng cường, tai nạn giao thông được kiềm chế. Trong giai đoạn này, đã phối hợp tổ chức tuyên truyền pháp luật giao thông cho hơn 30.000 lượt đoàn viên, hội viên, học sinh và người dân ở các địa phương. Triển khai các biện pháp tuần tra kiểm soát đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm[116]…
Công tác xây dựng lực lượng Công an từ huyện đến cơ sở ngày càng được củng cố, phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự của địa phương. Công tác nội chính, cải cách tư pháp, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm. Các ngành khối nội chính đã có sự phối hợp tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ huyện Hương Khê xác định là khâu then chốt, được tập trung lãnh đạo thực hiện trên các mặt chính trị tư tưởng; tổ chức; kiểm tra, giám sát và dân vận... tạo sự đoàn kết thống nhất cao trong toàn Đảng bộ. Đảng bộ đã tổ chức kịp thời, nghiêm túc, hiệu quả việc học tập, quán triệt và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của các cấp ủy Đảng. Trong nhiệm kỳ, Huyện ủy đã ban hành 5 nghị quyết chuyên đề, 59 chỉ thị để tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trên các lĩnh vực và tập trung làm tốt công tác kiểm tra, sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết.
Công tác giáo dục truyền thống được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo gắn với tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại của quê hương, đất nước bằng nhiều việc làm thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, chỉ đạo hoàn thành công tác nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng ở 17 địa phương, đơn vị. Ban Chấp hành Đảng bộ cũng quan tâm đến việc bồi dưỡng lý luận chính trị và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cán bộ, đảng viên, từ 2010 - 2015 đã bồi dưỡng cho hơn 15.000 lượt học viên. Huyện ủy tập trung xây dựng Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đạt chuẩn, phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ.
Trong nhiệm kỳ, đã kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; củng cố, nâng cấp hệ thống truyền thanh cơ sở, truyền hình huyện; xuất bản hơn 10.000 cuốn Bản tin Hương Khê, 36 Bản tin sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng hoạt động của trang thông tin điện tử huyện…, thông tin kịp thời kết quả thực hiện các dự án trọng điểm, xây dựng nông thôn mới, thông tin đối ngoại và tình hình biển đảo; tăng cường công tác nắm và định hướng dư luận xã hội, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh. Chất lượng công tác tư tưởng và nhận thức chính trị trong Đảng bộ có chuyển biến tích cực. Đặc biệt là việc thực hiện và khắc phục những tồn tại, khuyết điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay ngày càng rõ nét, tạo thêm niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên có chuyển biến tích cực. Huyện ủy tập trung củng cố tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động các đoàn công tác chỉ đạo, giám sát của Ban Thường vụ Huyện ủy tại cơ sở và trên từng lĩnh vực.
Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy kịp thời ban hành các văn bản lãnh đạo, các quy định về phân cấp, quản lý cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý; công tác quy hoạch, luân chuyển, điều động cán bộ; về sơ tuyển công chức và chế độ chính sách đối với cán bộ, đảng viên... Xây dựng quy hoạch cán bộ, định kỳ rà soát, bổ sung theo quy định; thực hiện các khâu trong công tác cán bộ đảm bảo công khai, dân chủ đúng quy định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tăng cường[117]. Đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở được trẻ hoá, đã có bước trưởng thành, hầu hết được chuẩn hoá. Công tác cán bộ nữ, cán bộ trẻ được quan tâm. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy, Hội đồng nhân dân ngày càng tăng. Năm 2014, Huyện ủy đã tổ chức thành công hội thi Bí thư chi bộ giỏi, tạo lan tỏa sâu rộng trong cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên.
Công tác phát triển đảng viên thường xuyên quan tâm và làm tốt, nhất là ở các địa bàn khó khăn. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ đã kết nạp 1.093 đảng viên, trong đó có 17 đảng viên người gốc giáo, 2 đảng viên là người dân tộc thiểu số. Công tác phát triển Đảng đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Đảng bộ thực hiện kịp thời, đúng quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên. Đến năm 2015, toàn huyện đã có 215 đối tượng được công nhận là cán bộ lão thành cách mạng và cán bộ tiền khởi nghĩa. Trong nhiệm kỳ đề nghị Tỉnh ủy tặng và truy tặng Huy hiệu Đảng cho 2.501 đồng chí. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng được thực hiện tốt, đúng quy định.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng được Ban Chấp hành Đảng bộ chú trong và tăng cường. Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp tổ chức quán triệt và triển khai kịp thời, nghiêm túc các quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Ủy ban kiểm tra cấp trên, tạo chuyển biến tích cực, rõ nét trong nhận thức và việc tổ chức thực hiện của các cấp ủy, người đứng đầu đối với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Tổ chức giám sát chuyên đề và kiểm tra tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Giải quyết kịp thời, dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên. Củng cố, kiện toàn, bổ sung kịp thời đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát.
Huyện ủy cũng rất chú trọng việc nâng cao chất lượng quy trình, phương pháp và chất lượng của công tác kiểm tra, giám sát và giải quyết tố cáo. Chính vì vậy, chất lượng của mặt công tác này từng bước được nâng lên, việc xem xét, xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên theo đúng quy định Điều lệ Đảng, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình[118].Thông qua công tác kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện, xử lý, đảm bảo sự ổn định chính trị tại địa phương, góp phần giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và tổ chức, sinh hoạt đảng, đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ.
Công tác dân vận có nhiều chuyển biến. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động.Trong nhiệm kỳ 2010-2015, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 25-NQ/TW (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Quyết định số 290-QĐ/TW về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Công tác dân vận chính quyền và lực lượng vũ trang có nhiều chuyển biến tích cực.
Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, tập trung hướng về cơ sở, từng bước thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp phần tích cực xây dựng Đảng, chính quyền. Trong nhiệm kỳ này, Mặt trận và các đoàn thể đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong đoàn viên, hội viên, đồng bào tôn giáo, dân tộc và các tầng lớp Nhân dân. Tiêu biểu như phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”... Qua việc thực hiện các phong trào đã xuất hiện và nhân rộng nhiều mô hình, điển hình “Dân vận khéo” trên các lĩnh vực. Trong 5 năm, toàn huyện đã vận động “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo” đạt trên 4 tỷ đồng; làm mới 578 nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo và gia đình chính sách; vận động nhân dân, doanh nghiệp đóng góp trên 121,7 tỷ đồng, 439.000 ngày công lao động, hiến 850.000 m2 đất xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, trong việc cứu trợ nhân đạo, đặc biệt trong việc cứu trợ Nhân dân bị lũ lụt.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị đã góp phần tạo sự đồng thuận, phát huy quyền làm chủ, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Nét nổi bật trong công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2010 - 2015 là việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Để triển khai Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng kế hoạch, tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong cán bộ cốt cán cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở. Huyện ủy quán triệt, tuyên truyền sâu rộng trong đoàn viên, hội viên và Nhân dân, chỉ đạo thực hiện tốt việc chuẩn bị nội dung và tổ chức kiểm điểm nghiêm túc từ huyện đến cơ sở, đồng thời xây dựng chương trình hành động khắc phục khuyết điểm, hạn chế đã chỉ ra.
Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có sự chuyển biến tích cực. Ban Thường vụ Huyện ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm túc tổ chức, cá nhân sai phạm. Chính vì vậy, trong nhiệm kỳ này, các tổ chức trong hệ thống chính trị của huyện Hương Khê đã triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị với tinh thần nghiêm túc, quyết tâm, ý thức trách nhiệm cao hơn, vai trò trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu được phát huy.
Nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ huyện Hương Khê đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ chính trị (khóa XI) gắn với thực hiện Chỉ thị 35-CT/TU và kết luận số 05-KL/TU về xiết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính của Ban Thường vụ Tỉnh ủy với nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả thiết thực[119]. Huyện ủy chỉ đạo các cơ quan đơn vị xây dựng kế hoạch và các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; tổ chức ký cam kết làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên; nêu cao trách nhiệm, tính gương mẫu, tận tụy phục vụ Nhân dân của cán bộ, công chức và người đứng đầu. Hàng năm, lấy việc thực hiện cam kết làm một nội dung kiểm điểm và tiêu chuẩn đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức. Hàng tháng, tổ chức Lễ báo công và chào cờ, biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình, tiêu biểu. Sau 5 năm, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, đạo đức, tác phong, ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật của mỗi cán bộ, đảng viên và có sức lan tỏa sâu rộng trong Nhân dân. Hương Khê xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình, tiêu biểu trên các lĩnh vực.
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện khoá XXVIII, trong giai đoạn 2010-2015, hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từng bước được đổi mới, tăng cường, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Huyện ủy đã hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, Ban quản lý dự án và tổ chức hội theo Nghị quyết 26/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh, đã sáp nhập, giảm 65 thôn, tổ dân phố.
Việc chỉ đạo công tác cải cách hành chính đã dược tập trung vào các nội dung: Tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và tài chính công, đảm bảo hệ thống quản lý nhà nước từ huyện đến cơ sở đủ mạnh, đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt và tinh thông nghiệp vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Soát xét, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao kỹ năng quản lý hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức. Nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật, xử lý nghiêm những cán bộ công chức vi phạm quy định của nhà nước.
Đảng bộ cũng đã từng bước đổi mới nội dung, phương thức, thực hiện chức năng quyết định và giám sát những vấn đề quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,… của Hội đồng nhân dân huyện và các xã, thị trấn. Chất lượng ban hành nghị quyết được nâng lên, sát với tình hình thực tế, hiệu quả thiết thực, tạo chuyển biến tích cực trong việc phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, thu hút đầu tư, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân.
Đảng bộ đã lãnh đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016. Hội đồng nhân dân huyện Hương Khê nhiệm kỳ 2011 - 2016 gồm 40 vị đại biểu[120]. Tổng số đại biểu trúng cử Hội đồng nhân dân cấp xã là 561 vị. Hội đồng nhân dân huyện và các xã, thị trấn tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri, đồng thời giải quyết kịp thời các kiến nghị chính đáng của cử tri… Các kỳ họp Hội đồng nhân dân không ngừng được đổi mới, nâng cao chất lượng, phát huy dân chủ, trí tuệ và trách nhiệm trong thảo luận, chất vấn, trả lời chất vấn và thông qua các nghị quyết.
Hoạt động điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp từng bước được đổi mới, đảm bảo việc tuân thủ quy chế, tập trung điều hành, tổ chức thực hiện các nghị quyết củacấp ủy, Hội đồng nhân dân cùng cấp và kế hoạch, chương trình công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh của địa phương.
Đảng bộ huyện đã lãnh đạo làm tốt công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm giao dịch “Một cửa” và “Một cửa liên thông” ở các cấp…
Bên cạnh thành tựu, sự lãnh đạo của Đảng bộ Hương Khê nhiệm kỳ này vẫn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm. Đó là kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Một số kết quả còn ở mức thấp của tỉnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế. Năng suất, sản lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm chủ lực còn thấp. Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn khó khăn. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chương trình xây dựng nông thôn chưa đồng đều, kết quả còn đạt thấp... Công tác thông tin, truyên truyền chưa thường xuyên, chưa sâu rộng; thiết chế văn hóa cơ sở thiếu và xuống cấp, chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của Nhân dân; chất lượng khám, chữa bệnh, trang thiết bị y tế chưa đáp ứng yêu cầu; chất lượng giáo dục bậc trung học cơ sở còn thấp so với mặt bằng chung của tỉnh; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng chưa bền vững, khả năng tái nghèo vẫn còn cao; công tác quân sự địa phương có mặt còn hạn chế. Trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn phức tạp… Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính trị, đạo đức có nơi còn hình thức; công tác nắm bắt dư luận xã hội ở một số đơn vị chưa kịp thời; chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao; kết quả khắc phục tồn tại, khuyết điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) một số nội dung chưa đạt yêu cầu... Công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm ở một số đơn vị, địa phương có lúc còn thiếu kịp thời. Năng lực và kỹ năng công tác dân vận của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; cải cách hành chính chưa mạnh mẽ, kết quả một số mặt còn đạt thấp...
Nhìn chung, quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khoá XXVIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, mặc dù còn một số hạn chế, song thành tựu đạt được là chủ đạo, là cơ sở và động lực quan trọng để Đảng bộ Hương Khê tiếp tục lãnh đạo Nhân dân đạt được những bước tiến mới trong giai đoạn tiếp theo.
II. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC XÂY DỰNG HUYỆN NÔNG THÔN MỚI (2015-2020)
Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở Hương Khê, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, huyện đã giành được những thành tựu hết sức nổi bật trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Diện mạo quê hương ngày càng khởi sắc, đời sống của Nhân dân không ngừng được nâng cao. Có thể nói, Hương Khê đã tiến được những bước dài trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ ngày 11 - 13/8/2015, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXIX. Tham dự Đại hội có 215 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng trong toàn huyện. Chủ đề của Đại hội là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ, đoàn kết, đổi mới; huy động nguồn lực đầu tư, phát triển bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân, sớm đạt huyện nông thôn mới”.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVIII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXVIII; Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia đóng góp vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khoá XVIII.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội khẳng định: Được sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các sở, ban, ngành cấp tỉnh; cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể huyện Hương Khê đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, động viên các tầng lớp Nhân dân đoàn kết, nỗ lực phấn đấu giành được kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch: Kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; quốc phòng và an ninh được giữ vững; chính trị ổn định; xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả bước đầu; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên; công tác xây dựng đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng cường.
Trên cơ sở đánh giá kết quả và hạn chế của nhiệm kỳ 2010-2015, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm:
Một là, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng và các tầng lớp Nhân dân; phát huy dân chủ để đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Hai là, lãnh đạo, chỉ đạo phải kiên trì, sâu sát, quyết liệt, tâm huyết, bám cơ sở; phân công, phân nhiệm cụ thể; nâng cao trách nhiệm, sáng tạo, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là vai trò trách nhiệm người đứng đầu và cấp ủy viên các cấp.
Ba là, chủ động nắm chắc tình hình, giữ vững ổn định chính trị, quan tâm giải quyết kịp thời, dứt điểm các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc nảy sinh ở cơ sở.
Bốn là, tăng cường công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân; thực hiện khen thưởng, kỷ luật kịp thời, nghiêm minh.
Đại hội tập trung trí tuệ, thảo luận và thông qua phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho nhiệm kỳ 2015-2020. Phương hướng và mục tiêu cơ bản được Đại hội xác định là: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 5 đề án nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh; huy động mọi nguồn lực xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân; tổ chức lại sản xuất, trọng tâm là tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo thực hiện tốt ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề và giải quyết việc làm; chăm sóc sức khỏe Nhân dân; thực hiện tốt các chính sách, đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường, công tác quân sự địa phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Đại hội xác định 3 nội dung đột phá cho nhiệm kỳ mới, đó là:
Thứ nhất, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, nhất là đất rừng, vườn hộ, bãi bồi ven sông; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; tăng cường liên liên kết hóa, doanh nghiệp hóa, xã hội hóa để thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển mạnh các sản phẩm hàng hóa chủ lực như lợn, bò, hươu; bưởi Phúc Trạch, cam các loại, rau màu chất lượng cao, chè công nghiệp, cây lấy gỗ; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, tập trung huy động mọi nguồn lực, đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội; xây dựng nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh, thành lập mới doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác; tạo chuyển biến tích cực về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường đào tạo nghề và giải quyết việc làm; xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu.
Đại hội thông qua chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng nông thôn mới, xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Các nhiệm vụ và giải pháp được thông qua rất cụ thể, gắn liền với thực tiễn.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIX bao gồm 41 ủy viên[121]. Đồng chí Đinh Hữu Tân được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIX đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 13 ủy viên; bầu đồng chí Ngô Xuân Ninh giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, bầu đồng chí Lê Ngọc Huấn giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu Đảng bộ Hương Khê đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII.
Thành công của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ XXIX đã tạo động lực to lớn để Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê tiếp tục phấn đấu xây dựng quê hương trong giai đoạn mới.
Hương Khê thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trong điều kiện có những thuận lợi, đó là: Tiếp tục có sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước; sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh. Cơ sở hạ tầng của huyện từng bước được đầu tư, nâng cấp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện có truyền thống đoàn kết, đó là nền tảng vững chắc để triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương… Bên cạnh đó, trong nhiệm kỳ này, huyện cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức: Giá cả các loại nông sản không ổn định, thị trường tiêu thụ khó khăn; tháng 9/2016 cháy chợ Sơn ở trung tâm huyện; ảnh hưởng của tiên tai, dịch bệnh hầu như năm nào cũng xảy ra[122]. Một số vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài nhiều năm nay phải tập trung giải quyết[123].
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, vận động Nhân dân đoàn kết, nỗ lực phấn đấu trên các lĩnh vực, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch.
Về kinh tế, trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các nội dung đột phá, khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai để phát triển nông nghiệp, sản xuất sản phẩm chủ lực; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ; tăng cường liên kết, thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; huy động nguồn lực, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ đều có Nghị quyết về tình hình kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đánh giá kết quả thực hiện và thông qua mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho năm sau.
Chính vì vậy, trong nhiệm kỳ này, kinh tế Hương Khê tiếp tục phát triển mạnh, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân 05 năm đạt 15,1% (năm 2016: 12,6%; năm 2017: 14%; năm 2018:15,5%; năm 2019:16,09%; năm 2020:17,51%). Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 34,36%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 36,3%; thương mại - dịch vụ chiếm 29,34%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 44,7 triệu đồng, tăng 16,9 triệu đồng so với năm 2015.
Ban Chấp hành Đảng bộ đã chỉ đạo tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung và tăng cường công tác quản lý quy hoạch; tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, phát huy nội lực và xã hội hóa nguồn lực để thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong nhiệm kỳ, huyện xây dựng, triển khai thực hiện 23 quy hoạch, trong đó, điều chỉnh, bổ sung 15, phê duyệt mới 08 quy hoạch. Huyện thực hiện việc công bố, công khai và tuyên truyền để các tổ chức và người dân biết, phối hợp thực hiện.
Ngày 16/3/2016, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê ban hành Nghị quyết số 01-NQ/HU về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Nghị quyết xác định phương hướng, mục tiêu là: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, nhất là về đất đai (đất rừng, vườn hộ, bãi bồi ven sông) để phát triển nông nghiệp; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; tăng cường liên kết hóa, doanh nghiệp hóa, xã hội hóa để thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; tăng giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa chủ lực như bò, lợn, hươu, bưởi Phúc Trạch, cam các loại, rau màu chất lượng cao, cây ngắn ngày, chè công nghiệp, cây lấy gỗ. Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển công nghiệp, dịch vụ theo hướng bền vững, nâng cao đời sống của Nhân dân. Nghị quyết số 01-NQ/HU có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp của huyện.
Huyện đã thu hút được một lượng vốn lớn phục vụ sản xuất. Tổng kinh phí ngân sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trong những năm 2015 - 2019 đạt trên 163,6 tỷ đồng. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2020 đạt 2.847,5 tỷ đồng (tăng 1.313,4 tỷ đồng so với năm 2015). Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân toàn ngành nông nghiệp đạt 9,8%.
Một số sản phẩm chủ lực của huyện được tập trung chỉ đạo. Huyện đã xây dựng nhãn hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm như bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, nâng cao giá trị gia tăng trên đơn vị diện tích và thu nhập cho người dân. Bưởi Phúc Trạch được chú ý phát triển, trở thành một thương hiệu hàng hóa có chỉ dẫn địa lý, kể cả ở các siêu thị và chỉ dẫn địa lý bưởi Phúc Trạch được Châu Âu bảo hộ. Đến năm 2020, toàn huyện có 3.169 mô hình về phát triển bưởi Phúc Trạch, cho giá trị sản xuất trên 100 triệu đồng/năm/mô hình (tăng 1.797 mô hình so với năm 2015).
Nét nổi bật trong chỉ đạo phát triển nông nghiệp là hình thành vùng Kinh tế mới Khe Mây (Hương Đô), trở thành vùng chuyên canh cam Khe Mây ngon nổi tiếng. Tại đây, có 300 hộ trồng cam, nhiều hộ đã trở thành chủ trang trại lớn với diện tích trồng cam lên tới hàng chục ha, thu nhập từ trang trại cam lên tới hàng tỷ đồng mỗi năm.
Về canh tác, Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo quyết liệt việc đưa sản xuất từ 2 vụ lên 3 vụ, phát triển trồng ngô vụ Đông cho thu nhập khá, diện tích tăng đột biến. Diện tích ngô vụ Đông năm 2020 đạt 1.800 ha, tăng 1.370 ha so với năm 2015. Diện tích trồng rau năm 2020 đạt 350 ha, tăng 150 ha so với 2015. Trong sản xuất, huyện đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ[124]. Việc đưa sản xuất vụ Đông trở thành vụ chính có ý nghĩa đặc biệt đối với sản xuất của huyện, đã góp phần thay đổi tập quán sản xuất của Nhân dân, tận dụng tối đa tiềm năng của địa phương, thúc đẩy kinh tế của huyện. Đồng thời giúp khắc phục được hiện tượng trâu bò chết đói, chết rét vào mùa Đông vẫn thường diễn ra như trước đây.
Nhờ chủ trương và sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ cùng nỗ lực của Nhân dân, sản lượng lương thực của Hương Khê được tăng lên, bình quân đạt 34.177 tấn/năm (tăng 1.056 tấn so với năm 2015, bằng 113,9% chỉ tiêu Nghị quyết). Năng suất một số cây trồng đạt khá. Năng suất bình quân cây lúa đạt 48,1 tạ/ha, ngô đạt 60 tạ/ha, lạc đạt 24 tạ/ha. Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha đất trồng trọt đạt 107 triệu đồng (tăng 36,8 triệu đồng/ha so với năm 2015). Kinh tế vườn, kinh tế trang trại phát triển mạnh cả về số lượng, quy mô và chất lượng. Toàn huyện có 28.234 hộ phát triển sản xuất cho tổng giá trị trên 2.293,4 tỷ đồng; có 2.719 ha bưởi Phúc Trạch, giá trị sản xuất đạt 739,5 tỷ đồng/năm, tăng 559,5 tỷ đồng so với năm 2015; 2.057 ha cam các loại, giá trị sản xuất 354,7 tỷ đồng/năm, tăng 260,7 tỷ đồng so với năm 2015. Chè công nghiệp có diện tích 185 ha, sản lượng 1.732 tấn, giá trị sản xuất đạt 13,8 tỷ đồng/năm. Trồng cây ăn quả trở thành một hướng phát triển bền vững của nền nông nghiệp Hương Khê.
Chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung trang trại, gia trại quy mô vừa và lớn, đầu tư xây dựng theo quy hoạch, liên kết theo chuỗi khép kín. Đến năm 2020, toàn huyện có 26 mô hình chăn nuôi lợn tập trung, quy mô từ 300 con trở lên, trong đó có 02 trại lợn nái ngoại sinh sản quy mô 600 con/cơ sở. Tổng đàn lợn nái ngoại có 4.000 con. Số lượng và chất lượng đàn vật nuôi được nâng lên. Năm 2020, tổng đàn trâu, bò có 46.550 con, trong đó: Đàn bò có 26.500 con, tăng 10,82% so với năm 2015, đàn bò lai, bò chất lượng cao chiếm tỷ lệ 33,9%, tăng 22,1% so với năm 2015; đàn lợn có 68.500 con, tăng 7.900 con so với năm 2015. Tổng đàn gia cầm có 1.150 ngàn con, tăng 554 ngàn con so với năm 2015. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm 44,5%.
Lâm nghiệp được chú trọng. Công tác quản lý về rừng, đất lâm nghiệp được tăng cường. Huyện chỉ đạo trồng rừng phát triển mạnh theo hướng tạo vùng nguyên liệu tập trung, liên kết chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Năm 2020, toàn huyện có 25.367 ha rừng trồng, tăng 1.459 ha so với năm 2015, tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 72% (bằng 100% chỉ tiêu Nghị quyết). Toàn huyện khai thác được 230.500 m3 gỗ rừng trồng, tăng 179.197 m3 so với năm 2015. Tổng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt 292,2 tỷ đồng.
Nhiều xã chú trọng nuôi trồng thuỷ sản, góp phần nâng cao thu nhập. Giai đoạn này, diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện là 310 ha, tổng sản lượng bình quân đạt 300 tấn/năm, giá trị sản xuất đạt trên 6 tỷ đồng/năm.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện quan tâm lãnh đạo phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong 5 năm (2015-2020) đạt 336,2 tỷ đồng, năm 2020 ước đạt trên 90 tỷ đồng (tăng 40,2 tỷ đồng so với năm 2015). Huyện duy trì hoạt động các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ..., một số doanh nghiệp mở rộng ngành nghề, nâng cao năng lực kinh doanh trên thị trường. Cụm công nghiệp Gia Phố được quy hoạch và bắt đầu thu hút các dự án.
Đến năm 2020, trên địa bàn huyện có 2 cụm công nghiệp đã có trong quy hoạch là cụm công nghiệp Gia Phố và cụm công nghiệp Hương Phúc. Huyện tiếp tục rà soát để đề nghị bổ sung trong quy hoạch thêm 2 cụm công nghiệp mới là cụm công nghiệp Hương Long với diện tích 25,0 ha, tại xã Hương Long và cụm công nghiệp Phúc Đồng với diện tích 70,0 ha, tại xã Phúc Đồng.
Tiểu thủ công nghiệp được quan tâm, có chuyển biến nhanh. Tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong giai đoạn 2015-2020 đạt 1.159 tỷ đồng, năm 2020, đạt 269,8 tỷ đồng (tăng 119,1 tỷ đồng so với năm 2015). Tiểu thủ công nghiệp đã giải quyết việc làm cho 2.120 lao động. Giai đoạn này, trên địa bàn huyện duy trì, phát triển các ngành nghề như sửa chữa ô tô, gia công cơ khí, sản xuất đồ mộc dân dụng... Nhiều cơ sở sản xuất đầu tư dây chuyền công nghệ cao, ứng dụng khoa học - công nghệ mới, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển công tác xây dựng cơ bản. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, kết cấu hạ tầng của huyện được đầu tư xây dựng đồng bộ[125]. Tổng nguồn lực huy động phục vụ xây dựng cơ bản cả nhiệm kỳ đạt trên 10.007 tỷ. Trong nhiệm kỳ này, toàn huyện làm mới được 315,4 km đường giao thông nông thôn và 44,7 km kênh mương bê tông theo cơ chế tỉnh và huyện hỗ trợ xi măng. Đặc biệt, triển khai xây dựng nhiều dự án quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội huyện, như: Dự án đầu tư cải thiện hạ tầng đô thị Thị trấn huyện[126], các tuyến đường liên xã[127] và nhiều công trình lớn có giá trị kinh tế, xã hội khác[128]. Các công trình phúc lợi xã hội, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư trong giai đoạn này có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nền kinh tế - xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, góp phần rất lớn trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân trên địa bàn, làm cho diện mạo của huyện ngày càng khang trang, hiện đại và niềm tin của Nhân dân Hương Khê đối với Đảng, chính quyền ngày càng được nâng lên.
Mặc dù trong điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, nhưng Ban Thường vụ Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo kêu gọi được Công ty TNHH thương mại Đức Tài đầu tư chợ Huyện mới tại tổ dân phố 4, thị trấn Hương Khê, với tổng mức đầu tư trên 122 tỷ đồng, được thiết kế, xây dựng đầy đủ các hạng mục đảm bảo tiêu chuẩn chợ loại 2, với 904 ki ốt cho thuê phục vụ kinh doanh. Chợ được đầu tư trên diện tích đất 54.220m2, khởi công từ tháng 8/2016 và hoàn thành đưa vào hoạt động từ tháng 12/2020. Đây là chợ cấp huyện có quy mô và hình thức đẹp nhất trong cả nước tại thời điểm này.
Hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng; thương mại, dịch vụ, du lịch chuyển biến tích cực. Ban Chấp hành Đảng bộ đã lãnh đạo triển khai các biện pháp, giải pháp quản lý, khai thác nguồn thu, chống thất thu ngân sách. Huyện ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, như Nghị quyết số 71/2015/NQ-HĐND, ngày 28/10/2015; nghị quyết số 38/2018/NQ-HĐNDngày 21/12/2018; nghị quyết 52/2019/NQ-HĐND, ngày 21/12/2019 của HĐND huyện; Nghị quyết số 61/NQ-HĐND, ngày 06/5/2020 của Hội đồng nhân dân huyện.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn giai đoạn 2016 - 2020 đạt 348 tỷ đồng. Trong đó: Tiền sử dụng đất và tiền thuê đất là 114 tỷ đồng (chiếm 33%/tổng thu); thuế, phí và thu khác là 234 tỷ đồng (chiếm 67%/tổng thu). Năm 2020, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 86 tỷ đồng. Huyện chỉ đạo, điều hành chi ngân sách đảm bảo theo kế hoạch. Hoạt động tín dụng, ngân hàng được quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hoạt động, đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh. Năm 2020, tổng nguồn vốn huy động đạt trên 1.381 tỷ đồng, dư nợ cho vay là 1.503 tỷ đồng.
Thương mại - dịch vụ được quan tâm lãnh đạo nên tăng trưởng khá. Năm 2020 ước đạt 2.431 tỷ đồng (tăng 1.617 tỷ đồng so với năm 2015). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2020 ước đạt 1.350 tỷ đồng. Toàn huyện có 327 doanh nghiệp, 115 hợp tác xã, 276 tổ hợp tác (so với năm 2015, tăng 126 doanh nghiệp, 26 hợp tác xã, 104 tổ hợp tác); 2.378 hộ kinh doanh cá thể (tăng 1.147 hộ so với năm 2015). Trong giai đoạn này, Đảng bộ, chính quyền huyện tập trung chỉ đạo chuyển đổi, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động 12 chợ theo mô hình mới; khánh thành chợ Huyện ở vị trí mới đạt chuẩn theo tiêu chí chợ loại 2. Trên địa bàn huyện xuất hiện nhiều cơ sở bán hàng điện tử, điện thoại quy mô lớn. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng nhanh, năm 2018 đạt 132 tỷ đồng, năm 2020 đạt 181 tỷ đồng. Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ vận tải năm 2018 đạt 221,016 tỷ đồng, năm 2020 đạt 240,659 tỷ đồng[129]. Công tác quản lý, nâng cao chất lượng các dịch vụ trên địa bàn được chú ý hơn trước.
Huyện đã phối hợp xây dựng tour tuyến gắn với tham quan nông thôn mới và các di tích lịch sử - văn hoá, thu hút được số lượng lớn các đoàn về tham quan. Trong những năm 2016 - 2020, huyện đón tiếp trên 1.500 đoàn đến tham quan, học tập kinh nghiệm về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý đất đai, bảo vệ môi trường, tài nguyên khoáng sản. Về cơ bản, hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân[130]; chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Đề án phát triển quỹ đất để tăng thu ngân sách…Công tác quản lý nhà nước về môi trường được quan tâm, nhất là tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường tại các cơ sở sản xuất kinh doanh, trang trại, gia trại chăn nuôi. Năm 2020, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn huyện đạt 96,33%; hộ gia đình sử dụng nước đạt tiêu chuẩn Quốc gia thuộc các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới tỷ lệ bình quân là 67,5%.
Tóm lại, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng bộ Hương Khê đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung phát triển kinh tế và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nền kinh tế của huyện đã tạo được cơ sở cho cho sự phát triển bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ XXIX, Đại hội Đảng cấp trên và chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, trong nhiệm kỳ 2015-2020, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, các mặt văn hoá - xã hội của Hương Khê có nhiều chuyển biến tích cực. An sinh xã hội được đảm bảo, đời sống của Nhân dân tiếp tục được nâng lên.
Ngày 20/10/2017, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 03 -NQ/HU về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Hương Khê đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Nghị quyết khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; quan tâm đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Ban Chấp hành Đảng bộ chủ trương xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Hương Khê hoàn thiện nhân cách. Xây dựng con người Hương Khê phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, giữ gìn bản sắc, nét đẹp văn hóa của địa phương, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, yêu quê hương tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia đình, cộng đồng, xã hội. Xây dựng con người văn hóa, gia đình văn hóa gắn với chương trình phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh, phòng chống bạo lực gia đình, thực hiện Luật bình đẳng giới. Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở, nâng cao mức hưởng thụ các giá trị văn hóa cho Nhân dân. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thị trấn và nông thôn, giữa các vùng và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Nghị quyết số 03 -NQ/HU có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và con người Hương Khê.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh ngày càng đi vào chiều sâu. Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao được Nhân dân hưởng ứng tích cực. Đến năm 2020, toàn huyện có 90% gia đình văn hóa, 33% gia đình thể thao. Số người tham gia luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên đạt 35%. 90% thôn, tổ dân phố, 59,83% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt danh hiệu văn hóa. 100% xã, thị trấn đạt tiêu chí văn hóa. 17/21 xã, thị trấn đạt tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa. Nhìn chung, các địa phương đã thực hiện tốt nếp sống văn minh, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Công tác bảo tồn, phát huy dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh có nhiều chuyển biến. Huyện tập trung quản lý, khai thác, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hoá[131].
Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao mừng Đảng, mừng xuân, kỷ niệm các ngày lễ lớn. Sự kiện chính trị, văn hoá trọng đại của huyện Hương Khê trong giai đoạn này là việc tổ chức Lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập huyện (1867-2017). Để chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm, ngày 04/5/2016, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê ban hành Kế hoạch số 376-KH/HU về tổ chức các hoạt động kỷ niệm 150 năm thành lập huyện, Ủy ban nhân dân huyện đã phát động phong trào “Thi đua học tập và lao động sáng tạo góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện”. Phong trào đã được cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân hưởng ứng, tạo khí thế thi đua trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội, 100% cơ quan, đơn vị đã đăng ký các hoạt động, công trình chào mừng. Ban Thường vụ Huyện ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo và các ban chuyên môn, bộ phận phục vụ.
Để tuyên truyền sâu rộng về truyền thống lịch sử và tiềm năng, cơ hội phát triển của huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành tài liệu tuyên truyền đến các tổ chức cơ sở đảng; phát động Cuộc thi Tìm hiểu về lịch sử 150 năm thành lập và phát triển của huyện Hương Khê; chỉ đạo biên soạn và xuất bản công trình “Địa chí Hương Khê”. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền trên Trang thông tin điện tử huyện, hệ thống truyền thanh cơ sở, các cụm pano, áp phích... Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện đã ban hành kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm; phát động các phong trào thi đua trong đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân, xây dựng các công trình, phần việc thiết thực gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh…
Ngày 25/11/2017, Lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập huyện được long trọng tổ chức. Lễ kỷ niệm là dịp để Đảng bộ và Nhân dân huyện Hương Khê ôn lại truyền thống thống vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Đồng thời cũng là dịp thể hiện sự quyết tâm của toàn huyện nhằm phát huy truyền thống, nắm bắt thời cơ, vận hội mới, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, đoàn kết, đồng lòng, vượt mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và sâu rộng công cuộc đổi mới, xây dựng địa phương phát triển nhanh, bền vững.
Công tác thông tin, tuyên truyền trên sóng truyền thanh - truyền hình được lãnh đạo và thực hiện tốt. Ngày 6/11/2018, Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê ban hành Quyết định số 8896/QĐ-UBND về việc thành lập Trung tâm Văn hóa - Truyền thông huyện Hương Khê trên cơ sở hợp nhất Đài Truyền thanh - Truyền hình và Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Du lịch huyện. Đến năm 2020, 100% xã, thị trấn đạt tiêu chí thông tin và truyền thông. Chất lượng của công tác truyền thông ngày càng được nâng cao.
Công tác tuyên truyền nhân các sự kiện trọng đại được thực hiện tốt, có giá trị thiết thực. Huyện Hương Khê còn đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ - thông tin; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cổng thông tin điện tử, các phần mềm điện tử, phòng họp trực tuyến trong hoạt động chỉ đạo, điều hành. Trong thời gian bùng phát dịch Covid -19, hệ thống trực tuyến của huyện đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê đã tập trung lãnh đạo nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục, chỉ đạo thực hiện lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chất lượng giáo dục các cấp học từng bước được nâng lên. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông hằng năm đạt trên 95%. Tỷ lệ học sinh đậu đại học, cao đẳng hằng năm chiếm trên 40% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Đến năm học 2020-2021, huyện Hương Khê có 22 trường mầm non với 5.954 cháu, 405 giáo viên; 22 trường tiểu học với 10.045 học sinh, 460 giáo viên; 12 trường trung học cơ sở với 6.286 học sinh, 399 giáo viên; 3 trường trung học phổ thông với 3.386 học sinh, 206 giáo viên[132]. Từ năm 2015 đến năm 2020, có 3.004 lượt em đạt học sinh giỏi quốc gia, học sinh giỏi tỉnh và học sinh giỏi huyện[133]. Đảng bộ cũng lãnh đạo tập trung củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở. Trong giai đoạn này, huyện Hương Khê duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2 (12 xã, thị đạt mức độ 3; 10 xã đạt mức độ 2), xóa mù chữ đạt mức độ 2.
Huyện tập trung đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý và chất lượng giáo dục, rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ để sắp xếp, bố trí hợp lý đảm bảo về số lượng, chất lượng, đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý trường học. Trong nhiệm kỳ này, Hương Khê tiếp tục sắp xếp hệ thống trường, lớp theo Nghị quyết số 96/2018/NQ-HĐND ngày 18/7/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển giáo dục mầm non và phổ thông tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2025 và những năm tiếp theo.
Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được quan tâm chỉ đạo và đạt nhiều kết quả. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - học đạt chuẩn, tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng cơ sở vật chất trường học. Đến năm 2020, toàn huyện có 39/59 trường, đạt tỷ lệ 66,1%.
Công tác giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề được chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt và có nhiều kết quả. Bình quân hàng năm, huyện giải quyết việc làm cho trên 1.600 lao động, trong đó xuất khẩu lao động và du học trên 200 người. Trong giai đoạn này, huyện đào tạo nghề cho 6.644 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2020 đạt 63%.
Công tác xã hội hoá giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập có nhiều tiến bộ. Hương Khê đạt được nhiều kết quả trong việc vận động các lực lượng xã hội tham gia đóng góp vào sự nghiệp giáo dục của huyện, đặc biệt là trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho các nhà trường. Hội Khuyến học huyện hoạt động tích cực, kịp thời biểu dương những học sinh có thành tích học tập tốt, thúc đẩy phong trào giáo dục.
Chất lượng khám, chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, hành nghề y, dược tư nhân, y học cổ truyền được nâng lên, đáp ứng cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân[134]. Huyện rất chú trọng việc nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đội ngũ y, bác sỹ[135]. Chương trình mục tiêu y tế hoạt động có hiệu quả. Huyện đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất y tế; duy trì 100% xã, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 10%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi là 15,5%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 90%.
Việc khám, chữa bệnh cho Nhân dân có nhiều chuyển biến. Huyện triển khai công tác khám, tạo lập và quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử cho người dân, đạt tỷ lệ 90%; triển khai Đề án quản lý bệnh không lây nhiễm đạt 70%; tỷ lệ tiêm chủng đạt 90%. Công tác y tế dự phòng được chú trọng, kịp thời ngăn chặn các bệnh dịch nguy hiểm, thực hiện tốt việc sàng lọc, quản lý bệnh không lây nhiễm. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lãnh đạo triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống dịch Covid-19, không để dịch bệnh phát sinh trên địa bàn.
Công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hoá gia đình được chú trọng. Tỷ lệ sinh trong 5 năm (2015 - 2020) giảm xuống còn 1,9%. Tỷ lệ mất cân bằng giới tính giảm từ 109 bé trai/100 bé gái năm 2015 xuống còn 105 bé trai/100 bé gái. Công tác bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em rất được quan tâm. Các ngành chức năng phối hợp các địa phương tổ chức tốt các hoạt động Tháng vì trẻ em, Diễn đàn trẻ em, Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, Ngày tiêm chủng mở rộng, Ngày Quốc tế thiếu nhi, Tết Trung thu, các hội thi, hội diễn văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao dành cho trẻ em,...
Các chế độ, chính sách đối với người có công và đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện tốt. Trong 5 năm (2015-2020), huyện chi trả trên 520 tỷ đồng cho 50.000 lượt đối tượng; giải quyết chế độ trợ cấp một lần cho 2.475 người có thành tích tham gia kháng chiến, với số tiền trên 3,5 tỷ đồng. Đến năm 2020, toàn huyện có 123 mẹ Việt Nam Anh hùng.
Cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở quan tâm công tác an sinh xã hội, từ thiện, nhân đạo. Công tác cứu trợ nhân đạo cho Nhân dân bị thiệt hại do lũ lụt được thực hiện tốt. Hầu như năm nào Hương Khê cũng chịu ảnh hưởng của mưa lũ, các năm 2016, 2017, 2019, huyện bị lũ lụt lớn, thiệt hại nặng. Hầu hết các xã trên địa bàn, nhất là các xã Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, Hương Thuỷ, Phúc Đồng, Hà Linh, Phương Mỹ… chịu hậu quả rất nặng nề. Huyện ủy đã kịp thời chỉ đạo các lực lượng quân sự, công an huyện và các lực lượng chức năng túc trực 24/24 giờ, kịp thời ứng cứu Nhân dân; chỉ đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cấp huyện và xã làm tốt công tác vận động, tiếp nhận, phân phối tiền, hàng cứu trợ cho Nhân dân[136]; chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện nhanh chóng có kế hoạch khắc phục hậu quả lũ lụt, ổn định sản xuất; tuyên truyền, vận động toàn dân khắc phục khó khăn…
Ngày 17/9/2016, chợ Sơn ở thị trấn Hương Khê bị cháy. Sau khi nhận được thông tin, lực lượng chức năng huyện đã có mặt kịp thời, cùng với Nhân dân dập tắt đám cháy. Mặc dù không gây thiệt hại về người, nhưng vụ hoả hoạn đã thiêu rụi hơn 130 ki ốt của 115 hộ kinh doanh, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho tiểu thương.Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện khắc phục sự cố. Ngày 3/10/2016, Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê đã gửi Tờ trình số 1492/TTr-UBND lên Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về việc xin hỗ trợ kinh phí để triển khai xây dựng chợ tạm khắc phục hậu quả do sự cố cháy chợ Sơn.
Giai đoạn này, huyện triển khai thực hiện tốt các văn bản của Nhà nước về mặt công tác này như: Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid -19[137].
Chính sách cho đồng bào dân tộc được quan tâm thực hiện đầy đủ. Đến năm 2020, Hương Khê có 04 bản dân tộc thiểu số, với 274 hộ, 956 nhân khẩu[138]. Giai đoạn này, huyện Hương Khê thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển đồng bào dân tộc như cải tạo nhà ở, xây dựng khu tái định cư, mở rộng đất sản xuất, tiếp tục hỗ trợ đời sống, bảo tồn văn hóa truyền thống... Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống vật chất, tinh thần của bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện ngày càng được cải thiện.
Công tác xoá đói giảm nghèo trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 được đặc biệt chú trọng. Huyện đã tập trung thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; triển khai đồng bộ các chính sách, giải pháp giảm nghèo bền vững. Đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo của Hương Khê giảm còn dưới 5%, tỷ lệ hộ cận nghèo còn 5,25%. Đời sống của hộ nghèo được quan tâm hơn, 100% người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 100% hộ nghèo có điều kiện phát triển sản xuất được vay vốn; 80% người nghèo được trợ giúp pháp lý miễn phí, 100% con hộ nghèo được hưởng chính sách hỗ trợ về giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và xây dựng đô thị văn minh, cấp ủy, chính quyền từ huyện đến các xã tăng cường công tác lãnh đạo, điều hành nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng này. Từ tháng 5/2019, huyện đã kiện toàn và hợp nhất một số Ban chỉ đạo thành Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững, mỗi xã một sản phẩm, với số lượng 41 thành viên[139]. Ban Chỉ đạo cấp huyện thường xuyên bám sát thực tiễn, kịp thời ban hành văn bản để chỉ đạo. Tính từ năm 2010, đã tổ chức 179 cuộc làm việc với các xã, ban hành 755 văn bản (9 nghị quyết, 10 chỉ thị, 5 công điện, 23 kế hoạch, 103 thông báo kết luận, 605 văn bản chỉ đạo khác).
Các xã tiếp tục quán triệt các văn bản chỉ đạo của tỉnh, huyện; củng cố Ban chỉ đạo, tổ công tác, tập trung huy động các tổ chức chính trị xã hội cơ sở và người dân tham gia các phong trào xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là huy động nguồn lực xã hội hóa. Từ năm 2010 đến năm 2019, các xã đã tổ chức 4.108 cuộc họp của Đảng ủy, Ban chỉ đạo nông thôn mới, Ủy ban nhân dân, Ban quản lý nông thôn mới tại xã, 3.842 cuộc họp và làm việc tại các thôn và hộ dân, 11.364 cuộc làm việc của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể cấp xã tại thôn, hộ dân về xây dựng nông thôn mới; xây dựng và ban hành 360 đề án, 779 kế hoạch và 2.204 văn bản khác.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh[140]. Các phong trào thi đua như “Cả huyện chung sức xây dựng nông thôn mới”, các cuộc vận động như “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” tiếp tục được duy trì và được Nhân dân hưởng ứng tích cực. Các cơ quan, đơn vị, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện đã tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới. Tổng kinh phí đỡ đầu, tài trợ xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đến năm 2019 đạt 61,245 tỷ đồng.
Hưởng ứng chủ trương “Ích quốc lợi dân” của Đảng, Nhân dân Hương Khê đã tích cực đóng góp tiền, hiến đất, tài sản, ngày công thực hiện các công trình công cộng như nhà văn hóa thôn, đường giao thông, vệ sinh môi trường… Có nhiều gương điển hình được huyện kịp thời biểu dương, khen thưởng. Tính đến năm 2019, toàn huyện có 76 tập thể và 113 cá nhân tiêu biểu trong xây dựng nông thôn mới được biểu dương, khen thưởng, trong đó, cấp tỉnh khen 07 tập thể và 22 cá nhân, cấp huyện khen 69 tập thể và 91 cá nhân.
Nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn dân nên kết quả huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới đạt được là rất lớn. Tổng nguồn vốn huy động từ ngày 31/12/2010 đến 30/7/2019 là 4.636,741 tỷ đồng[141]. Trong đó, tổng huy động nguồn lực giai đoạn 2010 - 2015 đạt 2.049,46 tỷ đồng (chiếm 43,4%), giai đoạn 2016 - 2019 đạt 2.587,281 tỷ đồng (chiếm 56,6%).
Đến năm 2020, toàn huyện, có 365/400 tiêu chí đạt chuẩn (tăng 145 tiêu chí so với năm 2015); có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới[142], chiếm tỷ lệ 61,9%, tăng 09 xã so với năm 2015, trong đó có 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (xã Hương Trà), không còn xã dưới 15 tiêu chí. Có 11 thôn đạt chuẩn khu dân cư mẫu (thôn Hải Thịnh, xã Gia Phố; thôn Nam Trà, Tiền Phong, Tân Trà, Đông Trà, Tân Hương, xã Hương Trà; thôn 3, xã Phú Phong; thôn 2, xã Phúc Trạch; thôn Vĩnh Ngọc, xã Hương Vĩnh; thôn Phú Thành, xã Phú Gia; thôn La Khê, xã Hương Trạch). Toàn huyện xây dựng được 61 khu dân cư mẫu, 699 vườn mẫu đạt chuẩn (tăng 57 khu dân cư mẫu, 626 vườn mẫu so với năm 2015). Mặt khác, đã thực hiện chỉnh trang vườn hộ; rà soát, đánh giá thực trạng tiêu chí huyện đạt chuẩn nông thôn mới theo Quyết định số 558/QĐ-TTg, ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng, phê duyệt Đề án huyện đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2020 - 2024 để tổ chức thực hiện.
Cấp ủy Đảng, chính quyền huyện tăng cường lãnh đạo, điều hành thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm và đạt được kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Đến năm 2020, huyện có 13 sản phẩm OCOP đạt chuẩn 3 sao cấp tỉnh. Các sản phẩm được xếp hạng sản phẩm OCOP đều là những sản phẩm nông thôn tiêu biểu, được chú trọng nâng cao chất lượng, phát triển đa dạng, hoàn thiện các thủ tục pháp lý như chứng nhận đủ điều kiện an toàn sản phẩm, hồ sơ công bố chất lượng, xây dựng và bảo hộ logo, bộ nhận diện thương hiệu bao gồm website, hệ thống bao bì, tem nhãn…
Trong xây dựng nông thôn mới, Hương Trà là điểm sáng của tỉnh Hà Tĩnh, là địa phương đầu tiên của huyện được công nhận nông thôn mới kiểu mẫu. Năm 2015, xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, năm 2018 được công nhận xã nông thôn mới nâng cao, năm 2019 được công nhận nông thôn mới kiểu mẫu (là 1 trong 2 xã đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh đạt xã nông thôn mới kiểu mẫu, cùng với xã Tùng Ảnh, Đức Thọ). Sau khi đạt chuẩn nông thôn mới, xã Hương Trà vẫn tiếp tục phấn đấu nâng cao hơn nữa các tiêu chí. Đến năm 2020, xã đã thành lập mới 8 tổ hợp tác, 3 hợp tác xã, 3 doanh nghiệp; xây dựng mới 190 mô hình, trong đó có 6 mô hình lớn, 5 mô hình vừa, 179 mô hình nhỏ; duy trì việc liên kết sản xuất chè giữa 329 hộ dân với Xí nghiệp chè 20/4, với diện tích chè đạt 273 ha. Hương Trà trở thành điểm sáng, là nơi tham quan, học tập kinh nghiệm trong xây dựng nông thôn mới của cả nước, đặc biệt là xây dựng khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu. Từ năm 2015 đến năm 2020, xã đã đón tiếp hơn 1.000 đoàn khách từ các huyện, các tỉnh trong cả nước đến tham quan, học tập kinh nghiệm.
Về xây dựng đô thị văn minh, ngày 08/7/2016, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HU về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”. Nghị quyết đánh giá tình hình của thị trấn và xác định phương hướng xây dựng “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”, đó là: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp Nhân dân về xây dựng thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị. Thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, huy động các nguồn lực xây dựng đồng bộ hạ tầng kinh tế, xã hội. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhất là công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tăng thu ngân sách. Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội, chất lượng gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, phấn đấu xây dựng thị trấn đạt đô thị loại IV trước năm 2025.
Thực hiện Nghị quyết 02-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lồng ghép các chương trình, dự án để huy động nguồn vốn trên 350 tỷ đồng đầu tư kết cấu hạ tầng trên địa bàn. Nhờ vậy, diện mạo thị trấn Hương Khê ngày càng khang trang, hiện đại, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của huyện. Năm 2019, thị trấn được công nhận đạt chuẩn “Văn minh đô thị” lần thứ nhất, hoàn thành các tiêu chuẩn “Phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị” theo Điều 4, Thông tư 02/2013/TT-BVHTTDL ngày 24/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đặc biệt quan tâm, lãnh đạo Đảng ủy Quân sự huyện thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh biên giới, thúc đẩy kinh tế, xã hội huyện nhà phát triển.
Đảng ủy Quân sự huyện tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp. Chất lượng huấn luyện, trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Ban Chỉ huy Quân sự huyện Hương Khê thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện[143]. Năm 2018, Hương Khê tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ huyện được cấp ủy, chính quyền địa phương, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và Quân khu 4 đánh giá cao. Hàng năm tổ chức luyện tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và diễn tập chỉ huy - tham mưu đạt kết quả tốt. Ngoài ra, đã chỉ đạo các xã, thị trấn diễn tập chiến đấu phòng thủ kết hợp với phòng chống bão lụt, cháy rừng đạt 100% kế hoạch đề ra. Các xã, đơn vị triển khai kế hoạch huấn luyện, hội thao đạt kết quả tốt.
Công tác xây dựng lực lượng được quan tâm chỉ đạo. Lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên của huyện Hương Khê đủ số lượng, chất lượng tốt, có trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,92% dân số, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng nòng cốt đạt 29%. Công tác tuyển, chọn và gọi công dân nhập ngũ, công tác tuyển sinh quân sự hàng năm được triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, bảo đảm 100% chỉ tiêu cấp trên giao, chất lượng tốt. Công tác giáo dục, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức quốc phòng, an ninh cho các được chú trọng, đạt 98,9% so với kế hoạch.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, Đảng ủy Quân sự và Ban Chỉ huy Quân sự huyện đã triển khai thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả công tác chính sách hậu phương quân đội và phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, thực hiện tốt các chính sách tồn đọng sau chiến tranh cho các đối tượng[144]....
Công tác đối ngoại quân sự được triển khai và đạt được những kết quả ban đầu. Ban Chỉ huy Quân sự huyện Hương Khê đã phối hợp với các Đồn Biên phòng tổ chức giao ban với Đại đội 311 của huyện Naikai, tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Lãnh đạo làm tốt công tác quản lý hành chính quân sự bảo đảm đúng nguyên tắc, hàng năm phục vụ tốt công tác thanh tra, kiểm toán, và các cuộc kiểm tra của các cấp bảo đảm tính minh bạch, công khai trong tham mưu tổ chức thực hiện.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và Đảng ủy Công an huyện, Công an Hương Khê tập trung giải quyết tốt các vụ việc liên quan đến mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ Nhân dân; tiếp xúc, vận động chức sắc, chức việc và bà con giáo dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả các vụ tranh chấp, lấn chiếm đất, xây dựng các công trình tôn giáo trái phép.
Công an huyện phối hợp với các lực lượng chức năng và cấp ủy, chính quyền các xã biên giới triển khai các biện pháp tuần tra, kiểm soát, bảo vệ an ninh biên giới; đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các đối tượng phản động và âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Củng cố, duy trì mối quan hệ đoàn kết, tổ chức giao ban luân phiên với An ninh huyện Nakai (Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào), phối hợp giải quyết một số vấn đề, vụ việc xảy ra trên địa bàn của 2 huyện.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước được làm tốt, không để xảy ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Lực lượng công an bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị, văn hóa, các đoàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước, khách quốc tế đến thăm và làm việc tại địa phương, nhất là Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Bầu cử đại Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, Lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập huyện… Công tác bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được thực hiện quyết liệt. Công an huyện Hương Khê mở 14 đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
Công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được lãnh đạo và thực hiện tốt. Công an huyện triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Công an về công tác dân vận và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ 2015 - 2020, đã xây dựng mới 04 mô hình tự quản về an ninh trật tự, tiếp tục phát huy hiệu quả của mô hình “Tổ liên gia tự quản về an ninh trật tự”; tổ chức thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch, quy chế phối hợp giữa Công an với các ngành, đoàn thể trong công tác đảm bảo an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trong xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ. Đến năm 2020, Hương Khê hoàn thành việc bố trí công an chính quy tại các xã, thị trấn…
Đảng bộ huyện Hương Khê hết sức quan tâm chỉ đạo hoạt động đối ngoại. Huyện phối hợp thực hiện có hiệu quả quy chế bảo vệ an ninh biên giới; duy trì hoạt động đối ngoại thường niên với huyện An Lão, tỉnh Bình Định và huyện Nakai, tỉnh Khăm Muồn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đáng chú ý là hoạt động hợp tác giữa huyện Hương Khê và huyện Nakai, hai huyện đã tiến hành kết nghĩa từ năm 2013, trong giai đoạn này tiếp tục phát triển với nhiều hoạt động trao đổi hợp tác song phương. Hàng năm, lãnh đạo hai huyện tiến hành hội đàm luân phiên. Tại các cuộc hội đàm, hai bên tiến hành ký kết các chương trình hợp tác, giúp đỡ, trao đổi kinh nghiệm theo điều kiện và khả năng thực tế của mỗi huyện, nhằm giải quyết các vấn đề liên quan mà hai địa phương cùng quan tâm, góp phần đảm bảo an ninh trật tự tuyến biên giới; tiếp tục hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai huyện Hương Khê - Nakai cũng như hai nước Việt - Lào.
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được Đảng bộ Hương Khê chú trọng . Huyện ủy đã không ngừng đổi mới, nâng ca chất lượng ban hành văn bản; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ đột phá về đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu.. Công tác chính trị tư tưởng tiếp tục được đổi mới, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Việc tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền và sơ, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh và huyện kịp thời, đảm bảo yêu cầu. Huyện ủy tổ chức 36 hội nghị học tập, quán triệt, tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cho hơn 7.300 lượt cán bộ cốt cán toàn huyện. Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành 06 nghị quyết chuyên đề, 51 chỉ thị, 04 đề án, 307 kết luận, 18 chương trình hành động để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực.
Đảng bộ quan tâm công tác giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới cho cán bộ, đảng viên; giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thế hệ trẻ, gắn với tổ chức nhiều phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả hướng tới kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị trọng đại của quê hương, đất nước, kỷ niệm 150 năm thành lập huyện. Chất lượng giáo dục chính trị được nâng cao, Huyện ủy phối hợp mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho hơn 20.000 lượt cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ, đã tập trung xây dựng Trung tâm chính trị huyện đạt chuẩn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ. Công tác chỉ đạo, định hướng hoạt động thông tin, truyền thông được quan tâm thực hiện kịp thời.
Huyện ủy coi trọng và chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động Ban Chỉ đạo công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (Ban Chỉ đạo 35), Ban Chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa (Ban Chỉ đạo 94) ở cơ sở. Nhờ vậy, đã góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Công tác tổ chức bộ máy, cán bộ, đảng viên có sự đổi mới và chuyển biến tích cực. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo tập trung củng cố tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; ban hành Quy chế làm việc và các quy định về công tác cán bộ; kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động các đoàn công tác của Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo cơ sở.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII, Hương Khê đã sáp nhập xã Phương Điền và xã Phương Mỹ thành xã Điền Mỹ (theo Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 ngày 21/11/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội), đồng thời ban hành Quyết định thành lập Đảng bộ xã Điền Mỹ (Quyết định số 898, ngày 01/01/2020 của Huyện ủy Hương Khê); sáp nhập 17 thôn, tổ dân phố; tiếp tục giảm 03 trường học, 03 trung tâm; thực hiện Trưởng ban Tuyên giáo kiêm Giám đốc Trung tâm chính trị huyện; giảm 106 biên chế cán bộ, công chức (16,5%); giảm 316/2.072 viên chức (15,25%); 163 người hoạt động không chuyên trách cấp xã (48,1%) và 1064/2618 cán bộ thôn, tổ dân phố (49%); thành lập trung tâm y tế huyện…
Trong nhiệm kỳ đã giới thiệu bổ nhiệm, ứng cử chức vụ lãnh đạo 520 lượt cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển cán bộ được quan tâm, đã cử 42 cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo các loại hình ở Trung ương và tỉnh. Điều động, luân chuyển về cơ sở 06 đồng chí diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Việc đánh giá, xếp loại đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên được đổi mới. Hàng năm, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 84,9%, tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 69,5%, Đảng bộ huyện được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
Công tác phát triển Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ kết nạp được 675 quần chúng ưu tú vào Đảng; tổ chức 10 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng cho 683 quần chúng ưu tú; 10 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 598 đảng viên mới. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Trong nhiệm kỳ, đã sàng lọc, đưa 52 đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên được thực hiện kịp thời, đúng quy định. Công tác xét tặng và truy tặng Huy hiệu Đảng được làm tốt, có 2.011 đồng chí được tặng, truy tặng Huy hiệu Đảng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng được thực hiện tốt.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Kế hoạch số 646-KH/HU, ngày 27/12/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Kế hoạch số 408-KH/HU, ngày 03/6/2016 về thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW… Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên, thực hiện các nghị quyết, quy định của Đảng. Cấp ủy Đảng từ huyện đến cơ sở xây dựng kế hoạch khắc phục kịp thời những hạn chế, khuyết điểm sau khi có kết luận kiểm điểm hằng năm và các kết luận kiểm tra, thông báo giám sát của cấp ủy cấp trên; xây dựng kế hoạch thực hiện quy định về phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị và các quy định về nêu gương đã có sự chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân, góp phần to lớn vào việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng được tập trung chỉ đạo. Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp tổ chức quán triệt và triển khai kịp thời, nghiêm túc các quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương của Trung ương, của tỉnh và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Ủy ban kiểm tra cấp trên về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra. Qua đó, đã tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và việc tổ chức thực hiện của các cấp ủy, người đứng đầu đối với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát cả nhiệm kỳ và từng năm[145]. Huyện ủy cũng tập trung lãnh đạo thực hiện quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy với các Ban Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện, các Cơ quan trong khối Nội chính từng bước đi vào thực chất và có hiệu quả.
Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách tư pháp được tăng cường hơn. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, cấp ủy Đảng kịp thời quán triệt và triển khai các nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hàng năm, xây dựng kế hoạch triển khai chương trình công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí sát với tình hình của huyện. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm. Chế độ tiếp công dân định kỳ của đồng chí bí thư cấp ủy, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp theo Quy định 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân được thực hiện nghiêm túc.
Xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng đất nước, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tập trung quán triệt và triển khai thực hiện kịp thời các chủ trương, nghị quyết về công tác dân vận sát với tình hình thực tiễn của địa phương. Tiêu biểu là việc thực hiện Kết luận số 03-KL/TW, ngày 13/5/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa X về Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” có ý nghĩa to lớn trong nhiệm vụ chính trị của huyện. Huyện đã gắn phong trào thi đua “Dân vận khéo” với việc học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, thi đua xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Tất cả các xã, cơ quan, đơn vị trong toàn huyện đều xuất hiện nhiều mô hình “Dân vận khéo”. Trong nhiệm kỳ, toàn huyện có 572 mô hình tiêu biểu trên các lĩnh vực. Đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Ngày 22/5/2016, Đảng bộ huyện Hương Khê đã lãnh đạo tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo tập trung làm tốt công tác chuẩn bị nhân sự ứng cử theo quy định, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong Nhân dân. Trong công tác tổ chức bầu cử, huyện Hương Khê đã được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen.
Hội đồng nhân dân huyện Hương Khê khoá XX, nhiệm kỳ 2016 - 2021 bao gồm 40 vị đại biểu, đảm bảo về tiêu chuẩn, chất lượng, cơ cấu, được phân chia thành 8 tổ đại biểu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, hoạt động của Hội đồng nhân dân được đổi mới, các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng được chuẩn bị chu đáo, có chất lượng và hiệu quả. Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban, tổ đại biểu đúng theo luật định và ngày càng có hiệu quả.
Huyện tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh với cử tri trên địa bàn. Các đại biểu Hội đồng nhân dân huyện đã làm tốt việc đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Chất lượng hoạt động giám sát, chất vấn của Hội đồng nhân dân huyện ngày càng được nâng lên. Việc trả lời chất vấn đã bám sát trọng tâm, trọng điểm.
Ủy ban nhân dân huyện và các xã bám sát chỉ đạo của cấp ủy, Ủy ban nhân dân cấp trên các cấp để chủ động xây dựng, triển khai kịp thời các quy hoạch, kế hoạch, đề án, cơ chế chính sách phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Công tác chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp được tập trung quyết liệt, đồng bộ, xuyên suốt, kịp thời trên các lĩnh vực, xác định các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, chú trọng việc tăng cường ứng dụng công nghệ - thông tin trong chỉ đạo, điều hành.
Công tác cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy theo chủ trương của Đảng cấp trên, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Hành chính công huyện được thực hiện tốt. Bên cạnh đó, thực hiện siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Mặt trận Tổ quốc tiếp tục được củng cố, kiện toàn và không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Hương Khê là trung tâm của khối đoàn kết toàn dân, thường xuyên chăm lo củng cố, phát huy sức mạnh toàn dân. Hàng năm, tổ chức tốt Ngày hội đại đoàn kết toàn dân có hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ngày vì người nghèo” và “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đạt nhiều kết quả nổi bật[146].
Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động huyện được củng cố, kiện toàn về mặt tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, bám sát cơ sở, ra sức tập hợp đoàn viên, hội viên tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong nhiệm kỳ 2015-2020, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị.
Sự lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2015-2020, bên cạnh đạt được những thành tựu rất to lớn và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, vẫn còn một số hạn chế, như:
Trong lĩnh vực kinh tế: Một số chỉ tiêu chủ yếu chưa đạt kế hoạch; công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch còn nhiều khó khăn, bất cập, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư trên địa bàn, nhất là quy hoạch về phát triển vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản còn hạn chế; việc thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp chưa mạnh mẽ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, giá trị công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng còn thấp trong cơ cấu kinh tế. Công nghiệp chế biến lâm sản chưa được phát huy...
Trongcông tác văn hóa - xã hội: Cơ sở vật chất, văn hóa một số xã, thôn chưa đáp ứng yêu cầu; công tác quản lý, tôn tạo, khai thác giá trị các di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng còn khó khăn, hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao; chất lượng giáo dục ở một số trường học còn hạn chế, giáo dục ngoài công lập phát triển chậm; phát triển du lịch còn gặp nhiều khó khăn … Phong trào xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều giữa các địa phương. Việc huy động nguồn lực còn gặp khó khăn; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới còn thấp so với mức bình quân chung của tỉnh.
Trong công tác quốc phòng - an ninh: Công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên tính ổn định chưa cao; tình hình an ninh trật tự trên một số lĩnh vực còn tiềm ẩn phức tạp...
Với công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, công tác tuyên truyền chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một số đơn vị có nội dung còn thiếu chiều sâu; thông tin tuyên truyền gương người tốt, việc tốt và quảng bá hình ảnh của huyện chưa kịp thời… ; công tác quy hoạch cán bộ một số cơ quan, đơn vị chất lượng chưa cao, chưa gắn với việc đào tạo, bố trí và sử dụng; chất lượng sinh hoạt chi bộ một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao. Nhận thức của một số tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng chưa đúng mức...; công tác chỉ đạo điều hành hoạt động một số phòng, ngành, địa phương, đơn vị chậm đổi mới, kỷ luật hành chính chưa nghiêm. Công tác cải cách hành chính ở một số địa phương, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu...
Mặc dù còn những tồn tại, hạn chế, nhưng trong nhiệm kỳ 2015-2020, thành tựu đạt được là nét chủ đạo. Đó là cơ sở quan trọng để Đảng bộ huyện Hương Khê lãnh đạo Nhân dân tiếp tục bứt phá trong giai đoạn tiếp theo.
* *
*
Từ ngày 5 đến ngày 7/8/2020, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ XXX, nhiệm kỳ 2020-2025. Tham dự Đại hội có 222 đại biểu chính thức, đại diện cho 7.000 đảng viên ở 40 Đảng bộ, Chi bộ trực thuộc trong toàn huyện.
Với phương châm: Dân chủ - đoàn kết - kỷ cương - sáng tạo - phát triển, Đại hội đã đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và mũi đột phá cho nhiệm kỳ mới. Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; phát huy dân chủ, đoàn kết, sáng tạo, khát vọng đổi mới; khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế, huy động nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân, huyện đạt chuẩn nông thôn mới”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trình Đại hội đã đánh giá khách quan, toàn diện kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIX, làm rõ kết quả đạt được, hạn chế, khuyết điểm; rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Trên cơ sở kết quả đạt được trong nhiệm kỳ trước, phân tích dự báo tình hình trong những năm tiếp theo, Đại hội đã xác định phương hướng, mục tiêu của nhiệm kỳ 2020 - 2025: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo huy động nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất. Tiếp tục thực hiện quyết liệt tái cơ cấu nông nghiệp, ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất; phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, du lịch; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững; chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm; chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Tăng cường, củng cố công tác quân sự địa phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để hình thành điểm nóng về an ninh trật tự, kiềm chế gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội, tạo chuyển biến rõ nét về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Đẩy mạnh cải cách hành chính, thi đua - khen thưởng, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Mục tiêu cơ bản của nhiệm kỳ 2020 - 2025 được Đại hội xác định là: Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phấn đấu Hương Khê có kinh tế phát triển theo hướng nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao; công nghiệp chế lâm sản, nông sản,dịch vụ, thương mại phát triển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước đồng bộ; an sinh xã hội được đảm bảo; quốc phòng, an ninh giữ vững ổn định;đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân tiếp tục được nâng lên; xây dựng huyện đạt chuẩn nông thôn mới, thị trấn đạt đô thị văn minh.
Đại hôi xác định 3 mũi đột phá trong nhiệm kỳ mới:
Một là: Tiếp tục khai thác tiềm năng về đất đai, tài nguyên, ứng dụng khoa học công nghệ, liên kết phát triển các sản phẩm, có lợi thế, phát triển mạnh kinh tế vườn, kinh tế trang trại theo hướng nông nghiệp hữu cơ, gắn với chế biến và phát triển chăn nuôi; khai thác tiềm năng về văn hóa, lịch sử, sinh thái để phát triển dịch vụ, du lịch.
Hai là: Tập trung huy động nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng: Giao thông, cụm công nghiệp, cơ sở vật chất văn hóa, trường học, hạ tầng thương mại, công nghệthông tin.
Ba là: Đẩy mạnh cải cách hành chính, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tập trung giải quyết đơn thư, vụ việc; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 gồm 38 ủy viên[147]. Đồng chí Lê Ngọc Huấn được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIX bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 13 ủy viên, bầu Phó Bí thư, bầu Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy. Đồng chí Từ Thị Hoà được bầu giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Ngô Xuân Ninh được bầu giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu Đảng bộ Hương Khê đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Tháng 10/2022, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh điều động đồng chí Lê Ngọc Huấn giữ chức vụ Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; đồng chí Nguyễn Thanh Điện, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường được chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức Bí thư Huyện ủy Hương Khê nhiệm kỳ 2020 - 2025. Ngày 9/11/2022, tại Kỳ họp thứ 10, Hội đồng nhân dân huyện Hương Khê khóa XX đã bầu đồng chí Từ Thị Hòa giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện.
Thành công của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ XXX là niềm tin, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ Đảng bộ và Nhân dân huyện trên con đường đẩy mạnh xây dựng và phát triển quê hương. Ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXX nhanh chóng hoàn thiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, xây dựng Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn khóa để đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, sự nỗ lực của hệ thống chính trị và tinh thần quyết tâm của Nhân dân, những năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng huyện lần thứ XXX mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhất là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, huyện Hương Khê đã đạt được những kết quả ban đầu rất quan trọng.
Về kinh tế: Tốc độ tăng tổng giá trị sản xuất năm 2022 đạt 11,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, năm 2022: Nông, lâm, thủy sản chiếm 33,15%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 39,15%, thương mại - dịch vụ chiếm 27, 7%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 đạt 50,09 triệu đồng/người/năm.
Ban Chấp hành Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, triển khai thực hiện kịp thời có hiệu quả các chính sách của tỉnh và huyện về hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp. Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt đưa vụ Đông thành vụ sản xuất chính, giải quyết tốt vấn đề lương thực. Năng suất, sản lượng một số cây trồng, như lúa, ngô năm 2022 đều đạt và vượt kế hoạch. Kinh tế vườn, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển, diện tích cây ăn quả tăng cả về quy mô, diện tích và năng suất, chất lượng. Chăn nuôi được đẩy mạnh phát triển theo hướng liên kết, năm 2022, tỷ trọng chăn nuôi chiếm 42,7%.
Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện đề án phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo Nghị quyết số 05-NQ/HU ngày 27/11/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Lập điều chỉnh tổng thể quy hoạch chi tiết của Cụm công nghiệp Gia phố, đã được Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương. Duy trì hoạt động các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cơ sở sản xuất mộc, may mặc trên địa bàn. Tiếp tục hoàn thiện các hồ sơ, thủ tục trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt đầu tư dự án cải thiện hạ tầng đô thị Thị trấn huyện từ nguốn vốn AFD của Pháp. Thực hiện đầu tư và chuẩn bị đầu tư 102 công trình, với tổng mức đầu tư trên 3.344 tỷ đồng. Chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án làm giao thông nông thôn, kênh mương bê tông đạt 100% kế hoạch.
Về văn hoá - xã hội: Tổng kết 20 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giai đoạn 2000 - 2020”. Đến năm 2022, toàn huyện có 29.030/30.981 hộ đạt gia đình văn hoá, chiếm tỷ lệ 93,7%; 13.020/30.981 gia đình thể thao, chiếm tỷ lệ 42%; 215/221 thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu thông văn hóa, đạt tỷ lệ 97,28%; 88/121 cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hóa, chiếm tỷ lệ 72%. Đảng bộ tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền các ngày lễ trọng đại của quê hương, đất nước, các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, trọng tâm là các hoạt động kỷ niệm 155 năm thành thành lập huyện (1867 - 2022). Chỉ đạo tổ chức tốt các lễ hội truyền thống[148], nổi bật là lễ hội đua thuyền truyền thống chào mừng Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9, có sự tham gia của huyện Nakai (tỉnh Khăm Muộn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào), huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Đảng bộ huyện chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 07/CT-HU, ngày 24/12/2020 của Ban Thường vụ Huyện ủy về nâng cao chất lượng giáo dục giai đoạn 2020 - 2025 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 17/NQ-HĐND của HĐND huyện về chính sách hỗ trợ khuyến khích học sinh, học viên, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục huyện có thành tích trong giảng dạy, học tập, giai đoạn 2021 - 2025. Năm 2022, tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99,35%, tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ 95,93%. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục có chuyển biến tích cực. Đến đầu năm 2022, toàn huyện có 38/59 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó: Mầm non có 14/22 trường, tiểu học có 12/21 trường, trung học cơ sở có 08/12 trường, trung học phổ thông có 3/3 trường, trung học cơ sở và trung học phổ thông Dân tộc nội trú có 01 trường. Chất lượng khám, chữa bệnh không ngừng được nâng cao. Năm 2022, chỉ số hài lòng của người bệnh đạt 87%, tỷ lệ khám, tạo lập hồ sơ sức khỏe điện tử đạt 95%.
Đảng bộ lãnh đạo triển khai thực hiện kịp thời chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19[149]; giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách người có công và đối tượng bảo trợ xã hội, với số tiền trên 121 tỷ đồng. Năm 2022, tiếp nhận, cấp phát 27.272 suất quà Tết, trị giá trên 8,8 tỷ đồng; cấp hỗ trợ trên 25,14 tấn gạo và nhu yếu phẩm cho đồng bào dân tộc và các hộ có hoàn cảnh khó khăn... Đã triển khai xây dựng nhà văn hóa công đồng kết hợp tránh bão lũ tại thôn 5 xã Hà Linh, hoàn thành đưa vào sử dụng 125 nhà ở cho hộ dân.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; giảm nghèo bền vững, OCOP được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt những kết quả nổi bật. Tính đến tháng 6/2022, Hương Khê có thêm 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Hương Bình, Hòa Hải, Hương Thủy, Phúc Đồng), 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (Hương Trạch, Phúc Trạch, Phú Gia), 16 thôn đạt khu dân cư kiểu mẫu; 02 xã Hương Liên và Hương Lâm đang nỗ lực phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới vào đầu năm 2023. Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo xây dựng Thị trấn đạt chuẩn Đô Thị Văn minh.
Đến cuối năm 2022, toàn huyện có 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 3 xã nông thôn mới nâng cao, 01 xã nông thôn mới kiểu mẫu, 121 khu dân cư mẫu đạt chuẩn. Thị trấn có có 5/9 tiêu chí đạt chuẩn. Huyện có thêm 10 sản phẩm đạt chuẩn OCOP hạng 3 sao cấp tỉnh. Tính đến đầu năm 2022, Hương Khê đã có 23 sản phẩm đạt chuẩn hạng 3 sao.
Đảng bộ huyện tập trung lãnh đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo còn 4,63%, hộ cận nghèo còn 4,46%.
Về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19: Đây là đại dịch viêm phổi cấp do chủng mới của virus corona gây ra. Dịch bắt đầu bùng phát từ tháng 12/2019 tại thành phố Vũ Hán (Trung Quốc) sau đó lây lan ra toàn cầu. Tại Việt Nam, dịch Covid-19 đã gây ra rất nhiều tổn thất cho đất nước, cho xã hội. Kinh tế bị thiệt hại nặng nề, thu ngân sách giảm, nạn thất nghiệp tăng; các dịch vụ, kinh doanh khác mất thu nhập,…dịch bệnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tính mạng của Nhân dân và an ninh, trật tự xã hội... Hương Khê là huyện vùng biên, có tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua, diễn biến dịch bệnh là hết sức phức tạp. Để thực hiện phòng, chống đại dịch, Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt, sáng tạo, linh hoạt, có hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Đến đầu năm 2022, huyện đã ban hành 3 công điện, 7 kết luận, 3 kế hoạch, 3 phương án, kịp thời kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh Covid-19 huyện, thành lập 9 Đoàn kiểm tra công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn; tổ chức làm việc chuyên đề với Ban Chỉ đạo công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 huyện và Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, chủ động, linh hoạt đề xuất Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cho chủ trương điều trị đối với các trường hợp vượt thẩm quyền xử lý của huyện. Bên cạnh đó, huyện đã lựa chọn phương án tổ chức dạy và học trực tiếp trong tình hình mới, đảm bảo chặt chẽ, phù hợp với công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, tiết kiệm kinh phí cho ngân sách nhà nước và của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ và đạt kết quả cao; chỉ đạo tập trung tổ chức thực hiện tốt công tác tiêm phòng vắc-xin Covid-19. Đến đầu năm 2022, đã tiêm được 78.191 người thuộc các đối tượng theo quy định, đạt tỷ lệ 99,9%. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện chủ trì, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội phát động trong toàn huyện, vận động ủng hộ quỹ phòng, chống dịch bệnh Covid-19 được gần 1,7 tỷ đồng; kêu gọi vận động, quyên góp ủng hộ Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam gần 85 tấn hàng hóa, nhu yếu phẩm các loại, trị giá ước tính trên 1,1 tỷ đồng; huy động lực lượng phục vụ các điểm cách ly tập trung của huyện, xã, thị trấn. Nhìn chung, với điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, linh động, sáng tạo củacấp ủy, chính quyền huyện, Hương Khê đã làm tốt công tác phòng chống dịch, hạn chế mức thiệt hại cho Nhân dân.
Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại: Chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyển, giao quân năm 2021 và 2022 đạt 100% chỉ tiêu; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu; triển khai tổ chức huấn luyện, hội thao, diễn tập chiến đấu phòng thủ đạt kết quả tốt, an toàn tuyệt đối. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được đảm bảo. Thời gian này, huyện tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm trật tự an toàn xã hội; chỉ đạo triển khai kế hoạch mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; tuần tra, kiểm soát đảm bảo trật tự an toàn giao thông; lắp đặt hệ thống camera an ninh tại 21/21 xã, thị và các điểm, nút giao thông quan trọng; duy trì và phát huy hiệu quả 1.272 “Tổ liên gia tự quản về an ninh trật tự”; ra mắt hoạt động mô hình “Khu dân cư bình yên, chung sức xây dựng nông thôn mới”; phát huy vai trò lực lượng Công an chính quy cấp xã…
Hoạt động đối ngoại được quan tâm: Tổ chức các đoàn công tác thăm hỏi, hỗ trợ vật tư y tế cho huyện Nakai (Lào); thành lập Đoàn công tác tham dự Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập huyện An Lão (tỉnh Bình Định); chỉ đạo Công an huyện phối hợp các đồn Biên phòng trên địa bàn thăm hỏi, hỗ trợ nhu yếu phẩm cho lực lượng bảo vệ biên giới của Lào …
Năm 2021, Đảng bộ lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026 trên địa bàn. Bám sát các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chủ động ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đảm bảo quy định. Phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng hướng về ngày bầu cử bằng các công trình, phần việc cụ thể. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đạt kết quả cao. Tỷ lệ cử tri huyện Hương Khê tham gia bầu cử đạt 100%. Hương Khê là huyện duy nhất của tỉnh Hà Tĩnh và là một trong số ít các địa phương trong cả nước có tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 100%.
Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXX, Ban chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy tăng cường xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có nhiều đổi mới. Việc tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền và sơ, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, của tỉnh và huyện kịp thời, linh hoạt, phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch bệnh Covid-19, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả. Năm 2022, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành 01 nghị quyết chuyên đề; Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành 11chương trình hành động, 10 chỉ thị, 79 thông báo kết luận và nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện trên các lĩnh vực.
Công tác tổ chức cán bộ, đảng viên có nhiều chuyển biến. Đã chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2020-2025; 2021 - 2026 theo phân cấp quản lý. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý được chú trọng.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng được chú trọng. Huyện ủy kịp thời ban hành và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát năm 2021, năm 2022; chỉ đạo củng cố, kiện toàn Ủy ban kiểm tra cơ sở; tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Năm 2022, cấp ủy các cấp kiểm tra đối với 88 tổ chức đảng, 101 đảng viên; giám sát 76 tổ chức đảng, 98 đảng viên.
Huyện ủy tăng cường lãnh đạo công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị. Chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; tuyên truyền kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện. Thường trực Huyện ủy làm việc chuyên đề với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc. Chỉ đạo tăng cường công tác dân vận chính quyền; tổ chức đối thoại của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân các xã Gia Phố, Hương Thủy, Hương Long về dự án rác thải tập trung của huyện; phát động phong trào thi đua và xây dựng mô hình “dân vận khéo”; thăm hỏi, gặp gỡ các chức sắc, chức việc tôn giáo trên địa bàn huyện. Chỉ đạo tổ chức hoàn thành Đại hội các tổ chức hội cấp cơ sở và huyện nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện tiếp tục triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện chủ trì, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội phát động các phong trào, cuộc vận động góp phần đảm bảo an sinh xã hội; hỗ trợ làm nhà ở cho các đối tượng; giới thiệu và kết nối, tiêu thụ sản phẩm Bưởi Phúc Trạch, Cam Khe Mây trên địa bàn huyện. Vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở ngày càng được phát huy.
Hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền tiếp tục được đổi mới, nâng cao hiệu quả. Thời gian này, huyện đã tổng kết hoạt động Hội đồng nhân dân huyện khóa XX, nhiệm kỳ 2016 - 2021; tổ chức tốt các kỳ họp Hội đồng nhân dân huyện; chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện sau kỳ họp; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền kịp thời giải quyết và trả lời các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp; tổ chức giao ban Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã và nhiều phiên họp thường kỳ của Thường trực Hội đồng nhân dân huyện. Kịp thời ban hành các nghị quyết đảm bảo chất lượng, sát với tình hình thực tế của huyện, nhất là các nghị quyết chuyên đề về hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp, văn hóa, giáo dục...
Ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục tập trung điều hành, tổ chức thực hiện các nghị quyết củacấp ủy, Hội đồng nhân dân cấp trên và cùng cấp, kế hoạch, chương trình công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh; cụ thể hóa và ban hành các văn bản chỉ đạo trên các lĩnh vực. Chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 03-NQ/HU, ngày 30/3/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về tăng cường lãnh đạo công tác cải cách hành chính giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo; thực hiện nghiêm Kết luận số 29-KL/TU, ngày 22/7/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao đạo đức công vụ trong cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nhìn chung, hai năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, huyện Hương Khê đã đạt được những kết quả ban đầu rất quan trọng. Nét nổi bật là sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời và quyết liệt của Thường trực, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành trên tất cả các lĩnh vực nhằm đạt mục tiêu huyện nông thôn mới vào cuối năm 2022. Kết quả đạt được tạo tiền đề cho Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê vươn lên quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXX, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
KẾT LUẬN
Hương Khê là huyện miền núi, biên giới phía Tây của tỉnh Hà Tĩnh, có lịch sử lâu đời trong tiến trình phát triển của dân tộc. Nhân dân Hương Khê có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, phòng chống thiên tai, sống ân tình, thủy chung và có tinh thần dũng cảm kiên cường trong chiến đấu chống xâm lược bảo vệ quê hương, đất nước.
Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cùng với cả nước, Nhân dân Hương Khê đã sớm có phong trào chống ngoại xâm, tiêu biểu là cuộc Khởi nghĩa Hương Khê, đỉnh cao của phong trào cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 - 1896). Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước và cách mạng của Nhân dân huyện có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tư tưởng mới, nhất là là tư tưởng cách mạng vô sản được truyền bá tạo bước ngoặt trong cuộc đấu tranh của Nhân dân, đặt cơ sở cho sự ra đời của tổ chức cộng sản.
Từ các chi bộ cộng sản đầu tiên được ra đời ở Hà Linh - Trúc Lâm, đầu năm 1930, nhiều chi bộ đã lần lượt được thành lập ở huyện, hình thành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hương Khê vào tháng 4/1930. Đến tháng 11/1930, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ nhất được tổ chức, đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ đầu tiên. Sự ra đời của Đảng bộ Hương Khê là bước ngoặt của phong trào cách mạng Hương Khê, mở đầu cho một quá trình phát triển mới, sôi nổi và vẻ vang của Đảng bộ và Nhân dân trong huyện.
Ngay sau khi ra đời, Đảng bộ Hương Khê đã phát động và lãnh đạo cao trào cách mạng sôi nổi, sâu rộng, quyết liệt, chống đế quốc, phong kiến kéo dài trong hai năm 1930 - 1931. Nhân dân Hương Khê đã phá sập chính quyền địch ở nhiều làng xã, thực hiện quyền làm chủ của mình, lập nên các làng xã theo mô hình Xô viết ở Nga. Chính quyền Xô viết ở Hương Khê là chính quyền cách mạng của Nhân dân do các chi bộ Đảng địa phương lãnh đạo, đã đưa lại nhiều lợi ích cho quần chúng, thể hiện tinh thần cách mạng và mong ước đi tới một xã hội tốt đẹp, xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy đã bị kẻ địch dùng vũ lực xoá bỏ, song cao trào cách mạng 1930 - 1931 và các làng Xô viết là niềm tự hào của Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê. Với sự kiện này, phong trào cách mạng Hương Khê nhanh chóng hòa nhịp với cao trào cách mạng chung của toàn tỉnh Hà Tĩnh và cả nước. Trải qua thời kỳ thoái trào cách mạng 1932 - 1935, trong những năm 1936 - 1939, phong trào đấu tranh dân chủ ở Hương Khê đã đạt được một số thành quả quan trọng, nhất là nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, tạo nên các hình thức đấu tranh, hình thức tổ chức phong phú công khai, bán công khai...
Trong những năm 1939 - 1945, cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Hương Khê đã từng bước được phát triển và hòa nhịp với cuộc đấu tranh chung của cả nước. Với nòng cốt lãnh đạo là chi bộ Trúc Lâm, Hà Linh, đến cuối năm 1944, phong trào Mặt trận Việt Minh đã lớn mạnh ở Hương Khê và đến tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã tiếp tục chuẩn bị các điều kiện cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 19/8/1945, với cuộc tổng mít tinh, biểu tình của hàng ngàn người do Ủy ban khởi nghĩa huyện tổ chức, tập trung tại khu vực Địa Lợi (hạ huyện) và Thượng Thạch (thượng huyện) đã giành chính quyền về tay Nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thắng lợi ở Hương Khê nhanh gọn, không đổ máu. Ngày 21/8/1945, Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê chính thức ra mắt Nhân dân tại huyện lỵ Chu Lễ trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng đã kết thúc trọn vẹn của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hương Khê, khai sinh chế độ mới, mở ra kỷ nguyên phát triển rực rỡ cho Hương Khê, kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ Nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, trong vô vàn khó khăn, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân bắt tay vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Chỉ trong hơn một năm (9/1945 - 12/1946), bằng nhiều nỗ lực, Đảng bộ Hương Khê đã khôi phục được hệ thống tổ chức rộng khắp, mở được Đại hội Đảng bộ, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng được xây dựng và củng cố, đời sống Nhân dân cả về vật chất, tinh thần được ổn định...
Từ năm 1946 đến năm 1954, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm kháng chiến gian khổ đó, thực hiện đường lối chiến tranh Nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy IV và của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đảng bộ Hương Khê đã chỉ đạo, tổ chức quân dân tiến hành thắng lợi công cuộc kháng chiến kiến quốc, làm cho Hương Khê trở thành căn cứ địa, hậu phương vững mạnh của vùng tự do, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Một chế độ mới, chế độ dân chủ Nhân dân đã hình thành trên quê hương Hương Khê với chế độ chính trị, xã hội ưu việt, kinh tế, văn hoá khá phát triển, quan hệ Nhân dân tốt đẹp với nhiều phong trào quần chúng sôi nổi trong xây dựng và bảo vệ địa phương, chi viện tiền tuyến. Thành công nổi bật của Hương Khê thời kỳ này là đã cung cấp lượng lớn sức người, sức của cho ba chiến trường: Bình - Trị - Thiên ở phía nam, Trung Lào ở phía tây và chiến trường Bắc Bộ. Đảng bộ và quân dân Hương Khê đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung cuộc kháng chiến của dân tộc.
Trong những năm 1954 - 1965, Đảng bộ và quân dân Hương Khê ra sức khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều kết quả quan trọng: hoàn thành cải cách ruộng đất, thiết lập vững chắc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng thắng lợi của phong trào hợp tác hóa, hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước hàng năm và kế hoạch 5 năm. Trong những năm 1965-1975, Đảng bộ huyện Hương Khê lãnh đạo quân dân vừa xây dựng hậu phương, vừa chi viện tiền tuyến, đặc biệt phải trực tiếp chống lại đế quốc Mỹ. Thời kỳ này, Hương Khê là một trọng điểm bị đánh phá, không quân Mỹ không chỉ nhằm vào các mục tiêu quân sự, chúng còn đánh phá vào các khu dân sự, đình, chùa, nhà thờ, trường học, bệnh viện, công trình thủy lợi, nhất là vào các tuyến đường giao thông. Hành động chiến tranh điên cuồng của địch đã gây cho Hương Khê nhiều thiệt hại to lớn về người và của, điển hình là tội ác trong trận ném bom Trường cấp II xã Hương Phúc vào ngày 9/2/1966. Đảng bộ Hương Khê đã phát động, tổ chức cuộc chiến tranh Nhân dân chống chiến tranh phá hoại trên địa bàn huyện. Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân Hương Khê ngoan cường chiến đấu và lập được nhiều thành tích xuất sắc. Trong chiến đấu và phối hợp chiến đấu, quân dân Hương Khê đã bắn rơi 46 máy bay Mỹ, trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 9 chiếc, bắt sống 11 giặc lái. Hình ảnh “O du kích nhỏ giương cao súng; thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu” mãi mãi là niềm tự hào của quân dân Hương Khê và của cả dân tộc Việt Nam thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng bộ, quân dân Hương Khê tự hào là nơi bắn rơi máy bay trực thăng Mỹ đầu tiên ở miền Bắc, nơi bắn rơi máy bay cánh cụp, cánh xoè F.111 của Mỹ ở miền Bắc, nơi chỉ 2 viên đạn súng bộ binh hạ gục một máy bay hiện đại của Mỹ, nơi lập kỷ lục ở miền Bắc - bắt sống 6 giặc lái Mỹ trong một trận đánh...
Trong mưa bom bão đạn, Nhân dân vẫn thi đua lao động sản xuất, học tập và công tác. Mỗi người dân thực sự là một chiến sỹ trên mặt trận chiến đấu chống kẻ thù, xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến. Quân dân Hương Khê đã ra sức sản xuất, cơ bản duy trì sản lượng lương thực, bảo đảm đời sống Nhân dân và đóng góp một phần thực phẩm, lương thực cho bộ đội, dân công hoạt động trên địa bàn. Hương Khê đã trở thành nơi đóng quân của nhiều đơn vị, cơ quan, bệnh viện, kho tàng của quân đội, là nơi trung chuyển quân đội, vũ khí, lương thực, thực phẩm của hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam và sang Lào. Không chỉ làm nhiệm vụ căn cứ địa, Hương Khê còn có 6.500 thanh niên nhập ngũ, 9.700 người đi Thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến dài hạn. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nhân dân Hương Khê đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, người ra đi chiến đấu thì xông pha, anh dũng, người ở lại thì kiên cường, đảm đang. Tất cả cùng đồng sức đồng lòng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, cho thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, theo đường lối của Đảng, cùng với cả nước, Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân trong huyện sôi nổi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế mới. Trong những năm 1975 - 1985, Đảng bộ Hương Khê đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh sản xuất củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục, văn hóa, y tế... Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung chậm đổi mới, đồng thời cũng do hậu quả chiến tranh và thiên tai nặng nề nên trong giai đoạn này tình hình kinh tế, xã hội Hương Khê phát triển chậm, có mặt sa sút và lâm dần vào cuộc khủng hoảng chung.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Hương Khê đã từng bước đổi mới tư duy, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo làm thay đổi cách nghĩ, cách làm, chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế mới. Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo Nhân dân làm nên một cuộc đổi mới toàn diện và căn bản. Sau gần 40 năm phấn đấu, công cuộc đổi mới ở Hương Khê đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, bộ mặt nông thôn mới thay đổi nhanh, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững, tổ chức Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Cùng với đó là những thành tựu trong chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Là huyện miền núi nhiều khó khăn, nhưng đến năm 2022 huyện có 18/20 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 3 xã nông thôn mới nâng cao và 01 xã thôn mới kiểu mẫu. Nhiều khu dân cư mẫu trở thành điểm tham quan, học tập của các địa phương trong và ngoài tỉnh, thu hút nhiều du khách đến tham quan, trải nghiệm.
Sự lãnh đạo của Đảng bộ Hương Khê trong hơn 90 năm qua không những đã có vai trò quyết định tới sự thay đổi sâu sắc, tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện Hương Khê mà từ những thành công và chưa thành công còn để lại nhiều kinh nghiệm quý báu. Có thể nêu lên một số kinh nghiệm chính, xuyên suốt quá trình lịch sử của Đảng bộ 90 năm qua:
Thứ nhất: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cách mạng, do đó phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng bộ luôn vững mạnh, có chủ trương, biện pháp đấu tranh, công tác đúng, phù hợp với địa phương trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Tuyệt đối trung thành và kiên định niềm tin vào mục tiêu lý tưởng của Đảng, vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và truyền thông yêu quê hương đất nước của Nhân dân, phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, của tỉnh và tình hình đặc điểm địa phương.
Phải tăng cường đoàn kết, thực hành dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, bảo đảm cho chủ trương, mục tiêu, biện pháp của Đảng bộ vừa đúng với đường lối, quan điểm chung của cấp trên vừa phải sát hợp với thực tế của huyện, thường xuyên khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ và nóng vội chủ quan, đề phòng khuynh hướng vừa “tả” vừa hữu khuynh.
Thứ hai: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, mục tiêu cho cách mạng, nhưng thực hiện đường lối, chủ trương, mục tiêu đó là quần chúng, vì vậy phải làm tốt công tác vận động quần chúng, làm cho mối liên hệ giữa Đảng bộ với Nhân dân không ngừng được củng cố và ngày càng bền vững.
Phải tin dân, tôn trọng dân, dựa vào dân, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tạo cho được phong trào cách mạng của quần chúng và các cuộc thi đua yêu nước liên tục, đồng đều, toàn diện, có hiệu quả. Đây là kinh nghiệm được nhận thức và thể hiện xuyên suốt lịch sử Đảng bộ Hương Khê cả lúc Đảng hoạt động bí mật cũng như lúc đã cầm quyền.
Chính nhờ Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp phù hợp và làm tốt công tác vận động quần chúng, dựa chắc vào Nhân dân lao động, phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, cần cù, sáng tạo, hiếu học của Nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” mà Đảng bộ Hương Khê đã vượt qua được khó khăn, lãnh đạo Nhân dân giành được những thắng lợi như vừa qua.
Thứ ba: Chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, là công cụ cực kỳ quan trọng để thực hiện đường lối của Đảng, ý chí của Nhân dân, vì vậy phải luôn luôn quan tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo vệ chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của nhà nước, vận dụng đúng đắn vào thực tế để tập hợp mọi lực lượng nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền. Đồng thời, để xây dựng chính quyền vững mạnh, có hiệu lực, phải tiến hành đồng bộ, trong mối liên hệ biện chứng với cả hệ thống chính trị.
Kết hợp xây dựng, bảo vệ chính quyền với xây dựng, củng cố Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như: Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ,... vững mạnh, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, công an nhân dân, các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Chú trọng công tác tư tưởng và công tác cán bộ, đổi mới lề lối và phong cách làm việc cho phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng.
Thứ tư: Trong lịch sử của mình, trước ngày có Đảng cũng như từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hương Khê luôn luôn là một vùng căn cứ địa, hậu phương, do đó Đảng bộ phải thường xuyên nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, chú ý kết hợp kinh tế với quốc phòng, huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân.
Việc các bậc tiền nhân chọn Hương Khê làm căn cứ địa, hậu phương không phải là ngẫu nhiên, mà xuất phát từ vị trí chiến lược đặc biệt của địa bàn này, nơi có “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đảng bộ Hương Khê cần tiếp tục nhận thức đầy đủ và sâu sắc lợi thế để phát huy vị thế của địa phương, cũng như thấy rõ nguyên nhân của những khó khăn, yếu kém về kinh tế để thường xuyên chú ý kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, ra sức huy động và bồi dưỡng sức dân phải luôn được kết hợp biện chứng vơi nhau.
Tthường xuyên giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng và những đức tính tốt đẹp của con người Hương Khê, lịch sử vẻ vang của Đảng bộ và quân dân toàn huyện cũng như mỗi địa phương để thế hệ trẻ nhận thức được thuận lợi, khó khăn của huyện, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, phát huy khí thế anh hùng trong chiến tranh vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương thời gian tới.
Thứ năm: Hương Khê là một huyện nghèo, nên xóa đói, giảm nghèo, đi tới giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là quyết tâm chính trị của Đảng bộ và Nhân dân, vì vậy Đảng bộ phải coi đó vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vừa là nhiệm vụ trung tâm, cấp bách.
Đảng bộ phải coi việc chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, tiến tới giàu mạnh, văn minh là mục đích, bổn phận và vinh dự của mình. Muốn vậy, Đảng bộ phải đổi mới toàn diện sự lãnh đạo, tìm ra các biện pháp đúng đắn để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng, phát huy tối đa lợi thế, hạn chế thấp nhất khó khăn, nhược điểm của con người, đất đai, địa thế Hương Khê trong bối cảnh, điều kiện mới.
Phải phát huy nội lực, tăng cường sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương, các ngành, đơn vị trong huyện đi đôi với tranh thủ tối đa ngoại lực, sự hợp tác, đầu tư và giúp đỡ của tỉnh, của Trung ương và quốc tế, nhằm phát triển kinh tế, xã hội với tốc độ ngày càng cao trên cơ sở phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương.
Thứ sáu: Chủ đọng, sáng tạo trong việc tìm các hình thức, giải pháp phù hợp để phát huy tối đa nguồn lực tại chỗ, khai thác mọi tiềm năng và lợi thế của địa phương.
Nhờ thấy rõ tiềm năng về thổ nhưỡng, thủy văn mà Đảng bộ Hương Khê đã lựa chọn hướng đi phù hợp để phát huy các lợi thế. Mỗi một hướng đi mới, cách làm mới là mỗi lần Đảng bộ tìm tòi, điều chỉnh sự lãnh đạo, chỉ đạo nhằm xây dựng mô hình phù hợp và hiệu quả nhất. Trong đó, nguồn lực tự nhiên là yếu tố trước hết và phải được khai thác hợp lý, làm cho mỗi tấc đất, mỗi mảnh vườn, mỗi trang trại đều tạo ra các giá trị sản phẩm hàng hóa ngày càng cao. Nguồn lực con người, trong đó truyền thống cần cù, sáng tạo là thế mạnh luôn được Đảng bộ các thời kỳ hết sức coi trọng, phát huy. Đây lại là nguồn lực vô hạn, càng phát huy càng5 được bồi đắp, nâng cao giá trị, đảm bảo sự phát triển bền vững cho tương lai. Phát huy được các nguồn lực tại chỗ, nhất là nhân tố con người đã tạo ra các động lực nội sinh đưa Hương Khê vượt qua những khó khăn thường niên của lũ lụt, tạo nên đột phá mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê suốt 90 năm qua (1930 - 2020) là lịch sử của cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, gian khổ và hết sức vẻ vang. Trong chặng đường 90 năm đó, mặc dù phải chịu những tổn thất hy sinh, có lúc sai lầm vấp váp, song cơ bản là chặng đường phát triển liên tục với nhiều bước ngoặt mang tính đột phá. Trên con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ, Nhân dân Hương Khê luôn tưởng nhớ công sức, xương máu, mồ hôi, trí tuệ của bao thế hệ cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã anh dũng ngã xuống, đã kế tiếp nhau xây đắp nên sự nghiệp hôm nay. Những công sức và kinh nghiệm của các thế hệ đã qua mãi mãi là nguồn sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn đối với Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê trong thời kỳ mới.
Phát huy truyền thống tốt đẹp và niềm tự hào cao quý của huyện Anh hùng, dưới sự lãnh đạo, giúp đỡ của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đảng bộ Hương Khê nhất định sẽ lãnh đạo Nhân dân hoàn thành thắng lợi những mục tiêu kinh tế, xã hội mà Đại hội lần thứ XXX của Đảng bộ đã đề ra, đưa Hương Khê trở thành huyện nông thôn mới, giàu về kinh tế, đẹp về cảnh quan, bền vững về văn hoá - xã hội, mạnh về quốc phòng, an ninh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
PHỤ LỤC
I. CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ VÀ DANH SÁCH HUYỆN ỦY VIÊN[150]
1. ĐẠI HỘI I
Thời gian họp: Ngày 20/11/1930
Nơi họp: Trúc Lâm (Hương Thanh - Hà Linh)
Ban Chấp hành: 7 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Mai Phì
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hương Long
|
2
|
Thái Đình Hàn
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) - Vũ Quang
|
3
|
Mai Minh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
4
|
Phạm Quang Nậm
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
5
|
Nguyễn Quốc Nhiếp
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
6
|
Trần Suất
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
7
|
*
|
Huyện ủy viên
|
*
|
2. ĐẠI HỘI II
Thời gian họp: Ngày 20/12/1945[151]
Nơi họp: Thị trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ)
Ban Chấp hành: 11 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Tuy
|
TUV, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ - Vũ Quang)
|
2
|
Phan Dỵ
|
Phó Bí thư Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
3
|
Nguyễn Bính
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
*
|
4
|
Nguyễn Văn Sáng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
5
|
Phạm Quang Thu
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính
|
Hương Thủy
|
6
|
Thái Đình Hàn
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) - Vũ Quang
|
7
|
Ngô Lập
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
8
|
Mai Minh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
9
|
Đặng Bá Phụng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thuỷ
|
10
|
Dương Phương
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
11
|
Trần Suất
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
3. ĐẠI HỘI III
Thời gian họp: Ngày 25/02/1947
Nơi họp: Thị trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ)
Ban Chấp hành: 9 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Văn Sáng
|
Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính
|
Hà Linh
|
2
|
Nguyễn Triêm
|
Phó Bí thư Huyện ủy
|
Hà Linh
|
3
|
Lê Hữu Tụy
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
4
|
Dương Đình Cán
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
5
|
Vũ Trọng Côn
|
Huyện ủy viên
|
*
|
6
|
Đồng chí Liễu
|
Huyện ủy viên
|
*
|
7
|
Mai Minh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
8
|
Đồng chí Ngân
|
Huyện ủy viên
|
*
|
9
|
Lưu Văn Xân
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
4. ĐẠI HỘI IV
Thời gian họp: Ngày 10/01/1948
Nơi họp: Vĩnh Hương (Hương Châu)
Ban Chấp hành: 17 đồng chí (cả bổ sung)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Triêm
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hà Linh
|
2
|
Lê Hữu Tụy
|
Phó Bí thư Huyện ủy
|
Hương Thuỷ
|
3
|
Nguyễn Văn Sáng
|
Ủy viên BTV, Chủ tịch Ủy ban Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
4
|
Dương Đức Cơ
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
5
|
Lưu Văn Xân
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Bình
|
6
|
Dương Đình Cán
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
7
|
Vũ Trọng Côn
|
Huyện ủy viên
|
*
|
8
|
Võ Hiệp Cũng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
9
|
Đặng Đạo
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
10
|
Lê Đức
|
Huyện ủy viên
|
*
|
11
|
Mai Minh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
12
|
Hà Văn Nghị
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
13
|
Nguyễn Tư Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
14
|
Trần Đình Oanh
|
Huyện ủy viên
|
*
|
15
|
Trần Đình Phù
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
16
|
Mai Xuân Quế
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
17
|
Lê Danh Thành
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
5. ĐẠI HỘI V
Thời gian họp: Ngày 06/01/1949
Nơi họp: Tân Hương (Hương Bình)
Ban Chấp hành: 15 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Triêm
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hà Linh
|
2
|
Dương Đức Cơ
|
Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Phúc Trạch
|
3
|
Mai Minh
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Long
|
4
|
Hà Văn Nghị
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
5
|
Ngô Quốc Văn
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
6
|
Đồng chí Châu
|
Huyện ủy viên
|
*
|
7
|
Nguyễn Văn Chữ
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
8
|
Võ Hiệp Cũng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
9
|
Đặng Đạo
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
10
|
Lê Đức
|
Huyện ủy viên
|
*
|
11
|
Nguyễn Đình Niêm
|
Huyện ủy viên
|
*
|
12
|
Trần Đình Oanh
|
Huyện ủy viên
|
*
|
13
|
Võ Văn Quang
|
Huyện ủy viên
|
*
|
14
|
Mai Xuân Quế
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
15
|
Phan Thương
|
Huyện ủy viên
|
*
|
6. ĐẠI HỘI VI
Thời gian họp: Ngày 15/5/1950
Nơi họp: Xã Phú Phong
Ban Chấp hành: 15 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Hà Văn Nghị
|
Bí thư Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
2
|
Dương Đức Cơ
|
Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Phúc Trạch
|
3
|
Nguyễn Văn Cung
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Quang Thọ (Hương Thọ) - Vũ Quang
|
4
|
Hồ Sỹ Định
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
5
|
Phan Kha
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
6
|
Ngô Xuân Áng
|
Huyện ủy viên
|
Điền Mỹ
|
7
|
Đoàn Đào
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
8
|
Phan Du
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
9
|
Nguyễn Kim Hạp
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
10
|
Phạm Quang Nậm
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
11
|
Nguyễn Tư Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
12
|
Nguyễn Tú
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
13
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
14
|
*
|
Huyện ủy viên
|
*
|
15
|
*
|
Huyện Ủy viên
|
*
|
7. ĐẠI HỘI VII
Thời gian họp: Ngày 15/7/1951
Nơi họp: Tân Hương (Hương Bình)
Ban Chấp hành: 24 đồng chí (cả bổ sung)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Hà Văn Nghị
|
Bí thư Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
2
|
Ngô Xuân Áng
|
Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Điền Mỹ
|
3
|
Nguyễn Văn Cung
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ) - Vũ Quang
|
4
|
Hồ Sỹ Định
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
5
|
Trần Đình Hậu
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
6
|
Phan Kha
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
7
|
Hoàng Mỹ1
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
8
|
Nguyễn Văn Tư
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Lộc Yên
|
9
|
Lê Xuân Bính
|
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Bình
|
10
|
Đoàn Đào
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
11
|
Phan Du
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
12
|
Nguyễn Kim Dự
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
13
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
14
|
Nguyễn Đình Hạnh
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
15
|
Đặng Mạnh
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
16
|
Mai Minh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
17
|
Phan Nguyên
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
18
|
Nguyễn Niệm
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
19
|
Trần Suất
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
20
|
Lê Đình Sửu
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
21
|
Trần Đức Thắng
|
Huyện ủy viên
|
*
|
22
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
23
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
24
|
Hồ Sỹ Tương
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
BAN CHẤP HÀNG ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH
(Tháng 7/1956 đến tháng 11/1956)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Trần Đình Hậu
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hà Linh
|
2
|
Nguyễn Tú
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
3
|
Hồ Sỹ Định
|
Ủy viên BTV, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính (1956 - 1959)
|
Hà Linh
|
4
|
Đặng Minh Lương
|
Ủy viên BTV, quyền Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính (1956)
|
Gia Phố
|
5
|
Nguyễn Kim Hồ
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
6
|
Hoàng Mỹ
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Thủy
|
7
|
Nguyễn Tư
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Lộc Yên
|
8
|
Hồ Sỹ Tương
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
9
|
Hồ Sỹ Đăng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
10
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
11
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
12
|
Phan Đình Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
13
|
Nguyễn Lự
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
14
|
Nguyễn Mạnh
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
15
|
Ngô Xuân Sáng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
16
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
8. ĐẠI HỘI VIII (HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU)
Thời gian họp: Tháng 9/1959
Nơi họp: Xã Gia Phố
Ban Chấp hành: 19 đồng chí (cả dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Trần Đình Hậu
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hà Linh
|
2
|
Hoàng Mỹ
|
Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Thủy
|
3
|
Hồ Sỹ Đăng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
4
|
Lê Hữu Kính
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Xuân
|
5
|
Đặng Minh Lương
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
6
|
Bùi Đình Quang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Bùi La Giang
(Đức Bùi - Đức Thọ)
|
7
|
Nguyễn Tú
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
8
|
Nguyễn Tư
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Lộc Yên
|
9
|
Trần Đình
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
10
|
Phan Đức
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
11
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
13
|
Phan Đình Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
14
|
Nguyễn Kim Hồ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
15
|
Nguyễn Lự
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
16
|
Nguyễn Thái
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
17
|
*
|
*
|
*
|
18
|
*
|
*
|
*
|
19
|
*
|
*
|
*
|
9. ĐẠI HỘI IX
Thời gian họp: Tháng 2/1960
Nơi họp: Thị trấn Chu Lễ
Ban Chấp hành: 23 đồng chí (cả Ủy viên dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Văn Cung
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ -Vũ Quang)
|
2
|
Nguyễn Tú
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
3
|
Hoàng Mỹ[152]
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Thủy
|
4
|
Nguyễn Kim Hồ
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
5
|
Lê Hữu Kính
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Xuân
|
6
|
Nguyễn Lự
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Đô
|
7
|
Bùi Đình Quang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Bùi La Nhân (Đức Bùi) - Đức Thọ
|
8
|
Đặng Minh Lương
|
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
9
|
Nguyễn Đào
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
10
|
Phan Đức
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
11
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
13
|
Nguyễn Thị Liễu
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
14
|
Lê Vạn Lộc
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
15
|
Lê Hữu Lục
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
16
|
Đặng Mạnh
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
17
|
Phan Nguyên
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
18
|
Cao Phương
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
19
|
Biện Quỳnh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
20
|
Phan Văn Thành
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
21
|
Nguyễn Thị Thuận
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
22
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
23
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
10. ĐẠI HỘI X
Thời gian họp: Tháng 3/1962
Nơi họp: Thị trấn Chu Lễ
Ban Chấp hành: 28 đồng chí (cả dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Văn Cung
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Tú
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
3
|
Lê Hữu Kính
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Xuân
|
4
|
Lê Công Ba
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
*
|
5
|
Nguyễn Đình Dưỡng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
6
|
Nguyễn Kim Hồ
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
7
|
Cao Phượng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Trạch
|
8
|
Bùi Đình Quang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Bùi La Nhân (Đức Bùi) - Đức Thọ
|
9
|
Phan Văn Thành
|
Ủy viên BTV, Thường trực Đảng
|
Hương Thủy
|
10
|
Đặng Minh Lương
|
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
11
|
Phạm Triện
|
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
12
|
Phan Đức
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
13
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
14
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
15
|
Nguyễn Văn Dy
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
16
|
Đặng Đình Lai
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
17
|
Lê Vạn Lộc
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
18
|
Lê Hữu Lục
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
19
|
Trần Đình Minh
|
Huyện ủy viên
|
Phú Gia
|
20
|
Phan Nguyên
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
21
|
Ngô Đăng Nhiệu
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
22
|
Biện Quỳnh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
23
|
Phan Huy Suyền
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
24
|
Đặng Tám
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
25
|
Mai Thơi
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
26
|
Nguyễn Trường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh
|
27
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
28
|
Bùi Việt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
11. ĐẠI HỘI XI
Thời gian họp: Tháng 7/1963
Nơi họp: Thị trấn Chu Lễ
Ban Chấp hành: 21 đồng chí (cả dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Tú
|
Bí thư Huyện ủy
|
Phúc Trạch
|
2
|
Phan Văn Thành
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
3
|
Đặng Minh Lương
|
Ủy viên BTV, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
4
|
Nguyễn Đình Dưỡng
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
5
|
Đoàn Khắc Kiên
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Long
|
6
|
Võ Lan
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Can Lộc
|
7
|
Bùi Đình Quang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Bùi La Nhân (Đức Bùi) - Đức Thọ
|
8
|
Lê Đăng Trang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hòa Hải
|
9
|
Phạm Triện
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
10
|
Đặng Dụ
|
Huyện Ủy viên
|
Hà Linh
|
11
|
Phan Thị Đường
|
Huyện Ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Đinh Duyệt
|
Huyện Ủy viên
|
Hương Trạch
|
13
|
Nguyễn Kim Hồ
|
Huyện Ủy viên
|
Hương Thủy
|
14
|
Đặng Đình Lai
|
Huyện Ủy viên
|
Phúc Đồng
|
15
|
Trần Đình Minh
|
Huyện Ủy viên
|
Phú Gia
|
16
|
Ngô Đăng Nhiệu
|
Huyện Ủy viên
|
Phúc Đồng
|
17
|
Cao Phượng
|
Huyện Ủy viên
|
Hương Trạch
|
18
|
Biện Quỳnh
|
Huyện Ủy viên
|
Hương Đô
|
19
|
Phan Huy Suyền
|
Huyện Ủy viên
|
Hương Long
|
20
|
Nguyễn Trung
|
Huyện Ủy viên
|
Hòa Hải
|
21
|
Trần Tùng
|
Huyện Ủy viên
|
Hà Linh
|
12. ĐẠI HỘI XII
Thời gian họp: Tháng 3/1965
Nơi họp: Xã Hương Phố (Gia Phố)
Ban Chấp hành: 23 đồng chí (cả dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Đặng Tỵ
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Gia Phố
|
2
|
Lê Hữu Kính
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Xuân
|
3
|
Đặng Minh Lương
|
Ủy viên BTV, Thường trực Đảng
|
Gia Phố
|
4
|
Phan Văn Thành
|
Ủy viên BTV, Thường trực Đảng
|
Hương Thủy
|
5
|
Nguyễn Đình Dưỡng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
6
|
Võ Lan
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Can Lộc
|
7
|
Bùi Đình Quang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Bùi La Nhân (Đức Bùi) - Đức Thọ
|
8
|
Lê Đăng Trang
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hòa Hải
|
9
|
Phạm Triện
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Gia Phố
|
10
|
Phan Xuân Bằng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
11
|
Nguyễn Cung
|
Huyện ủy viên
|
Thị trấn Vũ Quang
|
12
|
Phan Văn Đệ
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
13
|
Đặng Dụ
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
14
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
15
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
16
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
17
|
Đặng Đình Lai
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
18
|
Nguyễn Lự
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
19
|
Ngô Đăng Nhiệu
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
20
|
Biện Quỳnh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
21
|
Phan Huy Suyền
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
22
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
23
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
13. ĐẠI HỘI XIII
Thời gian họp: Tháng 3/1967
Nơi họp: Xã Hương Bình
Ban Chấp hành: 25 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Đặng Tỵ
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Gia Phố
|
2
|
Lê Hữu Kính
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Xuân
|
3
|
Trần Khoa
|
Ủy viên BTV, Thường trực Đảng
|
Phúc Đồng
|
4
|
Phan Văn Đệ
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
5
|
Nguyễn Đình Dưỡng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hà Linh
|
6
|
Võ Lan
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Can Lộc
|
7
|
Nguyễn Văn Miên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Gia Phố
|
8
|
Phạm Triện
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Gia Phố
|
9
|
Đặng Dụ
|
Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
10
|
Phan Xuân Bằng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
11
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Đinh Duyệt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
13
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
14
|
Đặng Đình Lai
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
15
|
Trần Lan
|
Huyện ủy viên
|
Lộc Yên
|
16
|
Nguyễn Thị Liễu
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
17
|
Lê Hữu Lục
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
18
|
Trịnh Lưu
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
19
|
Bạch Thị Mai
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
20
|
Phan Nhâm
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
21
|
Phan Tám
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
22
|
Nguyễn Thị Thìn
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
23
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
24
|
Trần Tùng
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
25
|
Bùi Việt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
14. ĐẠI HỘI XIV
Thời gian họp: Ngày 19/12/1969
Nơi họp: Xã Hương Bình
Ban Chấp hành: 21 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Đặng Tỵ
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Gia Phố
|
2
|
Đinh Duyệt
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Trạch
|
3
|
Lê Hữu Kính
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Xuân
|
4
|
Phan Xuân Bằng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Trạch
|
5
|
Phan Văn Đệ
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
6
|
Trần Khoa
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Phúc Đồng
|
7
|
Đặng Đình Lai
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
8
|
Nguyễn Thị Liễu
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
9
|
Nguyễn Văn Miên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Gia Phố
|
10
|
Đặng Dụ
|
Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
11
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Trần Đường
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Hương Sơn
|
13
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
14
|
Trần Lan
|
Huyện ủy viên
|
Lộc Yên
|
15
|
Lê Thị Long
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
16
|
Trịnh Lưu
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
17
|
Lê Hữu Thành
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
18
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
19
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
20
|
Bùi Việt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
21
|
*
|
Huyện ủy viên
|
*
|
15. ĐẠI HỘI XV
Thời gian họp: Ngày 16/10/1971
Nơi họp: Xã Hương Bình
Ban Chấp hành: 19 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Văn Cung
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Trần Khoa
|
Ủy viên BTV, Thường trực Đảng
|
Phúc Đồng
|
3
|
Phan Văn Đệ
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
4
|
Phan Xuân Bằng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Trạch
|
5
|
Đặng Dụ
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
6
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
7
|
Đinh Duyệt
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Trạch
|
8
|
Nguyễn Văn Miên
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
9
|
Nguyễn Thị Liễu
|
Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
10
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
11
|
Trần Hữu Gia
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
13
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
14
|
Trần Thị Long
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
15
|
Hà Minh
|
Huyện ủy viên
|
Phú Gia
|
16
|
Lê Hữu Thành
|
Huyện ủy viên
|
Huơng Xuân
|
17
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
18
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
19
|
Bùi Việt
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
16. ĐẠI HỘI XVI
Thời gian họp: Tháng 12/1973
Nơi họp: Xã Hương Bình
Ban Chấp hành: 21 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Văn Cung
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Đinh Duyệt
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Trạch
|
3
|
Phan Văn Đệ
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
4
|
Phan Xuân Bằng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Trạch
|
5
|
Đăng Dụ
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hà Linh
|
6
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
7
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Giang
|
8
|
Trần Khoa
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Phúc Đồng
|
9
|
Nguyễn Văn Miên
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Gia Phố
|
10
|
Phan Thị Đường
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
11
|
Trần Hữu Gia
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
13
|
Nguyễn Thị Liễu
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
14
|
Trịnh Lưu
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
15
|
Phan Văn Quý
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Hương Sơn
|
16
|
Lê Hữu Thành
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
17
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
18
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
19
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
20
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
21
|
Trần Văn Yên
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
17. ĐẠI HỘI XVII
Thời gian họp: Tháng 8/1975
Nơi họp: Xã Phú Phong (Trường Đảng huyện)
Ban Chấp hành: 29 đồng chí (có 02 ủy viên dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Văn Đệ
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Giang
|
3
|
Phan Xuân Bằng
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Trạch
|
4
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
5
|
Trần Hữu Gia
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
6
|
Trần Khoa
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Phúc Đồng
|
7
|
Trịnh Lưu
|
Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính
|
Hương Xuân
|
8
|
Phan Văn Quý
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương sơn
|
9
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
10
|
Trần Văn Chính
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
11
|
Phan Đức Cung
|
Huyện ủy viên
|
Thị trấn Vũ Quang
|
12
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
13
|
Nguyễn Thị Hồng
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
14
|
Nguyễn Thị Minh
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
15
|
Nguyễn Văn Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
16
|
Phan Văn Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
17
|
Lê Thị Nhỏ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
18
|
Đào Thị Oanh
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
19
|
Phan Văn Quán
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
20
|
Nguyễn Hữu Tạo
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
21
|
Nguyễn Thị Thìn
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh
|
22
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
23
|
Phan Văn Tích
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
24
|
Phạm Triện
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
25
|
Lê Văn Trọng
|
Huyện ủy viên
|
Phú Gia
|
26
|
Dương Trường
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
27
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
28
|
Đặng Hữu Ước
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
29
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
18. ĐẠI HỘI XVIII
Thời gian họp: Tháng 5/1976
Nơi họp: Xã Phú Phong (Trường Đảng huyện)
Ban Chấp hành: 33 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Văn Đệ
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Giang
|
3
|
Phan Xuân Bằng
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Trạch
|
4
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
5
|
Trần Hữu Gia
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
6
|
Trần Khoa
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
7
|
Trịnh Lưu
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Xuân
|
8
|
Phan Văn Quý
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
9
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
10
|
Trần Văn Chính
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
11
|
Phan Đức Cung
|
Huyện ủy viên
|
Thị trấn Vũ Quang
|
12
|
Đặng Đào
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
13
|
Mai Hanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
14
|
Nguyễn Thị Hồng
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
15
|
Lương Viết Khanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
16
|
Nguyễn Thị Minh
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
17
|
Phan Văn Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
18
|
Lê Thị Nhỏ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
19
|
Cao Xuân Niêm
|
Huyện ủy viên
|
Nghi Lộc, Nghệ An
|
20
|
Đào Thị Oanh
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
21
|
Phan Văn Quán
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
22
|
Nguyễn Hữu Tạo
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
23
|
Nguyễn Thị Thìn
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
24
|
Lê Khắc Thường
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Đức Thọ
|
25
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
26
|
Phan Văn Tích
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
27
|
Từ Toàn
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
28
|
Lê Văn Trọng
|
Huyện ủy viên
|
Phú Gia
|
29
|
Dương Trường
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
30
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
31
|
Đặng Hữu Ước
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
32
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
33
|
*
|
Huyện ủy viên
|
*
|
19. ĐẠI HỘI XIX
Thời gian họp: Ngày 28/5/1977
Nơi họp: Xã Phú Phong
Ban Chấp hành: 29 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Văn Đệ
|
Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Giang
|
3
|
Phan Xuân Bằng
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Trạch
|
4
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
5
|
Trần Hữu Gia
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
6
|
Trần Khoa
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
7
|
Trịnh Lưu
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Xuân
|
8
|
Phan Văn Tích
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
9
|
Lê Văn Trọng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phú Gia
|
10
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
11
|
Trần Đình Bảy
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
12
|
Phạm Thị Bích
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
13
|
Trần Văn Chính
|
Huyện ủy viên
|
Hương Đô
|
14
|
Nguyễn Văn Chung
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
15
|
Phan Đức Cung
|
Huyện ủy viên
|
Thị trấn Vũ Quang
|
16
|
Đặng Đào
|
Huyện ủy viên
|
Hà Linh
|
17
|
Nguyễn Thị Hồng
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
18
|
Lương Viết Khanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
19
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
20
|
Lê Thị Nhỏ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
21
|
Cao Xuân Niêm
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Nghi Lộc, Nghệ An
|
22
|
Đào Thị Oanh
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
23
|
Phan Tài
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
24
|
Nguyễn Hữu Tạo
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
25
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
26
|
Từ Toàn
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
27
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
28
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
29
|
Nguyễn Văn Vinh
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
20. ĐẠI HỘI XX
Thời gian họp: Ngày 23/8/1979
Nơi họp: Xã Phú Phong
Ban Chấp hành: 33 đồng chí (có 04 ủy viên dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Văn Đệ
|
UVDK BCHTU, Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Giang
|
3
|
Trần Khoa
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
4
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
5
|
Trần Hữu Gia
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
6
|
Phan Văn Quý
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Hương Sơn
|
7
|
Từ Toàn
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
8
|
Lê Văn Trọng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phú Gia
|
9
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
10
|
Trần Đình Bảy
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
11
|
Phạm Thị Bích
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
12
|
Trần Xuân Bính
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
13
|
Bùi Cầu
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Điền) -Vũ Quang
|
14
|
Nguyễn Văn Chung
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
15
|
Trần Bá Đệ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Vĩnh
|
16
|
Nguyễn Thị Hường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
17
|
Lương Viết Khanh
|
Huyện ủy viên
|
Hương Giang
|
18
|
Phan Văn Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
19
|
Lê Nghiêm
|
Huyện ủy viên
|
Điền Mỹ
|
20
|
Lê Thị Nhỏ
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
21
|
Phan Văn Tài
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
22
|
Trần Xuân Thanh
|
Huyện ủy viên
|
Lộc Yên
|
23
|
Nguyễn Văn Thung
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
24
|
Lê Khắc Thường
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Đức Thọ
|
25
|
Trần Văn Thuyết
|
Huyện ủy viên
|
Hương Long
|
26
|
Lê Đình Tư
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
27
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
28
|
Đặng Hữu Ước
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
29
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
30
|
Phạm Vân
|
Huyện ủy viên
|
*
|
31
|
Nguyễn Viết Văn
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
32
|
Nguyễn Văn Vinh
|
Huyện ủy viên
|
Hòa Hải
|
33
|
*
|
Huyện ủy viên
|
*
|
21. ĐẠI HỘI XXI
Thời gian họp: Tháng 12/1982
Nơi họp: Xã Phú Phong
Ban Chấp hành: 36 đồng chí (cả ủy viên dự khuyết), bổ sung 01 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Văn Đệ[153]
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
2
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Bí thư Huyện ủy
(bầu bổ sung 02/8/1985)
|
Hương Giang
|
3
|
Phan Văn Quý
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (bổ sung tháng 03/1985)
|
Huyện Hương Sơn
|
4
|
Phan Xuân Bằng
|
UV BTV, Chủ tịch UBND huyện (1982 - 1984)
|
Hương Trạch
|
5
|
Trần Khoa
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịc UBND huyện (bầu bổ sung 1984)
|
Phúc Đồng
|
6
|
Trần Đường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Hương Sơn
|
7
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phú Phong
|
8
|
Trần Văn Thuyết
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Long
|
9
|
Phan Văn Tích
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
10
|
Từ Toàn
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
11
|
Lê Văn Trọng
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phú Gia
|
12
|
Nguyễn Xuân Tường
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
13
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
14
|
Phạm Bá
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
15
|
Trần Đình Bảy
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
16
|
Phạm Thị Bích
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
17
|
Trần Xuân Bính
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
18
|
Bùi Đình Cầu
|
Huyện ủy viên
|
Thọ Điền (Hương Điền) - Vũ Quang
|
19
|
Lê Hữu Chức
|
Huyện ủy viên
|
Phú Phong
|
20
|
Nguyễn Văn Chung
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
21
|
Phan Đức Cung
|
Huyện ủy viên
|
Thị trấn Vũ Quang
|
22
|
Trịnh Đào
|
Huyện ủy viên
|
Hương Xuân
|
23
|
Phạm Văn Đề
|
Huyện ủy viên
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
24
|
Trần Công Dũng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Trạch
|
25
|
Hồ Thị Hoàn
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Đồng
|
26
|
Trần Thị Khả
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
27
|
Phan Văn Nghĩa
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
28
|
Lê Đình Nghiêm
|
Huyện ủy viên
|
Điền Mỹ
|
29
|
Nguyễn Cao Nguyên
|
Huyện ủy viên
|
Hương Bình
|
30
|
Thái Bá Phượng
|
Huyện ủy viên
|
Hương Vĩnh
|
31
|
Phan Tài
|
Huyện ủy viên
|
Phúc Trạch
|
32
|
Trần Xuân Thanh
|
Huyện ủy viên
|
Lộc Yên
|
33
|
Lê Đình Tư
|
Huyện ủy viên
|
Hương Thủy
|
34
|
Đặng Hữu Ước
|
Huyện ủy viên
|
Gia Phố
|
35
|
Nguyễn Văn Vân
|
Huyện ủy viên
|
Huyện Thạch Hà
|
36
|
Nguyễn Viết Văn
|
Huyện ủy viên
|
Quang Thọ (Hương Thọ) - Vũ Quang
|
37
|
Trần Công Vinh
|
Huyện ủy viên
|
Điền Mỹ
|
22. ĐẠI HỘI XXII
Thời gian họp: Ngày 8/9/1986
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 45 đồng chí (có 10 ủy viên dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hương Giang
|
2
|
Nguyễn Bá Bốn
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Huyện Thạch Hà
|
3
|
Trần Khoa
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
4
|
Nguyễn Văn Chung
|
Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Thủy
|
5
|
Phan Văn Đệ
|
UV BTV, Chủ tịch UBMTTQ huyện
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
6
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
UV BTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện uỷ
|
Phú Phong
|
7
|
Phan Văn Quý
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Hương Sơn
|
8
|
Phan Văn Tích
|
UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện uỷ
|
Phúc Đồng
|
9
|
Phạm Minh Trí
|
UV BTV, Trưởng Công an huyện
|
ĐiềnMỹ
|
10
|
Lê Văn Trọng
|
UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ
|
Phú Gia
|
11
|
Trần Văn Yên
|
UV BTV, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự huyện
|
Phúc Trạch
|
12
|
Phan Xuân Bằng
|
GĐ Nông trường 20/4
|
Hương Trạch
|
13
|
Phan Đức Cung
|
HUV, Trưởng phòng Tổ chức UBND huyện
|
Thị trấn Vũ Quang
|
14
|
Đinh Xuân Hoè
|
HUV, Chủ nhiệm CT Vật tư
|
Hương Xuân
|
15
|
Lê Bảo Ngọc
|
HUV, Trưởng Phòng Giáo dục huyện
|
Gia Phố
|
16
|
Nguyễn Cao Nguyên
|
HUV, Phó thư ký Công đoàn huyện
|
Hương Bình
|
17
|
Nguyễn Tài Nguyên
|
HUV, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
18
|
Nguyễn Hồng Phong
|
HUV, Chủ nhiệm HTX NN Hòa Hải
|
Hòa Hải
|
19
|
Phan Văn Phúc
|
HUV, Đội trưởng, đội 5 Lâm trường Chúc A
|
Phúc Trạch
|
20
|
Thái Bá Phượng
|
HUV, Trưởng Phòng Nông nghiệp
|
Hương Vĩnh
|
21
|
Đặng Văn Sỹ
|
HUV, Phó Chủ nhiệm Công ty thương nghiệp
|
Gia Phố
|
22
|
Phan Văn Tài
|
HUV, Trưởng phòng Kế hoạch huyện
|
Phúc Trạch
|
23
|
Nguyễn Xuân Thai
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Can Lộc
|
24
|
Trần Xuân Thanh
|
HUV, Trưởng phòng Giao thông
|
Lộc Yên
|
25
|
Trần Kim Thư
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
26
|
Lê Thị Thư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, GĐ Bệnh viện đa khoa huyện
|
Hương Đô
|
27
|
Nguyễn Thanh Tịnh
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Phúc Trạch
|
28
|
Lê Đình Tư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Thủy
|
Hương Thủy
|
29
|
Nguyễn Xuân Tùng
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Minh
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
30
|
Nguyễn Ngọc Tương
|
HUV, GĐ Lâm trường khai thác Hương Khê
|
Huyện Đức Thọ
|
31
|
Nguyễn Xuân Tường
|
HUV, Giám đốc trường Đảng huyện
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
32
|
Đặng Hữu Ước
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Gia Phố, CNHTX Gia Ninh, Gia Phố
|
Gia Phố
|
33
|
Nguyễn Viết Văn
|
HUV, Phó Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -
Vũ Quang
|
34
|
Trần Văn Vinh
|
HUV, Trưởng trạm cơ giới huyện
|
Hòa Hải
|
35
|
Đặng Thị Vỹ
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Anh Sơn, Nghệ An
|
36
|
Nguyễn Kim Bích
|
Ủy viên dự khuyết, Trưởng trại chăn nuôi
|
Phú Phong
|
37
|
Cao Huy Cận
|
Ủy viên dự khuyết, Phó CN HTX Quyết Thắng, Hương Trạch
|
Hương Trạch
|
38
|
Lê Khắc Cừ
|
Ủy viên dự khuyết, Chủ nhiệm HTX Trần Phú, Hương Long
|
Hương Long
|
39
|
Hoàng Hữu Diễn
|
Ủy viên dự khuyết, Giáo viên, Bí thư đoàn trường cấp 3 Hương Khê
|
Hương Long
|
40
|
Phạm Minh Duệ
|
Ủy viên dự khuyết, PBT Đảng ủy, Chủ tịch UBND Thị trấn
|
Hương Long
|
41
|
Lương Sơn Hải
|
Ủy viên dự khuyết, Chủ nhiệm HTX Nam Giang, Hương Giang
|
Hương Giang
|
42
|
Đinh Thị Hoá
|
Ủy viên dự khuyết, Kế toán HTX Trần Phú, Hương Đô
|
Hương Đô
|
43
|
Cao Thị Liễu
|
Ủy viên dự khuyết, Ủy viên UBND xã Phương Mỹ
|
Điền Mỹ
|
44
|
Nguyễn Thị Mão
|
Ủy viên dự khuyết, Hiệu trưởng trường THCS Phúc Trạch
|
Phúc Trạch
|
45
|
Phan Thị Tập
|
Ủy viên dự khuyết, Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phú Phong
|
23. ĐẠI HỘI XXIII
Thời gian họp: Ngày 07/12/1988
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê (tại rạp chiếu bóng huyện)
Ban Chấp hành: 43 đồng chí (có 06 ủy viên dự khuyết)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Xuân Hương
|
Bí thư Huyện ủy
|
Hương Giang
|
2
|
Phan Văn Quý
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Huyện Hương Sơn
|
3
|
Trần Khoa
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
4
|
Nguyễn Bá Bốn1
|
Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Thạch Hà
|
5
|
Nguyễn Văn Chung
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Hương Thủy
|
6
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phú Phong
|
7
|
Đặng Văn Sỹ
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Gia Phố
|
8
|
Nguyễn Xuân Thai
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Huyện Can Lộc
|
9
|
Phan Văn Tích
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Đồng
|
10
|
Phạm Minh Trí
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Điền Mỹ
|
11
|
Trần Văn Yên
|
Ủy viên Ban Thường vụ
|
Phúc Trạch
|
12
|
Phan Xuân Bằng
|
HUV, GĐ Nông trường 20/4
|
Hương Trạch
|
13
|
Cao Huy Cận
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Trạch
|
Hương Trạch
|
14
|
Phan Đức Cung
|
HUV, Trưởng phòng Tổ chức UBND huyện
|
Trị trấn Vũ Quang
|
15
|
Hoàng Hữu Diễn
|
HUV, Phó Trưởng Phòng Giáo dục
|
Hương Long
|
16
|
Lương Sơn Hải
|
HUV, CN HTX Hương Giang
|
Hương Giang
|
17
|
Đinh Xuân Hòe
|
HUV, Chủ nhiệm Công ty vật tư
|
Hương Xuân
|
18
|
Cao Thị Liễu
|
HUV, Trực Đảng xã Phương Mỹ
|
Điền Mỹ
|
19
|
Nguyễn Thị Mão
|
HUV, Hiệu trưởng Trường Cấp 2 Phúc Trạch
|
Phúc Trạch
|
20
|
Lê Bảo Ngọc
|
HUV, Chánh văn phòng Huyện ủy
|
Gia Phố
|
21
|
Nguyễn Cao Nguyên
|
HUV, Chủ tịch Công đoàn
|
Hương Bình
|
22
|
Nguyễn Tài Nguyên
|
HUV, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
23
|
Thái Bá Phượng
|
HUV, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện
|
Hương Vĩnh
|
24
|
Phan Văn Tài
|
HUV, Trưởng phòng Kế hoạch huyện
|
Phúc Trạch
|
25
|
Phan Thị Tập
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phú Phong
|
26
|
Trần Xuân Thanh
|
Huyện ủy viên
|
Lộc Yên
|
27
|
Trần Kim Thư
|
HUV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Hương Thủy
|
28
|
Lê Thị Thư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
Hương Đô
|
29
|
Nguyễn Thanh Tịnh
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, CT UBND thị trấn
|
Phúc Trạch
|
30
|
Lê Đình Tư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Thủy
|
Hương Thủy
|
31
|
Nguyễn Xuân Tùng
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Minh
|
Hương Minh
|
32
|
Nguyễn Ngọc Tương
|
HUV, Giám đốc Lâm trường Trại Trụ
|
Huyện Đức Thọ
|
33
|
Đặng Hữu Ước
|
HUV, Phó ban trực Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Gia Phố
|
34
|
Nguyễn Viết Văn
|
HUV, GĐ Công ty Chè
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
35
|
Đặng Thị Vỹ
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Huyện Anh Sơn, Nghệ An
|
36
|
Phan Văn Chương
|
Ủy viên dự khuyết, Chủ nhiệm UB Thanh tra Nhà nước
|
Hương Xuân
|
37
|
Phan Trọng Kính
|
Ủy viên dự khuyết, Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Xuân
|
38
|
Trần Xuân Linh
|
Ủy viên dự khuyết, Bí thư Huyện đoàn
|
Hương Long
|
39
|
Thái Bá Tài
|
Ủy viên dự khuyết, Trưởng phòng Giao thông, thủy lợi
|
Hương Vĩnh
|
40
|
Lưu Anh Thao
|
Ủy viên dự khuyết, Bí thư Đảng ủy xã Phú Gia
|
Phú Gia
|
41
|
Nguyễn Văn Tường
|
Ủy viên dự khuyết
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
24. ĐẠI HỘI XXIV
Thời gian: Vòng 1: Tháng 3/1991; vòng 2: Tháng 12/1991
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 37 đồng chí (bầu bổ sung giữa nhiệm kỳ 4 đồng chí)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Trần Khoa
|
Bí thư Huyện ủy
|
Phúc Đồng
|
2
|
Phan Văn Quý1
|
TUV, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Huyện Hương Sơn
|
3
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (bổ sung 1994)
|
Phú Phong
|
4
|
Nguyễn Văn Chung2
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Thủy
|
5
|
Lê Hồng Mão
|
UV BTV, CHT BCHQS huyện (bổ sung 1993)
|
Phúc Trạch
|
6
|
Đặng Văn Sỹ
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Gia Phố
|
7
|
Nguyễn Xuân Thai
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Can Lộc
|
8
|
Trần Xuân Thanh
|
UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Lộc Yên
|
9
|
Phan Văn Tích
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
10
|
Phạm Minh Trí
|
UV BTV, Trưởng Công an huyện
|
Điền Mỹ
|
11
|
Trần Văn Yên[154]
|
UVBTV, CHT BCHQS huyện
|
Phúc Trạch
|
12
|
Nguyễn Kim Bích
|
HUV, Trưởng Ban kinh tế mới
|
Phú Phong
|
13
|
Phan Đức Cung
|
HUV, Trưởng Ban Tổ chức chính quyền
|
Thị trấn Vũ Quang
|
14
|
Trần Văn Đề[155]
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Phúc Trạch
|
Hương Đô
|
15
|
Hoàng Hữu Diễn
|
HUV, Hiệu trưởng trường cấp 3 Hương Khê
|
Hương Long
|
16
|
Phạm Văn Đức
|
HUV, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Hương Minh
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
17
|
Trần Minh Đức
|
HUV, Trưởng Ban kinh tế mới
|
Phúc Trạch
|
18
|
Trần Song Hào
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Phú Gia
|
19
|
Trần Thị Huệ
|
HUV, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp huyện
|
Phúc Đồng
|
20
|
Cao Xuân Hùng
|
HUV, Chánh thanh tra huyện
|
Hà Linh
|
21
|
Phan Trọng Kính
|
HUV, CT Hội Nông dân huyện
|
Hương Xuân
|
22
|
Trần Xuân Linh
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Hương Long
|
23
|
Hồ Sỹ Mão[156]
|
HUV, Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hà Linh
|
24
|
Nguyễn Văn Mậu
|
HUV, Phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
Lộc Yên
|
25
|
Lê Bảo Ngọc
|
HUV, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
|
Gia Phố
|
26
|
Thái Bá Phượng
|
HUV, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện
|
Hương Vĩnh
|
27
|
Thái Bá Tài
|
HUV, Trưởng Phòng Giao thông, thủy lợi huyện
|
Hương Vĩnh
|
28
|
Phan Thị Tập[157]
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phú Phong
|
29
|
Lưu Anh Thao
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Phú Gia
|
Phú Gia
|
30
|
Trần Kim Thư
|
HUV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Hương Thủy
|
31
|
Lê Thị Thư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
Hương Đô
|
32
|
Lê Đình Tư
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Thủy
|
Hương Thuỷ
|
33
|
Nguyễn Xuân Tùng
|
HUV, Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
34
|
Nguyễn Văn Tường
|
HUV, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
35
|
Đặng Hữu Ước[158]
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Gia Phố
|
36
|
Nguyễn Viết Văn
|
HUV, Chủ nhiệm Công ty chè
|
Quang Thọ (Hương Thọ) -Vũ Quang
|
37
|
Đặng Thị Vỹ
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Huyện Anh Sơn, Nghệ An
|
25. ĐẠI HỘI XXV
Thời gian họp: Ngày 25/3/1996
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 36 đồng chí (bầu bổ sung 1 đồng chí)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Bí thư Huyện ủy
|
Phú Phong
|
2
|
Phan Văn Quý1
|
TUV, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Hương Sơn
|
3
|
Phan Văn Tích2
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Phúc Đồng
|
4
|
Phan Thị Tập 3
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (bầu bổ sung 1998)
|
Phú Phong
|
5
|
Phan Đức Cung
|
UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Thị trấn Vũ Quang
|
6
|
Trần Đình Lượng
|
UV BTV, CHT BCH Quân sự huyện
|
Hà Linh
|
7
|
Hồ Sỹ Mão[159]
|
UV BTV, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hà Linh
|
8
|
Đặng Văn Sỹ
|
UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Gia Phố
|
9
|
Trần Xuân Thanh
|
UV BTV, Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy
|
Lộc Yên
|
10
|
Lê Xuân Trình
|
UV BTV, Trưởng Công an huyện
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
11
|
Đặng Hữu Ước
|
UV BTV, Trưởng ban Dân vận Huyện ủy, Chủ tịch UBMTTQ huyện
|
Gia Phố
|
12
|
Trần Ngọc Bích
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Gia Phố
|
13
|
Nguyễn Kim Bích2
|
HUV, Phó Chủ nhiệm UBKT
|
Phú Phong
|
14
|
Trần Văn Đề[160]
|
HUV, Phó Ban Dân vận Huyện ủy.
|
Hương Đô
|
15
|
Hoàng Hữu Diễn1
|
HUV, Hiệu trưởng trường THPT Hương Khê
|
Hương Long
|
16
|
Lê Thị Doãn
|
HUV, Phó Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
|
Gia Phố
|
17
|
Trần Minh Đức
|
HUV, Trưởng Ban kinh tế mới
|
Phúc Trạch
|
18
|
Phạm Văn Đức
|
HUV, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Hương Minh
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
19
|
Nguyễn Thị Hằng
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN xã Hương Thủy
|
Hương Thủy
|
20
|
Trần Song Hào
|
HUV, Trưởng phòng TC chính quyền
|
Phú Gia
|
21
|
Cao Hùng
|
HUV, Chánh thanh tra huyện
|
Hà Linh
|
22
|
Phan Trọng Kính
|
HUV, Chủ tịch Hội nông dân huyện
|
Hương Xuân
|
23
|
Trần Xuân Linh
|
HUV, Phó Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Hương Long
|
24
|
Nguyễn Tiến Lộc
|
HUV, Trưởng Phòng Tài chính huyện
|
Lộc Yên
|
25
|
Nguyễn Văn Mậu
|
HUV, Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
Lộc Yên
|
26
|
Nguyễn Duy Nghị
|
HUV, Trưởng Phòng Kế hoạch
|
Hương Long
|
27
|
Lê Bảo Ngọc
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Gia Phố
|
28
|
Cao Viết Ngọc
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương trạch
|
Hương Trạch
|
29
|
Nguyễn Quang Sáng
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND Thị trấn
|
Hương Đô
|
30
|
Thái Bá Tài
|
HUV, Trưởng Phòng NN và PTNT huyện
|
Hương Vĩnh
|
31
|
Lưu Anh Thao
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Phú Gia
|
Phú Gia
|
32
|
Nguyễn Quốc Thịnh
|
HUV, Giám đốc Lâm trường Trại Trụ
|
Hà Linh
|
33
|
Phạm Viết Thụ
|
HUV, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
|
Hương Lâm
|
34
|
Võ Văn Trình
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Phúc Đồng
|
35
|
Nguyễn Xuân Vinh3
|
HUV, Phó Trưởng BTG Huyện ủy
|
Hương Bình
|
36
|
Đặng Thị Vỹ
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Huyện Anh Sơn, Nghệ An
|
26. ĐẠI HỘI XXVI (nhiệm kỳ 2000 - 2005)
Thời gian họp: Ngày 28/11/2000
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 33 đồng chí (bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Thanh tháng 12/2004; đồng chí Hồ thế Thu năm 2002)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/ Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Nguyễn Kim Kiệm1
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Phú Phong
|
2
|
Phan Thị Tập
|
Bí thư Huyện ủy (bổ sung tháng 01/2005)
|
Phú Phong
|
3
|
Hoàng Hữu Diễn[161]
|
Phó Bí thư Thường Trực Huyện ủy (bổ sung tháng 01/2005)
|
Hương Long
|
4
|
Phan Văn Tích2
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Phúc Đồng
|
5
|
Nguyễn Văn Thanh
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện (bổ sung tháng 12/2004)
|
Huyện Đức Thọ
|
6
|
Nguyễn Kim Bích3
|
UV BTV, CN UBKT Huyện ủy
|
Phú Phong
|
7
|
Trần Đình Lượng5
|
UV BTV, Chỉ huy trưởng BCHQS huyện
|
Hà Linh
|
8
|
Thái Bá Tài4
|
UV BTV, Trưởng phòng NN và PTNT huyện
|
Hương Vĩnh
|
9
|
Nguyễn Quốc Thảo1
|
UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy (bổ sung năm 2004)
|
Hương Bình
|
10
|
Lê Xuân Trình
|
UV BTV, Trưởng Công an huyện
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
11
|
Đặng Hữu Ước
|
UV BTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy
|
Gia Phố
|
12
|
Nguyễn Xuân Vinh
|
UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hương Bình
|
13
|
Đặng Thị Vỹ
|
UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Huyện Anh Sơn - Nghệ An
|
14
|
Trần Ngọc Bích
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Gia Phố
|
15
|
Trần Văn Đề2
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tổ chức Huyện uỷ
|
Hương Đô
|
16
|
Lê Thị Doãn
|
HUV, Phó trưởng Phòng GD & ĐT huyện
|
Gia Phố
|
17
|
Trần Minh Đức[162]
|
HUV, Trưởng Phòng LĐTB&XH
|
Phúc Trạch
|
18
|
Trần Song Hào
|
HUV, Trưởng Phòng Tổ chức chính quyền
|
Phú Gia
|
19
|
Nguyễn Văn Hiệp
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Phú Phong
|
20
|
Nguyễn Trọng Hoài
|
HUV, Trưởng Phòng NN và PTNT huyện
|
Phúc Trạch
|
21
|
Cao Hùng
|
HUV, Chánh Thanh tra huyện
|
Hà Linh
|
22
|
Phan Trọng Kính
|
HUV, Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Xuân
|
23
|
Hoàng Công Lý
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Huyện Đức Thọ
|
24
|
Nguyễn Văn Mậu
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
Lộc Yên
|
25
|
Nguyễn Duy Nghị
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Long
|
26
|
Lê Bảo Ngọc
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Gia Phố
|
27
|
Lê Hồng Quân
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hà Linh
|
Hà Linh
|
28
|
Nguyễn Quang Sáng
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND Thị trấn
|
Hương Đô
|
29
|
Trần Ngọc Sơn
|
HUV, Giám đốc Công ty cao su Hà Tĩnh
|
Phúc Trạch
|
30
|
Trần Xuân Thanh
|
HUV, Chủ tịch LĐLĐ huyện
|
Lộc Yên
|
31
|
Lưu Anh Thao
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Phú Gia
|
Phú Gia
|
32
|
Hồ Thế Thu
|
UVBTV, CHT BCH Quân sự huyện (bầu bổ sung 2002)
|
Huyện Lộc Hà
|
33
|
Phạm Viết Thụ
|
HUV, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện
|
Hương Lâm
|
34
|
Nguyễn Thị Tình
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Phúc Đồng
|
35
|
Võ Văn Trình3
|
HUV, PCN UBKT Huyện ủy
|
Phúc Đồng
|
7. ĐẠI HỘI XXVII (nhiệm kỳ 2005 - 2010)
Thời gian họp: Ngày 6 - 8/10/2005
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 35 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Phan Thị Tập1
|
TUV, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện
|
Phú Phong
|
2
|
Hoàng Hữu Diễn
|
Bí thư Huyện ủy
(bổ sung tháng 5/2010)
|
Hương Long
|
3
|
Nguyễn Văn Thanh2
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Thị xã Hồng Lĩnh
|
4
|
Nguyễn Xuân Vinh
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (bổ sung tháng 12/2007)
|
Hương Bình
|
5
|
Đinh Hữu Tân
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện (bổ sung tháng 5/2010)
|
Hương Đô
|
6
|
Hoàng Công Lý
|
UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Huyện Đức Thọ
|
7
|
Nguyễn Duy Nghị2
|
UVBTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Long
|
8
|
Thái Bá Tài
|
UVBTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Hương Vĩnh
|
9
|
Nguyễn Quốc Thảo
|
UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy
|
Hương Bình
|
10
|
Lê Xuân Trình
|
UVBTV, Trưởng Công an huyện
|
Hương Minh - Vũ Quang
|
11
|
Mai Văn Tuấn
|
UVBTV, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự huyện
|
Hương Long
|
12
|
Đặng Thị Vỹ1
|
UVBTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy
|
Huyện Anh Sơn - Nghệ An
|
13
|
Phan Trọng Bình
|
HUV, Bí thư Đảng ủy Thị trấn
|
Hương Thủy
|
14
|
Nguyễn Quang Cảnh
|
HUV, Trưởng phòng TC - KH huyện
|
Hương Đô
|
15
|
Võ Viết Minh Châu[163]
|
HUV, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Thủy
|
16
|
Nguyễn Thái Công
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy xã Hương Lâm
|
Thị trấn Thạch Hà
|
17
|
Trần Văn Đề
|
HUV, Chủ tịch UBMTTQ huyện
|
Hương Đô
|
18
|
Lê Thị Doãn
|
HUV, Phó Trưởng Phòng GD - ĐT huyện
|
Gia Phố
|
19
|
Phạm Đại Dũng
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Phúc Trạch
|
Phúc Trạch
|
20
|
Trần Song Hào
|
HUV, Trưởng Phòng Nội vụ huyện
|
Phú Gia
|
21
|
Nguyễn Văn Hiệp3
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Phú Phong
|
22
|
Nguyễn Trọng Hoài
|
HUV, Trưởng phòng NN và PTNT huyện
|
Phúc Trạch
|
23
|
Đậu Thanh Hùng
|
HUV, Chi Cục trưởng Chi cục Thuế huyện
|
Huyện Nghi Xuân
|
24
|
Hồ Thị Huyền
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy xã Hòa Hải
|
Hòa Hải
|
25
|
Phạm Văn Khang
|
HUV, GĐ TT Y tế dự phòng huyện
|
Gia Phố
|
26
|
Bùi Thức Ngọc[164]
|
HUV, Chủ tịch HND huyện
|
Hương Thủy
|
27
|
Ngô Xuân Ninh[165]
|
HUV, Trưởng Phòng TN - MT huyện
|
Hương Thủy
|
28
|
Đặng Văn Phú
|
HUV, Chủ tịch LĐLĐ huyện
|
Hòa Hải
|
29
|
Lê Trần Sáng[166]
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Phú Phong
|
30
|
Phạm Viết Thụ
|
HUV, Viện trưởng VKSND huyện
|
Hương Lâm
|
31
|
Nguyễn Thị Tình
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Phúc Đồng
|
32
|
Võ Văn Trình2
|
HUV, Trưởng Phòng Tổ chức LĐTB&XH huyện
|
Phúc Đồng
|
33
|
Nguyễn Kim Tú4
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Phú Phong
|
34
|
Nguyễn Văn Việt1
|
HUV, Trưởng phòng Công thương huyện
|
Phú Phong
|
35
|
Lê Quang Vinh
|
HUV, Phó trực UBKT Huyện ủy
|
Hương Xuân
|
36
|
Trần Quốc Bảo[167]
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
(bổ sung cuối năm 2008)
|
Hương Thủy
|
28. ĐẠI HỘI XXVIII (nhiệm kỳ 2010 - 2015)
Thời gian họp: Ngày 20 - 22/7/2010
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 41 đồng chí
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Hoàng Hữu Diễn
|
Bí thư Huyện uỷ
|
Hương Long
|
2
|
Hà Văn Hùng[168]
|
TUV, Bí thư Huyện ủy (bổ sung tháng 3/2011)
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
3
|
Nguyễn Xuân Vinh2
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Bình
|
4
|
Đinh Hữu Tân
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Đô
|
5
|
Lê Ngọc Huấn
|
Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện
(bổ sung tháng 5/2015)
|
Gia Phố
|
6
|
Thái Công Anh
|
UVBTV, CHT BCH Quân sự huyện
|
Huyện Hương Sơn
|
7
|
Trần Quốc Bảo[169]
|
UVBTV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
8
|
Nguyễn Văn Hiệp3
|
UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phú Phong
|
9
|
Từ Thị Hòa1
|
UVBTV, Quyền Trưởng BCT Huyện ủy
|
Lộc Yên
|
10
|
Hoàng Công Lý
|
UVBTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Đức Thọ
|
11
|
Ngô Xuân Ninh4
|
UVBTV, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND Thị trấn
|
Hương Thủy
|
12
|
Lê Trần Sáng[170]
|
UVBTV, PCT UBND huyện
|
Phú Phong
|
13
|
Nguyễn Quốc Thảo
|
UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy
|
Hương Bình
|
14
|
Nguyễn Kim Tú[171]
|
UVBTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy
|
Phú Phong
|
15
|
Đặng Quốc Vượng
|
UVBTV, Trưởng Công an huyện
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
16
|
Nguyễn Văn Cầm4
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, CT UBND xã Gia Phố
|
Gia Phố
|
17
|
Nguyễn Quang Cảnh2
|
HUV, Trưởng Phòng TC - KH huyện
|
Hương Đô
|
18
|
Võ Viết Minh Châu
|
HUV, Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Thủy
|
19
|
Trương Thị Hằng5
|
HUV, Phó Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Phú Phong
|
20
|
Nguyễn Trọng Hoài
|
HUV, Trưởng Phòng NN - PTNT huyện
|
Phúc Trạch
|
21
|
Trần Đình Hùng6
|
HUV, Phó Trưởng Phòng GD - ĐT huyện
|
Hương Vĩnh
|
22
|
Hồ Thị Huyền
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hoà Hải
|
Hòa Hải
|
22
|
Phạm Văn Khang
|
HUV, GĐ TTYT dự phòng huyện
|
Gia Phố
|
23
|
Lê Đức Khang
|
HUV, Trưởng phòng Công thương huyện
|
Hương Giang
|
24
|
Nguyễn Hữu Khang
|
HUV, GĐ Trung tâm bồi dưỡng Chính trị huyện
|
Hương Xuân
|
25
|
Phan Quốc Lập7
|
HUV, Phó Trưởng phòng LĐTB & XH huyện
|
Phú Phong
|
27
|
Cao Thị Liễu8
|
HUV, Phó Trưởng Phòng Nội vụ
|
ĐiềnMỹ
|
28
|
Trần Hữu Long
|
HUV, Viện trưởng VKS nhân dân huyện
|
Hương Vĩnh
|
29
|
Phan Văn Long9
|
HUV, Phó trực UBKT Huyện ủy
|
Phú Phong
|
30
|
Hoàng Thị Thuý Nga
|
HUV, Chủ tịch Công đoàn, GV trường THPT Hương Khê
|
Hương Long
|
31
|
Bùi Thức Ngọc
|
HUV, Giám đốc Trung tâm UDKH, CGCN, BVCTVN (bổ sung)
|
Hương Thủy
|
32
|
Hoàng Quốc Nhã10
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Hương Thủy
|
33
|
Đặng Văn Phú
|
HUV, Chủ tịch LĐLĐ huyện
|
Hòa Hải
|
34
|
Nguyễn Hồng Quân
|
HUV, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Phương Mỹ
|
Điền Mỹ
|
35
|
Trần Văn Thanh
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Hương Vĩnh
|
Hương Vĩnh
|
36
|
Trịnh Thị Thiện
|
HUV, Chánh án Toà án nhân dân huyện
|
Gia Phố
|
37
|
Đặng Văn Toàn11
|
HUV, Phó trưởng Phòng GD&ĐT huyện
|
Huyện Hòa Vang, Quảng Nam
|
38
|
Võ Văn Trình
|
HUV, Trưởng Phòng Văn hoá - Thông tin huyện
|
Phúc Đồng
|
39
|
Nguyễn Thanh Tuấn12
|
HUV, Phó Chánh thanh tra huyện
|
Phú Phong
|
40
|
Nguyễn Anh Tuấn13
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phúc Đồng
|
41
|
Nguyễn Văn Việt
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phú Phong
|
42
|
Lê Quang Vinh3
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Hương Xuân
|
43
|
Đặng Tuấn Anh
|
Trưởng Phòng Tài Chính - Kế hoạch huyện (bổ sung BCH tháng 4/2014)
|
Gia Phố
|
43
|
Nguyễn Trung Thương
|
Bí thư Huyện Đoàn
(bổ sung BCH tháng 4/2014)
|
Phú gia
|
29. ĐẠI HỘI XXIX (nhiệm kỳ 2015 - 2020)
Thời gian họp: Ngày 11 - 13/8/2015
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 41 đồng chí (bầu bổ sung 01 đồng chí)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Đinh Hữu Tân
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
|
Hương Đô
|
2
|
Ngô Xuân Ninh
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
3
|
Lê Ngọc Huấn
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Gia Phố
|
4
|
Trần Quốc Bảo1
|
UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
5
|
Phan Xuân Công
|
UVBTV, Trưởng Công an huyện
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
6
|
Nguyễn Văn Hiệp
|
UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Phú Phong
|
7
|
Từ Thị Hòa
|
UVBTV, Chủ tịch UBMTTQ huyện
|
Lộc Yên
|
8
|
Nguyễn Huy Hoàng
|
UVBTV, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự huyện
|
TP Hà Tĩnh
|
9
|
Hoàng Công Lý2
|
UVBTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Đức Thọ
|
10
|
Hoàng Quốc Nhã3
|
UVBTV, Bí thư Đảng ủy Thị trấn
|
Hương Thủy
|
11
|
Nguyễn Quốc Thảo
|
UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy
|
Hương Bình
|
12
|
Đặng Văn Toàn
|
UVBTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy
|
Huyện Hòa Vang, Quảng Nam
|
13
|
Nguyễn Kim Tú
|
UVBTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Phú Phong
|
14
|
Đặng Tuấn Anh
|
HUV, Trưởng phòng TC - KH huyện
|
Gia Phố
|
15
|
Lê Công Anh
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Phú Gia
|
Phú Gia
|
16
|
Võ Viết Minh Châu
|
HUV, Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Thủy
|
17
|
Hà Văn Đàn[172]
|
HUV, Phó Trưởng phòng Nội vụ huyện
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
18
|
Nguyễn Thị Mỹ Dung
|
HUV, Phó Ban trực Ban Dân vận Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
19
|
Nguyễn Tiến Dũng6
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Gia Phố
|
Lộc Yên
|
20
|
Ngô Viết Hạ
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Trà
|
Hương Thủy
|
21
|
Đoàn Thanh Hải[173]
|
HUV, Phó trực UBKT Huyện ủy
|
Hương Trạch
|
22
|
Trương Thị Hằng
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Phú Phong
|
23
|
Trần Đình Hùng
|
HUV, Trưởng Phòng GD & ĐT huyện
|
Hương Vĩnh
|
24
|
Nguyễn Thế Hùng
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Hà Linh
|
25
|
Hồ Thị Huyền
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hoà Hải
|
Hòa Hải
|
26
|
Phan Kỳ8
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện (bổ sung 2019)
|
Huyện Lộc Hà
|
27
|
Phan Quốc Lập4
|
HUV, Trưởng Phòng TNMT huyện
|
Phú Phong
|
28
|
Trần Thăng Long
|
HUV, Trưởng phòng KT - HT huyện
|
Hương Long
|
29
|
Trần Hữu Long
|
HUV, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện
|
Hương Vĩnh
|
30
|
Phan Văn Long7
|
Bí thư Đảng ủy xã Phú Phong
|
Phú Phong
|
31
|
Nguyễn Văn Minh
|
HUV, Chủ tịch UBND xã Phương Điền
|
Điền Mỹ
|
32
|
Nguyễn Thị Như Nguyệt[174]
|
HUV, Phó Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện.
|
Hương Minh- Vũ Quang
|
33
|
Phan Trường Sang
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
|
HuyệnHương Sơn
|
34
|
Trần Thị Hồng Thắm2
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Phú Phong
|
35
|
Trịnh Thị Thiện5
|
HUV, Chánh án toàn án nhân dân huyện
|
Gia Phố
|
36
|
Nguyễn Trung Thương3
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Long
|
Phú Gia
|
37
|
Đinh Công Tịu[175]
|
HUV, Phó Chánh Văn phòng HĐND - UBND huyện
|
Hương Đô
|
38
|
Võ Văn Trình
|
HUV, Trưởng phòng VH - TT huyện
|
Phúc Đồng
|
39
|
Nguyễn Anh Tuấn[176]
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Phúc Đồng
|
40
|
Nguyễn Thanh Tuấn4
|
HUV, Chánh Thanh tra huyện
|
Phú Phong
|
41
|
Nguyễn Văn Việt
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Phú Phong
|
42
|
Lê Quang Vinh[177]
|
HUV, Phó Trưởng phòng NN và PTNT huyện
|
Hương Xuân
|
30. ĐẠI HỘI XXX
Thời gian họp: Ngày 5 - 7/8/2020
Nơi họp: Thị trấn Hương Khê
Ban Chấp hành: 38 đồng chí (bổ sung 04 đồng chí)
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Quê quán/Chỗ ở hiện nay
|
1
|
Lê Ngọc Huấn1
|
TUV, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện
|
Gia Phố
|
2
|
Nguyễn Thanh Điện
|
TUV, Bí thư Huyện ủy
(bổ sung tháng 10/2022)
|
Huyện Nghi Xuân
|
3
|
Từ Thị Hòa2
|
Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
|
Lộc Yên
|
4
|
Ngô Xuân Ninh
|
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Thủy
|
5
|
Trần Quốc Bảo
|
UVBTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Hương Thủy
|
6
|
Phan Xuân Công
|
UVBTV, Trưởng Công an huyện
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
7
|
Hà Văn Đàn4
|
UVBTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ
|
Huyện Cẩm Xuyên
|
8
|
Nguyễn Văn Hiệp
|
UVBTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện
|
Phú Phong
|
9
|
Nguyễn Huy Hoàng
|
UVBTV, CHT BCH Quân sự huyện
|
Tp Hà Tĩnh
|
10
|
Phan Kỳ
|
UVBTV, Phó Chủ tịch UBND huyện
|
Huyện Lộc Hà
|
11
|
Hoàng Quốc Nhã
|
UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo, Giám đốc TT Chính trị huyện
|
Hương Thủy
|
12
|
Đặng Văn Toàn3
|
UVBTV, Chủ tịch UBMTTQ huyện
|
Huyện Hòa Vang - Quảng Nam
|
13
|
Nguyễn Kim Tú
|
UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Phú Phong
|
14
|
Nguyễn Thanh Tuấn
|
UVBTV, CN UBKT Huyện ủy
|
Phú Phong
|
15
|
Đặng Tuấn Anh6
|
HUV, Trường Phòng TC - KH huyện
|
Gia Phố
|
16
|
Võ Viết Minh Châu
|
HUV, Chủ tịch Hội Nông dân huyện
|
Hương Thủy
|
17
|
Nguyễn Văn Đàn[178]
|
HUV, Đồn trưởng Đồn Biên phòng Bản Giàng
|
Huyện Lộc Hà
|
18
|
Lê Hữu Đồng
|
HUV, Trưởng Phòng Nội vụ huyện
|
Phú Phong
|
19
|
Hồ Sỹ Đồng10
|
HUV, Phó Ban Kinh tế - xã hội HĐND huyện
|
Hà Linh
|
20
|
Nguyễn Duy Đức16
|
HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện (bổ sung tháng 9/2020)
|
TP Hà Tĩnh
|
21
|
Nguyễn Thị Mỹ Dung
|
HUV, Phó Ban trực Ban Dân vận Huyện ủy
|
Hương Thủy
|
22
|
Lê Trọng Dũng
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tuyên giáo Huyện ủy
|
Hòa Hải
|
23
|
Nguyễn Tiến Dũng8
|
HUV, Phó trực UBKT Huyện ủy
|
Lộc Yên
|
24
|
Đoàn Thanh Hải14
|
HUV, Phó trực UBKT Huyện ủy
|
Hương Trạch
|
25
|
Nguyễn Thanh Hải9
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
|
Hương Bình
|
26
|
Trương Thị Hằng19
|
HUV, Chủ tịch Hội LHPN huyện
|
Phú Phong
|
27
|
Dương Ngọc Hoàng11
|
HUV, Chánh Thanh tra huyện
|
Hương Trà
|
28
|
Phan Đình Hùng
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Hương Giang
|
Hương Giang
|
29
|
Trần Đình Hùng5
|
HUV, Trưởng Phòng GD - ĐT huyện
|
Hương Vĩnh
|
30
|
Nguyễn Thế Hùng7
|
HUV, Phó Ban trực Ban Tổ chức Huyện ủy
|
Hà Linh
|
31
|
Nguyễn Trường Lâm
|
HUV, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện
|
Gia Phố
|
32
|
Phan Văn Long
|
HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy
|
Phú Phong
|
33
|
Trần Thăng Long12
|
HUV, Trưởng phòng Kinh tế - Hạ tầng
|
Hương Long
|
34
|
Nguyễn Thị Như Nguyệt
|
HUV, Trưởng phòng LĐ -TB&XH huyện
|
Huyện Vũ Quang
|
35
|
Hoàng Xuân Tần
|
HUV, Bí thư - CT HĐND xã Điền Mỹ
|
Điền Mỹ
|
36
|
Trần Thị Hồng Thắm15
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Đô
|
Phú Phong
|
37
|
Nguyễn Trung Thương18
|
HUV, Bí thư Đảng ủy xã Hương Long
|
Phú Gia
|
38
|
Đinh Công Tịu
|
HUV, Chủ tịch LĐLĐ huyện
|
Hương Đô
|
39
|
Nguyễn Anh Tuấn
|
HUV, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND Thị trấn
|
Phúc Đồng
|
40
|
Nguyễn Thanh Tùng
|
HUV, Chánh án Tòa án Nhân dân huyện
|
Huyện Đức Thọ
|
41
|
Lê Quang Vinh13
|
HUV, Trưởng phòng NN và PTNT
|
Hương Xuân
|
42
|
Dương Hạnh Đạt
|
HUV, Bí thư Huyện đoàn
(bổ sung tháng 10/2022)
|
Phú Phong
|
43
|
Phan Quốc Thanh
|
HUV, Trưởng Phòng GD&ĐT huyện
(bổ sung tháng 10/2022)
|
Hương Bình
|
II. HUÂN CHƯƠNG CAO QUÝ NHÀ NƯỚC PHONG TẶNG NHÂN DÂN VÀ CÁN BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ
TT
|
Đơn vị
|
Hình thức
|
Năm công nhận
|
Quyết định công nhận
|
|
Nhân dân và cán bộ huyện Hương Khê
|
Huân chương Lao động Hạng Ba
|
2007
|
Số 1507QĐ/CTN ngày 07/12/2007 của Chủ tịch nước
|
|
Nhân dân và cán bộ huyện Hương Khê
|
Huân chương Lao động Hạng Nhì
|
2014
|
Số 876QĐ/CTN ngày 24/4/2014 của Chủ tịch nước
|
III. ĐƠN VỊ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VÀ ANH HÙNG LAO ĐỘNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TT
|
Tên đơn vị
|
Danh hiệu
|
Năm công nhận
|
1
|
Nhân dân và LLVT huyện Hương Khê
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
1995
|
2
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Trạch
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
1996
|
3
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Thủy
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
1996
|
4
|
Nhân dân và LLVT xã Phúc Trạch
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
1998
|
5
|
Nhân dân và LLVT xã Gia Phố
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
1998
|
6
|
Cán bộ, công nhân viên và Lực lượng tự vệ Nông trường Quốc doanh 20/4 (nay là xã Hương Trà)
|
Anh hùng6 LLVT Nhân dân
|
1999
|
7
|
Nhân dân và LLVT xã Hà Linh
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2001
|
8
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Long
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2001
|
9
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Đô
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2001
|
10
|
Nhân dân và LLVT xã Lộc Yên
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2001
|
11
|
Nhân dân và LLVT xã Phú Phong
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2002
|
12
|
Nhân dân và LLVT xã Phúc Đồng
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2003
|
13
|
Nhân dân và LLVT xã Hòa Hải
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2005
|
14
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Bình
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2005
|
15
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Vĩnh
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2005
|
16
|
Nhân dân và LLVT xã Hương Xuân
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2005
|
17
|
Nhân dân và LLVT xã Phú Gia
|
Anh hùng LLVT Nhân dân
|
2014
|
18
|
Nhân dân và cán bộ xã Gia Phố
|
Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới
|
2005
|
III. DANH SÁCH CÁ NHÂN ĐƯỢC PHONG TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG
1. Cá nhân Anh hùng Lực lượng vũ trang
TT
|
Họ và tên
|
Năm sinh
|
Quê quán
|
Năm công nhận
|
Nơi ở hiện nay
|
1
|
Võ Hồng Tuyên
|
1941
|
Lộc Yên
|
25/8/1970
|
TP Hà Tĩnh
(Đã mất)
|
2
|
Phan Châu Mỹ
|
1945
|
Phúc Đồng
|
6/11/1978
|
Thôn 6,
xã Phúc Đồng
|
3
|
Hồ Đức Tự
|
1948
|
Phương Mỹ
|
03/6/1976
|
TDP2, Thị trấn Hương Khê
|
4
|
Hán Duy Long
|
1953
|
Hương Trạch
|
15/1/1976
|
TP Hà Nội
|
2. Cá nhân Anh hùng Lao động
TT
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Ghi chú
|
1
|
Nguyễn Văn Đường
|
Xã Hương Thuỷ
|
Anh hùng Lao động
|
3. Mẹ Việt Nam Anh hùng
TT
|
Họ và tên
|
Năm sinh
|
Nguyên quán
|
Năm công nhận
|
Nơi đề nghị
|
1
|
Nguyễn Thị Lan
|
1910
|
Hương Trạch
|
1995
|
Hương Trạch
|
2
|
Nguyễn Thị Cung
|
1912
|
Hương Trạch
|
1995
|
Hương Trạch
|
3
|
Nguyễn Thị Phượng
|
1910
|
Hương Trạch
|
2014
|
Hương Trạch
|
4
|
Trần Thị Lượng
|
1924
|
Hương Trạch
|
2014
|
Hương Trạch
|
5
|
Cao Thị Mục
|
1914
|
Hương Trạch
|
2015
|
Hương Trạch
|
6
|
Phạm Thị Oanh
|
1910
|
Phúc Trạch
|
1995
|
Phúc Trạch
|
7
|
Phan Thị Chín
|
1910
|
Phúc Trạch
|
1995
|
Phúc Trạch
|
8
|
Đoàn Thị Dân
|
1913
|
Phúc Trạch
|
1995
|
Phúc Trạch
|
9
|
Võ Thị Lương
|
1908
|
Phúc Trạch
|
1995
|
Phúc Trạch
|
10
|
Thái Thị Lương
|
1910
|
Phúc Trạch
|
1995
|
Phúc Trạch
|
11
|
Thái Thị Kỷ
|
1915
|
Phúc Trạch
|
2014
|
Phúc Trạch
|
12
|
Nguyễn Thị Thiện
|
1933
|
Phúc Trạch
|
2014
|
Phúc Trạch
|
13
|
Nguyễn Thị Vỵ
|
1925
|
Phúc Trạch
|
2014
|
Phúc Trạch
|
14
|
Đinh Thị Thích
|
1907
|
Phúc Trạch
|
2015
|
Phúc Trạch
|
15
|
Nguyễn Thị Khôi
|
1894
|
Phúc Trạch
|
2014
|
Phúc Trạch
|
16
|
Trần Thị Mỹ
|
1938
|
Phúc Trạch
|
2017
|
Phúc Trạch, còn sống tại thôn 6
|
17
|
Đinh Thị Diên
|
1903
|
Hương Đô
|
1995
|
Hương Đô
|
18
|
Mai Thị Biểu
|
1900
|
Hương Đô
|
1995
|
Hương Đô
|
19
|
Đinh Thị Sửu
|
1908
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
20
|
Nguyễn Thị Thiều
|
1915
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
21
|
Trần Thị Thuận
|
1909
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
22
|
Nguyễn Thị Nghĩa
|
1875
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
23
|
Nguyễn Thị Em
|
1870
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
24
|
Nguyễn Thị Đương
|
1898
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
25
|
Nguyễn Thị Hương
|
1920
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
26
|
Trần Thị Thung
|
1918
|
Hương Đô
|
2015
|
Hương Đô
|
27
|
Nguyễn Thị Tùy
|
1913
|
Lộc Yên
|
1995
|
Lộc Yên
|
28
|
Nguyễn Thị Mai
|
1914
|
Lộc Yên
|
1995
|
Lộc Yên
|
29
|
Đinh Thị Ưu
|
1918
|
Lộc Yên
|
1995
|
Lộc Yên
|
30
|
Trần Thị Tứ
|
1910
|
Đức Thọ
|
2014
|
Lộc Yên
|
31
|
Nguyễn Thị Bốn
|
1922
|
Lộc Yên
|
2014
|
Lộc Yên
|
32
|
Nguyễn Thị Được
|
1909
|
Lộc Yên
|
2015
|
Lộc Yên
|
33
|
Nguyễn Thị Trung
|
|
Lộc Yên
|
2015
|
Lộc Yên
|
34
|
Võ Thị Thông
|
1908
|
Hương Lâm
|
2014
|
Hương Lâm
|
35
|
Đinh Thị Bảo
|
1921
|
Hương Lâm
|
2014
|
Hương Lâm
|
36
|
Dương Thị Hường
|
1924
|
Hương Lâm
|
2014
|
Hương Lâm
|
37
|
Nguyễn Thị Thành
|
1912
|
Hương Liên
|
1995
|
Hương Liên
|
38
|
Bùi Thị Hợp
|
1909
|
Hương Trạch
|
2015
|
Hương Liên
|
39
|
Trần Thị Bốn
|
1920
|
Hương Liên
|
2015
|
Hương Liên
|
40
|
Nguyễn Thị Oánh
|
1920
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
41
|
Lê Thị Viêm
|
1918
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
42
|
Lê Thị Đáng
|
1934
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
43
|
Lê Thị Vận
|
1920
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
44
|
Nguyễn Thị Dục
|
1920
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
45
|
Nguyễn Thị Tân
|
1912
|
Hương Xuân
|
1995
|
Hương Xuân
|
46
|
Ngô Thị Ý
|
1926
|
Hương Xuân
|
2014
|
Hương Xuân
|
47
|
Lê Thị Chiêm
|
1902
|
Hương Xuân
|
2014
|
Hương Xuân
|
48
|
Lê Thị Nhân
|
1907
|
Hương Xuân
|
2014
|
Hương Xuân
|
49
|
Lê Thị Thứ
|
1910
|
Hương Xuân
|
2014
|
Hương Xuân
|
50
|
Nguyễn Thị Tuyên
|
1911
|
Hương Xuân
|
2015
|
Hương Xuân
|
51
|
Phan Thị Cầu
|
1912
|
Hương Xuân
|
2015
|
Hương Xuân
|
52
|
Thái Thị Tình
|
1912
|
Hương Xuân
|
2015
|
Hương Xuân
|
53
|
Nguyễn Thị Quế
|
1902
|
Thị trấn
|
1995
|
Thị Trấn
|
54
|
Nguyễn Thị Danh
|
1919
|
Thị trấn
|
1995
|
Thị Trấn
|
55
|
Thiều Thị Ngụ
|
1917
|
Hương Thủy
|
2014
|
Thị Trấn
|
56
|
Hoàng Thị Trạch
|
1913
|
Hương Long
|
2014
|
Thị Trấn
|
57
|
Hoàng Thị Tám
|
1899
|
Đức Thọ
|
2015
|
Thị Trấn
|
58
|
Đặng Thị Chắt
|
1907
|
Phương Điền
|
2015
|
Thị Trấn
|
59
|
Lê Thị Đoài
|
1920
|
Thị Trấn
|
2016
|
Thị Trấn
|
60
|
Phan Thị Ngoan
|
|
Phú Gia
|
1995
|
Phú Gia
|
61
|
Phan Thị Bình
|
1930
|
Phú Gia
|
1995
|
Phú Gia
|
62
|
Trần Thị Loan
|
1906
|
Phú Gia
|
1995
|
Phú Gia
|
63
|
Lê Thị Trinh
|
1918
|
Phú Gia
|
2014
|
Phú Gia
|
64
|
Lê Thị Xư
|
1902
|
Phú Gia
|
2016
|
Phú Gia
|
65
|
Ngô Thị Thịnh
|
1912
|
Hương Vĩnh
|
1995
|
Hương Vĩnh
|
66
|
Phạm Thị Lý
|
1915
|
Hương Vĩnh
|
2015
|
Hương Vĩnh
|
67
|
Trần Thị Thiêm
|
1907
|
Hương Vĩnh
|
2015
|
Hương Vĩnh
|
68
|
Đoàn Thị Dinh
|
1898
|
Hương Vĩnh
|
2016
|
Hương Vĩnh
|
69
|
Đoàn Thị Lộc
|
1919
|
Hương Long
|
1995
|
Hương Long
|
70
|
Phan Thị Được
|
1914
|
Hương Long
|
2015
|
Hương Long
|
71
|
Phan Thị Viên
|
1923
|
Phú Gia
|
2015
|
Hương Long
|
72
|
Đặng Thị Bốn
|
1905
|
Gia Phố
|
2014
|
Gia Phố
|
73
|
Lê Thị Ba
|
1895
|
Gia Phố
|
2017
|
Gia Phố
|
74
|
Phan Thị Bảy
|
1887
|
Gia Phố
|
2017
|
Gia Phố
|
75
|
Nguyễn Thị Hinh
|
1903
|
Hương Thủy
|
1995
|
Hương Thủy
|
76
|
Nguyễn Thị Xuyến
|
1904
|
Hương Thủy
|
1995
|
Hương Thủy
|
77
|
Trần Thị Lương
|
1923
|
Hương Thủy
|
2014
|
Hương Thủy
|
78
|
Phạm Thị Lục
|
1916
|
Hương Thủy
|
2015
|
Hương Thủy
|
79
|
Nguyễn Thị Tùy
|
1913
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
80
|
Đặng Thị Đường
|
1919
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
81
|
Nguyễn Thị Hóa
|
1908
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
82
|
Nguyễn Thị Khôi
|
1906
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
83
|
Hoàng Thị Dưỡng
|
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
84
|
Đậu Thị Tư
|
1905
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
85
|
Trần Thị Nhuận
|
1907
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
86
|
Trần Thị Thích
|
|
Phúc Đồng
|
1995
|
Phúc Đồng
|
87
|
Nguyễn Thị Lý
|
1912
|
Hương Thọ
|
2014
|
Phúc Đồng
|
88
|
Đoàn Thị Tứ
|
1926
|
Đức Thọ
|
2014
|
Phúc Đồng
|
89
|
Dương Thị Hạnh
|
1906
|
Hương Bình
|
1995
|
Hương Bình
|
90
|
Nguyễn Thị Nuôi
|
1910
|
Hương Bình
|
1995
|
Hương Bình
|
91
|
Phan Thị Thuận
|
1918
|
Hương Bình
|
1995
|
Hương Bình
|
92
|
Nguyễn Thị Hét
|
1906
|
Hương Bình
|
2014
|
Hương Bình
|
93
|
Nguyễn Thị Em
|
1923
|
Hương Bình
|
2014
|
Hương Bình
|
94
|
Lê Thị Đăng
|
1910
|
Hương Bình
|
2014
|
Hương Bình
|
95
|
Phan Thị Thọ
|
1913
|
Hương Bình
|
2014
|
Hương Bình
|
96
|
Phạm Thị Bun
|
1910
|
Hòa Hải
|
2015
|
Hương Bình
|
97
|
Trần Thị Út
|
1901
|
Hương Bình
|
2016
|
Hương Bình
|
98
|
Phan Thị Huệ
|
1906
|
Hòa Hải
|
1995
|
Hòa Hải
|
99
|
Phan Thị Lương
|
1917
|
Hòa Hải
|
1995
|
Hòa Hải
|
100
|
Nguyễn Thị Thành
|
1920
|
Hòa Hải
|
1995
|
Hòa Hải
|
101
|
Phan Thị Khay
|
1909
|
Hòa Hải
|
1995
|
Hòa Hải
|
102
|
Thái Thị Em
|
1901
|
Hòa Hải
|
2014
|
Hòa Hải
|
103
|
Phạm Thị Thiện
|
1906
|
Hòa Hải
|
2015
|
Hòa Hải
|
104
|
Đặng Thị Em
|
1915
|
Hòa Hải
|
2015
|
Hòa Hải
|
105
|
Đặng Thị Điu
|
1920
|
Phương Điền
|
1995
|
Phương Điền
|
106
|
Trần Thị Em
|
1918
|
Phương Điền
|
2014
|
Phương Điền
|
107
|
Nguyễn Thị Thơ
|
1899
|
Phương Điền
|
2014
|
Phương Điền
|
108
|
Trần Thị Dụng
|
1912
|
Hà Linh
|
2016
|
Phương Điền
|
109
|
Nguyễn Thị Cháu
|
1926
|
Phương Mỹ
|
2015
|
Phương Mỹ
|
110
|
Nguyễn Thị Em
|
1915
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
111
|
Nguyễn Thị Điu
|
1875
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
112
|
Nguyễn Thị Quế
|
1904
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
113
|
Nguyễn Thị Nữ
|
1934
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
114
|
Nguyễn Thị Hương
|
1865
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
115
|
Nguyễn Thị Nãi
|
1920
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
116
|
Phan Thị Đích
|
1867
|
Hà Linh
|
1995
|
Hà Linh
|
117
|
Thái Thị Lương
|
1922
|
Hà Linh
|
2014
|
Hà Linh, còn sống tại thôn 8
|
118
|
Ngô Thị Trang
|
1919
|
Hà Linh
|
2015
|
Hà Linh
|
119
|
Đặng Thị Hệ
|
1878
|
Hà Linh
|
2016
|
Hà Linh
|
120
|
Nguyễn Thị Ngân
|
1920
|
Hương Giang
|
1995
|
Hương Giang
|
121
|
Hoàng Thị Nhất
|
1925
|
Hương Giang
|
1995
|
Hương Giang
|
122
|
Trần Thị Yên
|
1924
|
Hương Giang
|
1995
|
Hương Giang
|
123
|
Lê Thị Con
|
1922
|
Hương Xuân
|
2016
|
Phú Phong
|
124
|
Hà Thị Tuề
|
1916
|
Hương Lâm
|
2021
|
Hương Lâm
|
125
|
Nguyễn Thị Hạo
|
1919
|
Hương Đô
|
2021
|
Hương Đô
|
IV. DANH SÁCH CÁN BỘ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG VÀ CÁN BỘ TIỀN KHỞI NGHĨA
1. Danh sách cán bộ Lão thành cách mạng
STT
|
Họ và tên
|
Địa chỉ
|
Ghi chú
|
1
|
Nguyễn Văn Hậu
|
Gia Phố
|
|
2
|
Nguyễn Văn Lĩnh
|
Gia Phố
|
|
3
|
Nguyễn Văn Thư
|
Gia Phố
|
|
4
|
Lê Đường
|
Gia Phố
|
|
5
|
Nguyễn Văn Cầu
|
Gia Phố
|
|
6
|
Trần Văn Thu
|
Gia Phố
|
|
7
|
Lê Thị Tuệ
|
Gia Phố
|
|
8
|
Lê Thị Ba
|
Gia Phố
|
|
9
|
Nguyễn Lý
|
Gia Phố
|
|
10
|
Lê Tư
|
Gia Phố
|
|
11
|
Nguyễn Quốc Nhiếp
|
Hà Linh
|
|
12
|
Nguyễn Quốc Xướng
|
Hà Linh
|
|
13
|
Nguyễn Đình Lợi
|
Hà Linh
|
|
14
|
Trần Đình Gia
|
Hà Linh
|
|
15
|
Nguyễn Đình Niên
|
Hà Linh
|
|
16
|
Phan Văn Lộc
|
Hà Linh
|
|
17
|
Hồ Sỹ Tước
|
Hà Linh
|
|
18
|
Nguyễn Đình Xương
|
Hà Linh
|
|
19
|
Nguyễn Đình Tục
|
Hà Linh
|
|
20
|
Trần Đình Gia
|
Hà Linh
|
|
21
|
Ngô Lập
|
Hà Linh
|
|
22
|
Nguyễn Đình Lợi
|
Hà Linh
|
|
23
|
Ngô Sanh
|
Hà Linh
|
|
24
|
Nguyễn Quốc Huyến
|
Hà Linh
|
|
25
|
Dương Miện
|
Hà Linh
|
|
26
|
Nguyễn Thị Thỉu
|
Hà Linh
|
|
27
|
Hồ Sỹ Cung
|
Hà Linh
|
|
28
|
Nguyễn Đình Khánh
|
Hà Linh
|
|
29
|
Nguyễn Đình Lũy
|
Hà Linh
|
|
30
|
Nguyễn Hào
|
Hà Linh
|
|
31
|
Nguyễn Phương
|
Hà Linh
|
|
32
|
Nguyễn Hữu Ích
|
Hà Linh
|
|
33
|
Lê Cách
|
Hà Linh
|
|
34
|
Nguyễn Đình Dực
|
Hà Linh
|
|
35
|
Nguyễn Quốc Duật
|
Hà Linh
|
|
36
|
Phan Tục
|
Hà Linh
|
|
37
|
Trần Lạc
|
Hà Linh
|
|
38
|
Phan Hoài
|
Hà Linh
|
|
39
|
Lê Thừa
|
Hà Linh
|
|
40
|
Phan Đức
|
Hà Linh
|
|
41
|
Nguyễn Hương
|
Hà Linh
|
|
42
|
Trần Gia
|
Hà Linh
|
|
43
|
Phạm Tân
|
Hà Linh
|
|
44
|
Hồ Sỹ Thuỷ
|
Hà Linh
|
|
45
|
Lê Quế
|
Hà Linh
|
|
46
|
Đinh Thiện
|
Hà Linh
|
|
47
|
Lê Chức
|
Hà Linh
|
|
48
|
Đặng Thị Xuân Hương
|
Hà Linh
|
|
49
|
Đinh Văn Ba
|
Hà Linh
|
|
50
|
Phạm Đường
|
Hà Linh
|
|
51
|
Nguyễn Đình Bảng
|
Hà Linh
|
|
52
|
Phan Thị Tư
|
Hà Linh
|
|
53
|
Phan Dương
|
Hà Linh
|
|
54
|
Hồ Sỹ Hạ
|
Hà Linh
|
|
55
|
Hồ Sỹ Cầu
|
Hà Linh
|
|
56
|
Nguyễn Xuân Ý
|
Hà Linh
|
|
57
|
Trần Đình Suất
|
Hà Linh
|
|
58
|
Trần Đình Khuông
|
Hà Linh
|
|
59
|
Ngô Phái
|
Hà Linh
|
|
60
|
Nguyễn Quốc Thống
|
Hà Linh
|
|
61
|
Trần Thị Em
|
Hà Linh
|
|
62
|
Nguyễn Quốc Lộc
|
Hà Linh
|
|
63
|
Phan Thị Nại
|
Hà Linh
|
|
64
|
Phan Gia Thất
|
Hà Linh
|
|
65
|
Hồ Sỹ Huỳnh
|
Hà Linh
|
|
66
|
Cao Văn Duyệt
|
Hà Linh
|
|
67
|
Phạm Tình
|
Hà Linh
|
|
68
|
Trần Cừ
|
Hà Linh
|
|
69
|
Hồ Sỹ Ngụ
|
Hà Linh
|
|
70
|
Hồ Sỹ Ba
|
Hà Linh
|
|
71
|
Hồ Sỹ Dinh
|
Hà Linh
|
|
72
|
Đào Thuyên
|
Hoà Hải
|
|
73
|
Trần Chất
|
Hoà Hải
|
|
74
|
Nguyễn Văn Lê
|
Hòa Hải
|
|
75
|
Nguyễn Văn Nghĩa
|
Hòa Hải
|
|
76
|
Nguyễn Kiêu
|
Hòa Hải
|
|
77
|
Dương Trạch
|
Hương Bình
|
|
78
|
Dương Phương
|
Hương Bình
|
|
79
|
Trần Sinh
|
Hương Bình
|
|
80
|
Trần Hữu Rạng
|
Hương Bình
|
|
81
|
Lê Văn Chức
|
Hương Bình
|
|
82
|
Dương Cán
|
Hương Bình
|
|
83
|
Trần Lượng
|
Hương Bình
|
|
84
|
Đinh Khoa
|
Hương Đô
|
|
85
|
Nguyễn Nho Trân
|
Hương Đô
|
|
86
|
Đinh Văn Phúc
|
Hương Đô
|
|
87
|
Mai Xuân Quế
|
Hương Đô
|
|
88
|
Nguyễn Hai
|
Hương Đô
|
|
89
|
Đinh Thường
|
Hương Đô
|
|
90
|
Phan Kỷ
|
Hương Đô
|
|
91
|
Phan Nhân
|
Hương Đô
|
|
92
|
Đinh Lai
|
Hương Đô
|
|
93
|
Đinh Hiếu
|
Hương Đô
|
|
94
|
Đinh Yên
|
Hương Đô
|
|
95
|
Nguyễn Nho Thước
|
Hương Đô
|
|
96
|
Hoàng Viết Ba
|
Hương Đô
|
|
97
|
Nguyễn Quyền
|
Hương Đô
|
|
98
|
Đinh Giáp
|
Hương Đô
|
|
99
|
Nguyễn Doa
|
Hương Đô
|
|
100
|
Hoàng Viết Bình
|
Hương Đô
|
|
101
|
Mai Xuân Khanh
|
Hương Đô
|
|
102
|
Trần Minh
|
Hương Đô
|
|
103
|
Đinh Lý
|
Hương Đô
|
|
104
|
Nguyễn Viết Ngư
|
Hương Đô
|
|
105
|
Biện Thị Hạc
|
Hương Đô
|
|
106
|
Đinh Lệ
|
Hương Đô
|
|
107
|
Lê Sương
|
Hương Giang
|
|
108
|
Đinh Thiệu
|
Hương Lâm
|
|
109
|
Trần Nhu
|
Hương Liên
|
|
110
|
Nguyễn Viết Huyên
|
Hương Long
|
|
111
|
Đường Chước
|
Hương Long
|
|
112
|
Phan Lụ
|
Hương Long
|
|
113
|
Hoàng Thuật
|
Hương Long
|
|
114
|
Võ Nghiêm
|
Hương Long
|
|
115
|
Phan Xuân Tình
|
Hương Long
|
|
116
|
Trần Ngôn
|
Hương Long
|
|
117
|
Trần Ngự
|
Hương Long
|
|
118
|
Phan Tuân
|
Hương Long
|
|
119
|
Hoàng Cơ
|
Hương Long
|
|
120
|
Phan Đích
|
Hương Long
|
|
121
|
Mai Cách
|
Hương Long
|
|
122
|
Phan Lâm
|
Hương Thủy
|
|
123
|
Đặng Bá Trân
|
Hương Thuỷ
|
|
124
|
Bạch Đình Nợm
|
Hương Thuỷ
|
|
125
|
Phạm Quang Nậm
|
Hương Thuỷ
|
|
126
|
Bạch Vân
|
Hương Thủy
|
|
127
|
Phan Duy Xán
|
Hương Thủy
|
|
128
|
Nguyễn Văn Đề
|
Hương Thủy
|
|
129
|
Bạch Đình Tam
|
Hương Thủy
|
|
130
|
Bạch Lân
|
Hương Thủy
|
|
131
|
Tô Quang
|
Hương Thủy
|
|
132
|
Đặng Lê
|
Hương Thủy
|
|
133
|
Nguyễn Như Hải
|
Hương Thủy
|
|
134
|
Đặng Huy
|
Hương Thủy
|
|
135
|
Phan Võ
|
Hương Thủy
|
|
136
|
Tô Mai
|
Hương Thủy
|
|
137
|
Đặng Thị Ba
|
Hương Thủy
|
|
138
|
Phan Thị Nhỏ
|
Hương Thủy
|
|
139
|
Bạch Thị Miềng
|
Hương Thủy
|
|
140
|
Võ Viết Hướng
|
Hương Thủy
|
|
141
|
Bạch Đình Nhơn
|
Hương Thủy
|
|
142
|
Phan Thị Bốn
|
Hương Thủy
|
|
143
|
Bạch Đình Thung
|
Hương Thủy
|
|
144
|
Nguyễn Tam Lược
|
Hương Trạch
|
|
145
|
Trần Đình
|
Hương Trạch
|
|
146
|
Trần Trác
|
Hương Trạch
|
|
147
|
Thái Bá Khương
|
Hương Vĩnh
|
|
148
|
Phan Văn Dũng
|
Hương Vĩnh
|
|
149
|
Trần Phẩm
|
Hương Vĩnh
|
|
150
|
Thái Bá Meo
|
Hương Vĩnh
|
|
151
|
NguyễnTrọngLương
|
Hương Vĩnh
|
|
152
|
Trần Lệ
|
Hương Vĩnh
|
|
153
|
Phan Đạt
|
Hương Vĩnh
|
|
154
|
Lê Da
|
Hương Vĩnh
|
|
155
|
Phan Hạt
|
Hương Vĩnh
|
|
156
|
Trần Bang
|
Hương Vĩnh
|
|
157
|
Trần Viết Can
|
Hương Vĩnh
|
|
158
|
Đinh Văn San
|
Hương Xuân
|
|
159
|
Lê Vạn Sách
|
Hương Xuân
|
|
160
|
Lê Huy
|
Hương Xuân
|
|
161
|
Phan Trúc
|
Hương Xuân
|
|
162
|
Nguyễn Lòng
|
Hương Xuân
|
|
163
|
Lê Phó Hoàn
|
Hương Xuân
|
|
164
|
Lê Hữu Kha
|
Hương Xuân
|
|
165
|
Nguyễn Đát
|
Hương Xuân
|
|
166
|
Lê Ba
|
Hương Xuân
|
|
167
|
Lê Bích (Lê Xuân Liện)
|
Hương Xuân
|
|
168
|
Trịnh Trí
|
Hương Xuân
|
|
169
|
Lê Thị Lành
|
Hương Xuân
|
|
170
|
Đinh Văn Tiến
|
Hương Xuân
|
|
171
|
Hà Huy Thắng
|
Hương Xuân
|
|
172
|
Lê Khuê
|
Hương Xuân
|
|
173
|
Nguyễn Lực
|
Hương Xuân
|
|
174
|
Trần Dinh
|
Hương Xuân
|
|
175
|
Mai Phi
|
Lộc Yên
|
|
176
|
Nguyễn Văn Đại
|
Lộc Yên
|
|
177
|
Nguyễn Văn Tư
|
Lộc Yên
|
|
178
|
Đinh Tình
|
Lộc Yên
|
|
179
|
Cao Huy Cận
|
Lộc Yên
|
|
180
|
Trần Đình Triện
|
Phú Gia
|
|
181
|
Hà Quang Trắc
|
Phú Gia
|
|
182
|
Lê Khắc Úy
|
Phú Gia
|
|
183
|
Trần Nỷ
|
Phú Gia
|
|
184
|
Ngô Tuân
|
Phú Gia
|
|
185
|
Lê Khắc Khương
|
Phú Gia
|
|
186
|
Ngô Miền
|
Phú Gia
|
|
187
|
Ngô Dai (Ngô Lai)
|
Phú Gia
|
|
188
|
Ngô Bệ
|
Phú Gia
|
|
189
|
Nguyễn Hồng Dược
|
Phú Gia
|
|
190
|
Lê Kịch
|
Phú Gia
|
|
191
|
Phạm Dinh
|
Phú Gia
|
|
192
|
Phan Tường
|
Phú Gia
|
|
193
|
Phan Văn Đại
|
Phú Phong
|
|
194
|
Lê Hữu Hoát
|
Phú Phong
|
|
195
|
Lê Hữu Kiêm
|
Phú Phong
|
|
196
|
Nguyễn Văn Chữ
|
Phú Phong
|
|
197
|
Nguyễn Kim Tùng
|
Phú Phong
|
|
198
|
Lê Danh Chế
|
Phú Phong
|
|
199
|
Phan Chân
|
Phú Phong
|
|
200
|
Phan Bá Đợi
|
Phú Phong
|
|
201
|
Nguyễn Xuân San
|
Phú Phong
|
|
202
|
Nguyễn Xuân Trạch
|
Phú Phong
|
|
203
|
Nguyễn Lan
|
Phú Phong
|
|
204
|
Lê Danh Dương
|
Phú Phong
|
|
205
|
Ngô Vinh
|
Phú Phong
|
|
206
|
Lê Em
|
Phú Phong
|
|
207
|
Lê Xiển
|
Phú Phong
|
|
208
|
Trần Xuân Cần
|
Phú Phong
|
|
209
|
Hồ Sỹ Mẫu
|
Phúc Đồng
|
|
210
|
Võ Văn Lý
|
Phúc Đồng
|
|
211
|
Phạm Xuân Nghị
|
Phúc Đồng
|
|
212
|
Ngô Hoạch
|
Phúc Đồng
|
|
213
|
Đặng Chín
|
Phúc Đồng
|
|
214
|
Đặng Ý
|
Phúc Đồng
|
|
215
|
Phan Quỳ
|
Phúc Đồng
|
|
216
|
Đặng Văn Đạo
|
Phúc Đồng
|
|
217
|
Đặng Văn Giáo
|
Phúc Đồng
|
|
218
|
Đinh Thị Huệ
|
Phúc Trạch
|
|
219
|
Đinh Văn Hoà
|
Phúc Trạch
|
|
220
|
Biện Trọng Dụ
|
Phúc Trạch
|
|
221
|
Phan Xưng
|
Phúc Trạch
|
|
222
|
Nguyễn Thị Sáu
|
Phúc Trạch
|
|
223
|
Võ Tá Lượng
|
Phúc Trạch
|
|
224
|
Cao Tài
|
Phúc Trạch
|
|
225
|
Võ Tá Chúc
|
Phúc Trạch
|
|
226
|
Lê Kiền
|
Phúc Trạch
|
|
227
|
Trần Văn Thảo
|
Phúc Trạch
|
|
228
|
Lê Kiền
|
Phúc Trạch
|
|
229
|
Hồ Đức Thiêm
|
Phúc Trạch
|
|
230
|
Phan Ngọc Bá
|
Phúc Trạch
|
|
231
|
Bùi Thác
|
Phúc Trạch
|
|
232
|
Ngô Mười
|
Phương Điền
|
|
233
|
Trần Quế
|
Phương Điền
|
|
234
|
Trần Hữu Châu
|
Phương Điền
|
|
235
|
Phạm Tư
|
Phương Mỹ
|
|
236
|
Nguyễn Phượng
|
Phương Mỹ
|
|
237
|
Ngô Xuân Áng
|
Phương Mỹ
|
|
238
|
Lê Đình Thịnh
|
Gia Phố
|
|
239
|
Ngô Khoách
|
Hà Linh
|
|
240
|
Mai Minh
|
Hương Long
|
|
241
|
Đoàn Khắc Tịnh
|
Hương Long
|
|
242
|
Mai Bân
|
Hương Long
|
|
243
|
Đậu Nhạ
|
Hương Long
|
|
244
|
Trần Chính
|
Hương Long
|
|
245
|
Nguyễn Văn Vận
|
Hương Xuân
|
|
246
|
Lê Danh Thành
|
Hương Long
|
|
247
|
Phan Duy Đoan
|
Hương Long
|
|
248
|
Trần Đình Thù
|
Hương Xuân
|
|
249
|
Ngô Hạp
|
Hà Linh
|
|
250
|
Đặng Văn Chiếu
|
Phúc Đồng
|
|
251
|
Bùi Quế
|
Hương Long
|
|
252
|
Hồ Đức Cơ
|
Điền Mỹ
|
|
253
|
Phạm Hào
|
Hương Thọ, Vũ Quang
|
|
254
|
Trần Chinh
|
Hương Long
|
|
255
|
Phạm Viết Cường
|
Hương Thọ, Vũ Quang
|
|
256
|
Võ Văn Thống
|
Phúc Đồng
|
|
257
|
Lê Đình An
|
Gia Phố
|
|
258
|
Hán Duy Lê
|
Gia Phố
|
|
259
|
Lê Dỹ
|
Hương Long
|
|
260
|
Mai Dung (Dựng)
|
Hương Long
|
|
261
|
Thái Bá Sỹ
|
Hương Vĩnh
|
|
2. Danh sách cán bộ Tiền khởi nghĩa
TT
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Ghi chú
|
1
|
Phan Bá Kế
|
Gia Phố
|
|
2
|
Trần Xuân Niệm
|
Hà Linh
|
|
3
|
Trần Đình Ý
|
Hà Linh
|
|
4
|
Trần Văn Thứ
|
Hà Linh
|
|
5
|
Trần Văn Sơn
|
Hà Linh
|
|
6
|
Hồ Sỹ Đăng
|
Hà Linh
|
|
7
|
Hồ Sỹ Hoạt
|
Hà Linh
|
|
8
|
Nguyễn Đình Miên
|
Hà Linh
|
|
9
|
Hồ Sỹ Bình
|
Hà Linh
|
|
10
|
Đậu Đình Huệ
|
Hòa Hải
|
|
11
|
Bạch Xuân Điều
|
Hòa Hải
|
|
12
|
Trần Văn Hào
|
Hương Bình
|
|
13
|
Trần Hiên
|
Hương Bình
|
|
14
|
Đinh Vỵ
|
Hương Đô
|
|
15
|
Trần Quốc Lĩnh
|
Hương Đô
|
|
16
|
Trần Quyên
|
Hương Liên
|
|
17
|
Cù Đình Đạo
|
Hương Long
|
|
18
|
Phan Duy Niêm
|
Hương Long
|
|
19
|
Nguyễn Quốc Thước
|
Hương Long
|
|
20
|
Võ Tá Minh
|
Hương Long
|
|
21
|
Trần Đình Truyện
|
Hương Long
|
|
22
|
Trần Kim Bích
|
Hương Thủy
|
|
23
|
Bạch Đình Tính
|
Hương Thủy
|
|
24
|
Đặng Bá Yên
|
Hương Thủy
|
|
25
|
Bạch Đình Khoan
|
Hương Thủy
|
|
26
|
Phan Tuần
|
Hương Thủy
|
|
27
|
Nguyễn Tấn Tiến
|
Hương Thủy
|
|
28
|
Phạm Quang Lợi
|
Hương Thủy
|
|
29
|
Phan Khai
|
Hương Thủy
|
|
30
|
Phan Thị Loan
|
Hương Thủy
|
|
31
|
Phan Thế Trọng
|
Hương Thủy
|
|
32
|
Phan Trọng Trình
|
Hương Thủy
|
|
33
|
Lê Hữu Lục
|
Hương Thủy
|
|
34
|
Nguyễn Xuân
|
Hương Thủy
|
|
35
|
Phạm Quang Bật
|
Hương Thủy
|
|
36
|
Nguyễn Tư Nghĩa
|
Hương Thủy
|
|
37
|
Đinh Văn Duyệt
|
Hương Trạch
|
|
38
|
Phan Hiến
|
Hương Trạch
|
|
39
|
Đinh Huy
|
Hương Trạch
|
|
40
|
Lê Văn Đoan
|
Hương Vĩnh
|
|
41
|
Bùi Thị Dịnh
|
Hương Vĩnh
|
|
42
|
Phan Văn Huệ
|
Hương Xuân
|
|
43
|
Nguyễn Văn Hảo
|
Lộc Yên
|
|
44
|
Trần Đình Chức
|
Lộc Yên
|
|
45
|
Nguyễn Ninh
|
Lộc Yên
|
|
46
|
Hoàng Công Thuyến
|
Phú Gia
|
|
47
|
Lê Khắc Biền
|
Phú Gia
|
|
48
|
Lưu Hồng Tự
|
Phú Gia
|
|
49
|
Phan Đình Vinh
|
Phú Gia
|
|
50
|
Lê Thị Liêm
|
Phú Phong
|
|
51
|
Lê Hữu Mận
|
Phú Phong
|
|
52
|
Lê Hữu Hoà
|
Phú Phong
|
|
53
|
Nguyễn Thân
|
Phúc Trạch
|
|
54
|
Đoàn Đào
|
Phúc Trạch
|
|
55
|
Trần Mịch
|
Phúc Trạch
|
|
56
|
Võ Văn Tuyên
|
Phúc Trạch
|
|
57
|
Trần Đức Long
|
Phúc Trạch
|
|
58
|
Nguyễn Hữu Giác
|
Phúc Trạch
|
|
59
|
Võ Văn Bính
|
Phúc Trạch
|
|
60
|
Đinh Duyệt
|
Phúc Trạch
|
|
61
|
Phan Huy Đại
|
Phúc Trạch
|
|
62
|
Dương Đức Cơ
|
Phúc Trạch
|
|
63
|
Mai Thị Bảy
|
Phúc Trạch
|
|
64
|
Lê Phương
|
Phúc Trạch
|
|
65
|
Nguyễn Chi
|
Phúc Trạch
|
|
66
|
Trần Hữu Hộ
|
Điền Mỹ
|
|
67
|
Nguyễn Khắc Như
|
Điền Mỹ
|
|
68
|
Nguyễn Văn Phẩm
|
Điền Mỹ
|
|
69
|
Nguyễn Văn Danh
|
Điền Mỹ
|
|
70
|
Nguyễn Đình Lộc
|
Điền Mỹ
|
|
71
|
Phạm Thị Chuyên
|
Gia Phố
|
|
72
|
Đinh Dục
|
Hương Lâm
|
|
73
|
Phan Văn Tựa
|
Hương Thủy
|
|
74
|
Lê Đình Thăng
|
Gia Phố
|
|
75
|
Nguyễn Sơn Tùng
|
Phúc Đồng
|
|
76
|
Đoàn Doãn Thành
|
Hương Thủy
|
|
77
|
Bùi Tính
|
Phúc Trạch
|
|
78
|
Lê Công Thịnh
|
Phúc Trạch
|
|
79
|
Cao Xuân Việt
|
Hà Linh
|
|
80
|
Đoàn Doãn Toàn
|
Hương Thủy
|
|
81
|
Lê Thị Tuệ
|
Gia Phố
|
|
82
|
Nguyễn Thị Long
|
Hương Long
|
|
83
|
Đặng Bá Phụng
|
Hương Thủy
|
|
84
|
Bùi Hoằng
|
Phúc Trạch
|
|
V. CÁN BỘ CẤP TƯỚNG TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
TT
|
Họ và tên
|
Cấp bậc
|
Quê quán
|
Chức vụ cao nhất
|
1
|
Phạm Huy Chưởng
|
Thiếu tướng
|
Lộc Yên
|
Phó Tư lệnh QK IV, Đại biểu Quốc hội khóa X; Thường vụ Đảng ủy QK IV,
|
2
|
Thái Xuân Dương
|
Thiếu tướng
|
Phương Điền
|
Phó chính ủy Tổng cục kỹ thuật
|
3
|
Trần Tiến Dũng
|
Thiếu tướng
|
Lộc Yên
|
Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị QK IV
|
4
|
Nguyễn Hữu Quang
|
Thiếu tướng
|
Lộc Yên
|
Phó tư lệnh Bộ tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an
|
5
|
Hồ Sỹ Long
|
Thiếu tướng
|
Hà Linh
|
Phó Giám đốc học viện Chính trị CAND
|
6
|
Đặng Hồng Thanh
|
Thiếu tướng
|
Gia Phố
|
Học viện Lục quân Đà Lạt
|
VI. NGƯỜI HƯƠNG KHÊ LÀ ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ THAM GIA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CÁC KHÓA
TT
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Chức vụ
|
Khóa
|
1
|
Nguyễn Văn Đường
|
Hương Thủy
|
Đội trưởng đội khai thác gỗ lâm trường Chúc A, Anh hùng Lao động
|
IV, V
|
2
|
Nguyễn Thị Hường
|
Gia Phố
|
Công nhân xây dựng
|
V, VI, VII
|
3
|
Từ Danh Thứ
|
Nam Cường, Nam Đàn, Nghệ An
|
Đội trưởng đội cầu 1, Công ty Quốc doanh đường goòng Tịnh Bình
|
III
|
4
|
Nguyễn Thị Tuyết Nga
|
Hòa Hải
|
Vụ phó vụ GD - VH Thanh Thiếu niên nhi đồng, Văn phòng Quốc hội
|
XI,
|
5
|
Ngô Đức Mạnh
|
Hương Thủy
|
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Thành viên BCĐ Nhà nước về thông tin đối ngoại, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Nghị viện châu Âu, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Hy Lạp, Đại sứ Đặc quyền tại Liên Bang Nga.
|
XII, XIII
|
6
|
Hoàng Trung Dũng
|
Hương Long
|
Ủy viên Trung ương Đảng
|
Khóa XIII
|
Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự, Chủ tịch HĐND, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh
|
Khóa XV
|
VII. NGƯỜI HƯƠNG KHÊ VÀ LÃNH ĐẠO HUYỆN HƯƠNG KHÊ THAM GIA BAN CHẤP HÀNH, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY CÁC KHÓA
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Thời gian tham gia BCH, BTV Tỉnh ủy
|
1
|
Nguyễn Tuy
|
Bí thư, Chủ tịch UB huyện Hương khê
|
UVBCH
Năm 1945
|
2
|
Nguyễn Văn Sáng
|
Bí thư, Chủ tịch UB huyện Hương Khê
|
UVBCH
Năm 1948
|
3
|
Trần Đình Hậu
|
Bí thư Huyện ủy huyện Hương Khê
|
UVBCH
Năm 1956
|
4
|
Nguyễn Văn Cung
|
Bí thư Huyện ủy huyện Hương Khê
|
UVBCH
Từ năm 1959 - 1961
|
5
|
Đặng Tỵ
|
Bí thư Huyện ủy huyện Hương Khê
|
UVBCH
Từ năm 1961 - 1964
|
6
|
Phan Văn Đệ
|
Bí thư Huyện ủy huyện Hương Khê
|
UVBCH
Từ năm 1979 - 1983
|
7
|
Phan Văn Quý
|
Chủ tịch UBND huyện Hương Khê
|
UVBCH
Khóa XIII, NK1992 - 1996
Khóa XIV, NK 1996 - 2000
|
8
|
Phan Văn Chúc
|
Trưởng Ban Tổ chức chính quyền tỉnh Hà Tĩnh
|
UVBCH
Khóa XIII, NK 1992 - 1996
|
|
|
Phó chủ tịch HĐND tỉnh
|
UVBTV,
Khóa XIV, NK 1996 - 2000
|
9
|
Võ Hồng Tuyên
|
Chỉ huy trưởng BCH Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh
|
UVBCH,
Khóa XIII, NK 1992 - 1996
Khóa XIV, NK 1996 - 2000
|
10
|
Nguyễn Kim Kiệm
|
Bí thư Huyện ủy Hương Khê
|
UVBCH
Khóa XV, NK 2000 - 2005
|
11
|
Phan Thị Tập
|
Bí thư Huyện ủy Hương Khê
Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Hà Tĩnh
|
UVBCH
Khóa XVI, NK 2005 - 2010;
Khóa XVII, NK 2010 - 2015
|
12
|
Hoàng Trung Dũng
|
Bí thư Tỉnh đoàn, Chủ tịch Hội LHTN tỉnh Hà Tĩnh (7/2005 - 4/2008)
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Tĩnh (4/2008 - 5/2010)
Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh (5/2010 - 11/2010)
|
UVBCH
Khóa XVI, NK 2005 - 2010
|
Chánh Văn Phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (11/2010 - 7/2014)
UV BTV, Bí thư Thành ủy Hà Tĩnh (7/2014 - 4/2016)
|
UVBCH
Khóa XVII, NK 2010 - 2015
|
Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy (2016 - 2019)
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh (3/2019 -10/2020)
|
UVBTV,
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
|
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Chủ tịch HĐND tỉnh (11/2020)
|
UV BCH Trung ương Đảng khóa XIII
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Khóa XIX, NK 2020 - 2025
|
13
|
Hà Văn Hùng
|
Bí thư Tỉnh đoàn, Chủ tịch Hội LHTN tỉnh Hà Tĩnh (bổ sung tháng 3/2009)
Bí thư Huyện ủy Hương Khê (3/2011 - 5/2015)
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Tỉnh ủy (5/2015 - 6/2016).
Chánh VP Tỉnh ủy (6/2016 - 9/2018)
UVBTV, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Hà Tĩnh (10/2018 - 11/2020)
Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh (từ tháng11/2020).
|
UVBCH
Khóa XVI, NK 2005 - 2010
Khóa XVII, NK 2010 - 2015
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
UVBTV
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
Khóa XIX, NK 2020 - 2025
|
14
|
Đinh Hữu Tân
|
Bí thư Huyện ủy Hương Khê
|
UVBCH
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
|
15
|
Đặng Thanh Hải
|
Chánh Văn phòng Tỉnh ủy (11/2015 - 6/2016)
Bí thư Thị ủy Hồng Lĩnh
(6/2016 - 10/2022)
Phó Chủ nhiệm trực UBKT (từ tháng 10/2022)
|
UVBCH
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
Khóa XIX, NK 2020 - 2025
|
16
|
Lê Ngọc Huấn
|
Bí thư Huyện ủy Hương Khê (8/2010 - 10/2022)
Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Hà Tĩnh (từ tháng 10/2022)
|
UVBCH
Khóa XIX, NK 2020 - 2025
|
17
|
Nguyễn Thanh Điện
|
Chánh văn phòng Tỉnh uỷ
Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Hà Tĩnh
Bí thư Huyện ủy Hương Khê (từ 19/10/2022)
|
UVBCH
Khóa XVIII, NK 2015 - 2020
Khóa XIX, NK 2020 - 2025
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trưc thuộc Bộ Chính trị. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thưc dân Pháp, thắng lợi và bài học. NXB Chính trị quốc gia, HN, 1996. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trưc thuộc Bộ Chính trị. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thắng lợi và bài học. NXB Chính trị quốc gia, HN, 1995. Bác Hồ với Hà Tĩnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đặng Duy Báu (chủ biên), Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Hoàng Văn Khoán, Ngô Đăng Tri: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh - T1 (1930 - 1954), NXB Chính trị quốc gia, HN, 1993. Đặng Duy Báu (chủ biên), Đinh Xuân Lâm, Ngô Đăng Tri, Nguyễn Xuân Đình, Trần Quang Trung: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh - T2 (1954 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, HN, 1997. Đặng Duy Báu (chủ biên), Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trương Hữu Quýnh, Hoàng Văn Khoán, Ngô Đăng Tri: Lịch sử Hà Tĩnh, T1 (1930- 1954). NXB Chính trị quốc gia, HN, 2000 Đặng Duy Báu (chủ biên), Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Hoàng Văn Khoán, Ngô Đăng Tri: Lịch sử Hà Tĩnh, T2, (1954 - 2000). NXB Chính trị quốc gia, HN, 2001 Đặng Duy Báu (chủ biên), Ngô Đăng Tri. Lịch sử Trường Chính trị Hà Tĩnh (1945- 2000). NXB Chính trị quốc gia, HN, 2003. Bộ CHQS Hà Tĩnh Đơn vị, cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, 1996. Công an huyện Hương Khê, Lịch sử Công an huyện Hương Khê (1945 - 2017), NXB Nghệ An, 2018. Chi cục Thống kê huyện Hương Khê, Niên giám thống kê huyện Hương Khê, các năm từ 2000 - 2020. HT 2021. Phạm Hồng Chương (chủ biên), Ngô Đăng Tri, Trần Minh Trưởng, Nguyễn Danh Tiên, Ngô Xuân Tuất, Trần Quang Trung: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh - T3 (1975 - 2010), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN, 2011. Phan Đại Doãn: Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội và Nxb Mũi Cà Mau, 1992. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Nxb Khoa học xã hội, HN 1974, tr. 74. Thái Kim Đỉnh: Tác gia Hán Nôm Nghệ Tĩnh. Thư viện Hà Tĩnh, 1996 Thái Kim Đỉnh Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh. Hội LH VHNT Hà Tĩnh, 2004. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên), Võ Hồng Huy, Đậu Khoa Toàn : Vũ Quang xưa và nay. HT, 2005. Nguyễn Bá Thành, Ngô Đăng Tri (đồng chủ biên), Địa chí Hương Khê, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017. Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Hà Tĩnh: Những người con Hà Tĩnh trên mọi miền Tổ quốc (1945 - 2012), NXB Tri thức, HN, 2013. Đảng bộ huyện Hương Khê (Ngô Đăng Tri biên soạn) Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 – 2000). NXB Chính gịa quốc gia, HN. 2003. Phùng Hữu Phú (chủ biên), Dương Kinh Quốc, Ngô Đăng Tri, Phạm Xuân Hằng, Trần Kim Đỉnh: Lịch sử Đường sắt Việt Nam, NXB Lao động, HN, 1994. Phùng Hữu Phú (chủ biên), Trần Kim Đỉnh, Ngô Đăng Tri. Lịch sử Đường sắt Việt Nam (tái bản có bổ sung đến 2006). NXB Chính trị quốc gia, HN, 2006. Phòng Giáo dục và đào tạo Hương Khê, Lịch sử giáo dục Hương Khê, Sở TT và TT Hà Tĩnh, 2008. Sở VHTT Hà Tĩnh (Trần Tấn Hành chủ biên): Di tích danh thắng Hà Tĩnh, HT, 1997. Sở VHTT Hà Tĩnh - Nhiều tác giả: Danh nhân Hà Tĩnh Tập I. HT, 1998 Nguyễn Bá Thành: Hương Khê văn hóa - danh thắng, Sở văn hóa Thông Tin - Truyền thông, HT, 2017. Nguyễn Bá Thành (chủ biên), Ngô Đăng Tri: Hương Khê 135 năm (1867 - 2002), NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2003. Nguyễn Trọng Thụ Kể thêm về người và đất Hà Tĩnh, NXB Đại học Quốc gia HN, 2014. Nguyễn Phú Trọng. Đổi mới và phát triển- những vấn đề lý luận và thưc tiễn. NXB Chính trị quốc gia, HN, 2006. Ngô Đăng Tri: Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Ngô Đăng Tri. 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), những chặng đường lịch sử. NXB TT&TT, 2010. Ngô Đăng Tri. Tiến trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1930- 2016), Nxb TT&TT, HN, 2016. Ngô Đăng Tri: Tiến trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1930- 2021). NXB TT & TT, HN, 2021. Viện Lịch sử Đảng. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam T1 (1930- 1954). NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, HN, 2018. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975. NXB Chính trị quóc gia, HN, 1996. Viện Sử học Việt Nam. Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945- 1975). NXB Giáo dục. HN, 2003. Viện Sử học Việt Nam. Việt Nam những sự kiện lịch sử (1975- 2000). NXB Giáo dục. HN, 2007.
Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng những tài liệu khác như: Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê, Báo cáo tổng kết hàng năm của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê và các phòng ban lưu tại Kho lưu trữ của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện.
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU.. 3
CHƯƠNG MỞ ĐẦU. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI HUYỆN HƯƠNG KHÊ.. 5
I. TỰ NHIÊN VÀ HÀNH CHÍNH.. 5
II. DÂN CƯ VÀ XÃ HỘI 9
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC.. 15
CHƯƠNG I. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG CHỐNG ĐẾ QUỐC, PHONG KIẾN (1930 - 1931) 23
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ VÀ ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG BỘ.. 23
II. LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930 - 1931) 28
CHƯƠNG II. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1932 - 1945) 43
I. LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC PHONG TRÀO, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG (1932 - 1939) 43
II. LÃNH ĐẠO CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỰC HIỆN TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945) 48
CHƯƠNG III. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) 67
I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, KHÔI PHỤC ĐẢNG BỘ, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945 - 1946) 67
II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954) 71
CHƯƠNG IV. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1954 - 1965) 88
I. LÃNH ĐẠO HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ (1954 - 1957) 88
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ (1958 - 1960) 94
III. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965) 102
CHƯƠNG V. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN, CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1975) 110
I. LÃNH ĐẠO CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN (1965 - 1968) 110
II. LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ, CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN GIÀNH TOÀN THẮNG (1969 - 1975) 129
CHƯƠNG VI. ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ TRONG 10 NĂM ĐẦU CÙNG CẢ NƯỚC ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1975 - 1985) 151
I. LÃNH ĐẠO CHUYỂN MỌI HOẠT ĐỘNG SANG THỜI KỲ MỚI, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ HAI (1975 - 1980) 151
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ BA (1981 - 1985) 168
CHƯƠNG VII. ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI QUÊ HƯƠNG (1986 - 2000) 175
I. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THEO ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ TƯ (1986 - 1991) 175
II. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (1991 - 2000) 183
CHƯƠNG VIII. ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2000 - 2010) 198
I. PHÁT HUY NỘI LỰC, TRANH THỦ THỜI CƠ, ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI (2000 - 2005) 198
II. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, XÂY DỰNG HƯƠNG KHÊ NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (2005 - 2010) 219
CHƯƠNG IX. ĐẢNG BỘ HƯƠNG KHÊ LÃNH ĐẠO TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG (2010-2020) 242
I. LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG, THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔNG MỚI (2010-2015) 242
II. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC XÂY DỰNG HUYỆN NÔNG THÔN MỚI (2015-2020) 260
KẾT LUẬN.. 291
PHỤ LỤC.. 298
TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 359
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
Địa chỉ: Tầng 4 - Khu A Tòa nhà số 97 Trần Quốc Toản - Hoàn Kiếm - Tp HN
Điện thoại: 024 38515380; Fax: 024 38515381
Email: info@nxblaodong.com.vn
Website: www.nxblaodong.com.vn
Chi nhánh phía Nam
Số 85 Cách mạng Tháng Tám, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh
ĐT: 028 38390970; Fax: 028 39257205
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng biên tập
Mai Thị Thanh Hằng
Biên tập: Mai Thị Thanh Hằng
Trình bày: Nguyễn Thị Lệ Quyên
Bìa: Nguyễn Thị Lệ Quyên
Sửa bản in: Trịnh Thị Dung
BIÊN SOẠN VÀ LIÊN KẾT XUẤT BẢN
CÔNG TY CP HỢP TÁC XUẤT BẢN TRUYỀN THÔNG QUỐC GIA
In 700 cuốn, khổ 16X24CM cm, tại CTCP Mỹ thuật Sáng Tạo Việt
Địa chỉ: Số 01, ngách 65/5/36/37 Lê Đức Thọ, Phú Mỹ, Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Số xác nhận ĐKXB: 4546-2022/CXBIPH/15-263/LĐ
Số quyết định: 1638/QĐ/ -NXBLĐ ngày 23/12/2022
Mã ISBN: 978-604-386-560-8
In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2023
[74] Theo điều tra dân số ngày 01/9/1968, Hương Khê có 63.986 nhân khẩu; điều tra dân số ngày 01/01/1960, huyện có 55.415 nhân khẩu.
69 Các địa phương viết gọn.
[76] VT5 (vận tải tranh thủ tụt thang): ta tranh thủ lúc Mỹ xuống thang, ngừng ném bom miền Bắc để khẩn trương vận chuyển hàng vào chiến trường.
[77] Cầu treo Phúc Đồng đến năm 1975 được khánh thành.
[80] Những chỗ đánh dấu (…) là chưa có số liệu thống kê.
[82] Báo cáo tổng kết năm 1976 của Công trường Thuỷ lợi Kẻ Gỗ, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ - Tĩnh (ngày 3/1/1976).
[84] Báo cáo tình hình hợp tác xã nông nghiệp ngày 14/3/1980, của Tỉnh ủy Nghệ - Tĩnh.
[86] Đến tháng 9/1984, đồng chí Phan Văn Đệ chuyển công tác, đồng chí Nguyễn Xuân Hương quyền Bí thư, đồng chí Trần Khoa làm Chủ tịch thay đồng chí Phan Xuân Bằng đi nhận công tác khác. Tháng 8/1985, đồng chí Nguyễn Xuân Hương làm Bí thưHuyện ủy.
[87] Đợt 2 có 16 huyện, thị, thành là: Thanh Chương, Đức Thọ, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Kỳ Anh, Thị xã Hà Tĩnh, Hương Sơn, Nghi Xuân, Nghi Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê, Anh Sơn, Đô Lương, Can Lộc, Vinh.
[88] Báo cáo tổng kết công tác diễn tập, huấn luyện động viên năm 1985 của Bộ chỉ huy Quân sự Nghệ - Tĩnh, ngày 15/11/1985..
[89] Hội nghị giữa nhiệm kỳ năm 1993 đã bầu bổ sung vào Huyện ủy 4 đồng chí. Tháng 5/1994, đồng chí Nguyễn Văn Chung qua đời, đồng chí Phan Văn Quý làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm làm Phó Bí thư.
1 Trong trận lũ lịch sử này, cùng với tập thể đơn vị, Thượng tá Đặng Quốc Vượng, Thượng tá Nguyễn Công Mạnh, Đại úy Mai Xuân Thủy và Trần Quang Tuyến được tặng thưởng HCCC, bằng khen Chính phủ và Bộ Công an vì những hành động dũng cảm xả thân, cứu dân khỏi vùng lũ.
[100] Tháng 03/2011, đồng chí Hà Văn Hùng - Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn được luân chuyển về giữa chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hoàng Hữu Diễn giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện.
[123] Như: sai phạm đất đai tại hồ Bình Sơn từ măm 1998, tại xã Phú Phong từ năm 2004; trên 400 hộ dân làm nhà trên đất dự án trồng bưởi Phúc Trạch tại xã Phúc Trạch từ năm 1998, tranh chấp 288 ha đất lâm nghiệp tại tiểu khu 195-200 xã Hương Giang từ năm 2010, tranh chấp 388 ha đất lâm nghiệp tại tiểu khu 192 xã Hòa Hải…
[124] Đến năm 2020, toàn huyện có 1.760 máy làm đất, 7.600 máy gặt cầm tay; 71 mô hình sản xuất áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, với diện tích 428,3ha; có 371ha diện tích cây trồng lâu năm được lắp đặt hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.
[133]Trong đó: có 51 lượt em đạt học sinh giỏi quốc gia (tăng 20 lượt em so với nhiệm kỳ trước); 825 lượt em đạt học sinh giỏi tỉnh (tăng 250 lượt em so với giai đoạn trước) và 2.142 lượt học sinh giỏi cấp huyện.
[145] Nhiệm kỳ 2015 - 2020, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện kiểm tra, giám sát, xem xét xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đảm bảo quy trình, chất lượng từng bước được nâng lên. Cấp ủy các cấp đã kiểm tra 551 lượt tổ chức đảng, 238 đảng viên; giám sát chuyên đề 222 lượt tổ chức đảng, 263 đảng viên; thi hành kỷ luật đối với 04 tổ chức đảng, 200 đảng viên. Hoạt động của Ủy ban kiểm tra các cấp có nhiều đổi mới, triển khai thực hiện khá toàn diện các nhiệm vụ theo quy định tại Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao. Trong nhiệm kỳ, chú trọng kiểm tra đảng viên, cấp ủy viên, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý khi có dấu hiệu vi phạm. Ủy ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra 277 lượt tổ chức đảng, 55 đảng viên; giám sát chuyên đề 231 lượt tổ chức đảng, 117 đảng viên; giải quyết tố cáo 10 đảng viên.
1 Tháng 7/2018, đồng chí Trần Quốc Bảo, Trưởng Ban Tuyên giáo kiêm Giám đốc Trung tâm Chính trị huyện; tháng 01/2020 được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND huyện.